TSVN 11

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Anh Thư

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc,

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, chuỗi cung ứng toàn cầu đang trở thành xương sống của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển là những thách thức mới về trách nhiệm xã hội, môi trường và quản trị minh bạch. Các nền kinh tế lớn, trong đó có Liên minh châu Âu (EU) đang từng bước chuyển đổi cách tiếp cận trong quản lý chuỗi cung ứng, không chỉ vì hiệu quả kinh tế mà còn vì các giá trị phát triển bền vững.

Thời gian gần đây, EU và một số quốc gia thành viên như Đức, Pháp, Hà Lan đã ban hành, chuẩn bị thực thi hàng loạt quy định pháp lý mới về

việc giám sát, đánh giá, phòng ngừa các rủi ro liên quan đến quyền con người và môi trường trong chuỗi cung ứng, thường được gọi là thẩm định chuỗi cung ứng.

Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), với đa số các nhà cung cấp Việt Nam, việc thực hiện các trách nhiệm nói trên không phải là thách thức quá lớn do chuẩn pháp luật về lao động và môi trường của Việt Nam đã gần như tương đương với các tiêu chuẩn thẩm

định. Nhiều nhà cung cấp đã quen thuộc với các bộ quy tắc ứng xử của

các đối tác lớn và chi phí để phối hợp triển khai các biện pháp thẩm định chuỗi cung ứng không quá lớn.

Mặc dù vậy, nhà cung cấp Việt Nam cũng có thể gặp khó khăn trong thực hiện các trách nhiệm này, nhất là liên quan tới các chuẩn thẩm định có thể bị diễn giải quá rộng, các khâu sản xuất thuê ngoài dễ bị cáo buộc vi phạm... Chi phí thực thi trực tiếp có thể không lớn, nhưng cũng sẽ khiến doanh nghiệp thêm khó khăn trong bối cảnh kinh doanh phức tạp hiện nay.

Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp Việt Nam từ chối cung cấp thông tin, không đáp ứng được các tiêu chuẩn, hoặc vi phạm các quy tắc trong quá trình hợp tác có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng như bị từ chối đơn hàng, bị loại khỏi chuỗi cung ứng hoặc mất cơ hội mở rộng thị phần tại thị trường châu Âu.

“Thẩm định chuỗi cung ứng” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản

Việt Nam phát hành trong tháng 11. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới bạn đọc tác động của thẩm định chuỗi cung ứng từ các thị trường

trọng điểm đối với ngành thủy sản. Góc nhìn từ chuyên gia cũng như bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong việc thực thi trách

nhiệm xã hội, môi trường và quản trị minh bạch.

Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 11 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

12

Xanh hóa chuỗi cung ứng: “Giấy thông hành” mới của

thủy sản Việt Nam

Oanh Thảo

14

“Xanh hóa”cảng cá: Kích phát tiềm năng phát triển thủy sản

16

Tuân thủ để giữ vững thị trường Xuân Trường

18

Tiêu chuẩn: Chìa khóa cho

thủy sản Việt Nam hội nhập

sâu rộng

20

Sản xuất thuận thiên: Hướng đi bền vững trước

Cá rô phi Việt Nam vươn tầm

thế giới: Bước ngoặt từ chuỗi

sản xuất xanh

Thùy Khánh 28 Chuyển đổi nghề: Chính sách

50

Châu Âu siết chuỗi cung ứng: Thách thức toàn cầu về trách

nhiệm và minh bạch

Tuấn Minh

53

Công nghệ Nanobubble: Giải pháp đột phá nâng cao hiệu quả nuôi trồng thủy sản bền vững

B.H.N

VINAFIS EXPO 2026: Thủy sản Việt Nam vươn mình Hồng Hà

40

Uni-President Việt Nam:

Chúng tôi chọn chất lượngkhông chọn lối tắt!

Uni-President

42

Khánh thành Công ty

TNHH Thức ăn YueHai

Việt Nam

Xuân Trường

54

Giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ nuôi thủy sản

Nguyễn Hằng

56

Xuất khẩu thủy sản: Thách thức trong chặng cuối năm

Bảo Hân

58

Bột ấu trùng ruồi lính đen: Thay thế bột cá trong nuôi cá tráp đầu vàng

Dũng Nguyên

Xuất khẩu thủy sản đạt hơn 9,3 tỷ USD trong 10 tháng

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 10 tháng năm 2025 ước đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhóm thủy sản tiếp tục là điểm sáng khi đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ. Kết quả này cho thấy sức phục hồi rõ rệt của ngành thủy sản sau thời gian dài bị ảnh hưởng bởi chi phí đầu vào và nhu cầu tiêu thụ chậm. Các doanh nghiệp xuất khẩu tận dụng tốt tín hiệu tích cực từ các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Liên minh châu Âu. Châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 44,7% thị phần; tiếp đến là châu Mỹ (22,7%) và châu Âu (13,8%). Riêng giá trị xuất khẩu sang châu Âu tăng mạnh tới 37,5%, phản ánh tác động tích cực từ việc đa

dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng

chế biến. Với đà tăng trưởng này, ngành thủy sản Việt Nam được kỳ vọng sẽ cán mốc trên 11 tỷ USD trong cả năm 2025.

Cơ hội thuế 0% cho cá ngừ

Việt Nam tại Mỹ

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 2025 ở Malaysia, Việt Nam và Mỹ đã thống nhất khuôn khổ Hiệp định thương mại đối ứng, mở ra cơ hội giảm thuế về 0% cho một số sản phẩm thủy sản, trong đó có cá ngừmặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), các sản phẩm có khả năng được điều chỉnh thuế gồm cá ngừ tươi hoặc ướp lạnh, fillet cá ngừ đông lạnh và cá ngừ, cá ngừ vằn chế biến. Nếu được

áp dụng, mức thuế 0% sẽ giúp cá ngừ Việt

Nam tăng sức cạnh tranh so với nguồn cung từ Ecuador, Thái Lan hay Philippines, nhất là ở phân khúc sản phẩm loin, fillet và hàng giá trị gia tăng. Tuy nhiên, Mỹ hiện chưa công bố danh mục chi tiết các mặt hàng được hưởng ưu đãi. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam cần đáp ứng chặt chẽ yêu cầu về xuất xứ, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn bền vững.

Nhập khẩu thủy sản

lập kỷ lục

2,73 tỷ USD

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam chi khoảng 2,73 tỷ USD nhập khẩu thủy sản, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức cao nhất từ trước đến nay. Riêng tháng 10, kim ngạch nhập đạt hơn 304 triệu USD. Việt Nam hiện nhập thủy sản chủ yếu từ Ấn Độ, Indonesia và Na Uy, chiếm lần lượt 15%, 14,2% và 10,7% tổng giá trị. Trong đó, nhập từ Ấn Độ tăng gấp đôi, từ Indonesia tăng 58% và từ Na Uy tăng 17%. Việc nhập khẩu tăng mạnh phản ánh nguồn cung trong nước chưa ổn định, trong khi nhu cầu chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa đều cao. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), hơn 600 nhà máy đang phải nhập nguyên liệu để duy trì công suất, đặc biệt với tôm, cá biển và hải sản cao cấp. Các sản phẩm từ Ấn Độ, Indonesia và Na Uy giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và giá thành cạnh tranh.

Mỹ tạm hoãn lệnh cấm nhập

khẩu ghẹ từ Việt Nam

Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ vừa tạm hoãn lệnh cấm nhập khẩu ghẹ từ Việt Nam, Philippines, Indonesia và Sri Lanka, vốn dự

kiến có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, theo Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển (MMPA).

Quyết định này có hiệu lực cho đến khi Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA/NMFS) hoàn tất việc xem xét

lại “khả năng tương đương” giữa các nước xuất khẩu và Mỹ trong bảo vệ động vật biển. Theo quy định mới, các nước có 60 ngày để bổ sung dữ liệu khoa học về sản lượng khai thác, bycatch, bảo tồn và giám sát nguồn lợi trước khi NOAA ra quyết định cuối cùng.

khẩu ghẹ sang thị trường Mỹ, song kết quả cuối cùng phụ thuộc vào chất lượng hồ sơ mà Việt Nam gửi trong giai đoạn xem xét lại. Sản xuất thủy sản vẫn tăng dù bão lũ ảnh hưởng

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), sản xuất thủy sản cả nước vẫn giữ đà tăng trưởng dù chịu tác động từ bão và hoàn lưu bão liên tiếp trong tháng 10. Sản lượng thủy sản tháng 10 ước đạt 895,3 nghìn tấn, tăng 2,8% so cùng kỳ 2024. Trong đó, nuôi trồng đạt 597,3 nghìn tấn, tăng 5,2%, chủ yếu nhờ nuôi cá tra và tôm nước lợ phát triển ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu chế biến xuất khẩu. Ngược lại, khai thác thủy sản giảm nhẹ do thời tiết bất lợi, nhiều tàu phải tạm ngừng ra khơi tránh bão. Sản lượng khai thác chỉ đạt 298 nghìn tấn, giảm 1,7%, riêng khai thác biển đạt 278,1 nghìn tấn, giảm 1,5% so cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2025, tổng sản lượng thủy sản đạt 8,16 triệu tấn, tăng 3,1% so cùng kỳ 2024, tiếp tục là trụ cột quan trọng của khu vực nông nghiệp trong bối cảnh bão lũ, thời tiết cực đoan diễn biến phức tạp.

Dự thảo Nghị định mới giảm thủ tục, gỡ điểm nghẽn thủy sản

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Thủy sản, hướng tới phân cấp mạnh, cắt giảm thủ tục hành chính và tháo gỡ điểm nghẽn trong sản xuất, xuất khẩu. Dự thảo bao quát toàn chuỗi từ bảo vệ nguồn lợi, nuôi trồng, khai thác, kiểm ngư đến chế biến, xuất nhập khẩu. Nhiều quy định được điều

Ảnh: TB

Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường Tự hào hành trình vẻ vang

Ngày 12/11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Lễ kỷ niệm

80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường (1945 - 2025) và Đại hội thi đua yêu nước lần thứ I. Tham dự buổi lễ có Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và hơn 1.200 đại biểu toàn quốc. Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh, 80 năm qua, ngành đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, đưa Việt Nam từ nước thiếu ăn trở

thành một trong 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới, với kim ngạch hơn 62,5 tỷ USD năm 2024. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu ngày càng được chú trọng, hướng tới phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh, tuần hoàn và phát thải thấp. Nhân dịp này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất, tuyên dương hàng trăm tập thể, cá nhân tiêu biểu và phát động phong trào thi đua giai đoạn 2025 - 2030.

trình IUU. Một điểm mới là quy định thiết bị giám sát hành trình phải hoạt động liên tục, nêu rõ trách nhiệm của chủ tàu, thuyền trưởng và nhà cung cấp thiết bị nhằm tăng minh bạch và phòng ngừa vi phạm. Cùng với phân cấp, dự thảo tinh gọn nhóm thủ tục có tần suất cao như cấp phép khai thác loài nguy cấp, chứng nhận cơ sở giống, thức ăn, môi trường, giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Hiện, Bộ đang lấy ý kiến rộng rãi từ các địa phương, hiệp hội, chuyên gia và ngư dân để hoàn thiện nghị định, coi đây là bước quan trọng trong nỗ lực gỡ thẻ vàng IUU và nâng cao năng lực quản lý ngành thủy sản.

Hơn 54.000 lồng bè thủy sản thiệt hại do bão số 13

Theo Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường),

Nông nghiệp và Môi trường

đến 8 giờ ngày 10/11, bão số 13 và hoàn lưu sau bão đã gây thiệt hại nặng cho nuôi trồng thủy sản, làm hư hại 54.285 lồng bè và 18 ha nuôi tôm, cá. Tổng thiệt hại do bão ước tính

7.846 tỷ đồng, trong đó Gia Lai bị ảnh hưởng nặng nhất với hơn 5.200 tỷ đồng, tiếp đến là Đắk Lắk và Quảng Ngãi. Ngoài ra, nhiều tuyến giao thông như đường Hồ Chí Minh nhánh Tây, tỉnh lộ 606 và tuyến đường sắt

Bắc - Nam vẫn đang được khẩn trương khắc phục sạt lở và ách tắc. Ban Chỉ đạo Phòng

thủ dân sự Quốc gia yêu cầu các địa phương

sớm ổn định đời sống người dân, khôi phục sản xuất. Đến tối 9/11, Tổng công ty Điện lực miền Trung đã khôi phục cấp điện cho hơn 1,32 triệu khách hàng, đạt 80% tổng số bị ảnh hưởng. Hiện hơn 2.300 cán bộ, kỹ sư, công nhân vẫn đang nỗ lực khôi phục điện tại các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung.

Hải Phòng

Tuyên truyền chống khai thác

IUU tại Bạch Long Vỹ

Ngày 4/11, tại âu cảng Bạch Long Vỹ (Hải Phòng), Đồn Biên phòng Bạch Long Vỹ phối hợp Trạm Cảnh sát biển vùng 1 tổ chức tuyên truyền về chống khai thác thủy sản bất hợp pháp (IUU) cho 357 ngư dân thuộc 50 tàu cá đang hoạt động tại khu vực. Tại buổi tuyên truyền, lực lượng chức năng đã phát 425 tờ rơi hướng dẫn ngư dân các quy định về khai

thác hợp pháp, như bắt buộc có giấy phép, treo cờ Tổ quốc khi ra khơi, không sử dụng ngư cụ hủy hoại nguồn lợi và không khai thác trái phép trong vùng biển nước ngoài. Các chủ tàu cũng được phổ biến về trách nhiệm trong việc tuân thủ quy định IUU, góp phần bảo vệ chủ quyền và phát triển nghề cá bền vững. Qua chương trình, toàn bộ chủ phương tiện cam kết không vi phạm quy định IUU trong quá trình khai thác. Dịp này, Ban tổ chức trao tặng 50 lá cờ Tổ quốc cho ngư dân, khích lệ tinh thần vươn khơi bám biển tại ngư trường trọng điểm Bạch Long Vỹ.

Bộ đội
Ảnh: Nguyễn Minh Tú

Ấn Độ

Đẩy nhanh đẩy nhanh ký kết

thương mại tự do với EU

Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU) sẽ thảo luận các nội dung then chốt của hiệp định thương mại tự do (FTA) như mở cửa thị

trường, biện pháp phi thuế quan và hợp tác quy định trong chuyến thăm Brussels hai ngày của Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp Piyush Goyal, bắt đầu từ ngày 27/10. Ông Goyal dự kiến gặp Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu kiêm Cao ủy Thương mại EU Maros Sefcovic để rà soát tiến độ đàm phán và xác định những lĩnh vực cần tiếp tục thống nhất. Hai bên đặt mục tiêu hoàn tất FTA trong tháng 12, đồng thời thúc đẩy các thỏa thuận song song về bảo hộ đầu tư và chỉ dẫn địa lý.

Nga

Tăng cường xuất khẩu trứng cá minh thái sang Trung Quốc

Hiệp hội Ngư dân cá minh thái Nga (PCA) cho biết xuất khẩu trứng cá minh thái sang Trung Quốc năm nay đã vượt 500 tấn, một bước tiến quan trọng trong chiến lược mở rộng thị trường, dù người Trung Quốc ít có thói quen tiêu thụ sản phẩm này, theo Minato Shimbun. Năm 2024, tổng lượng trứng cá minh thái Nga xuất khẩu đạt khoảng 37.000 tấn, tương đương năm trước, chủ yếu sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, do nhu cầu và giá tại hai thị trường này đều chững lại, giá trị xuất khẩu giảm 21%. PCA đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác với Liên minh Chế biến và Tiêu thụ Thủy sản Trung Quốc (CAPPMA) gồm hơn 1.700 doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy tiêu thụ nội địa. Hiện Nga chiếm hơn 90% nguồn cung cá minh thái tại Trung Quốc, trong đó nhu cầu sản phẩm chế biến cho tiêu dùng trong nước như philê, surimi… tăng mạnh. PCA ước tính nhu cầu trứng cá minh thái tại Trung Quốc có thể đạt ít nhất 5.000 tấn trong ngắn hạn.

Chile

Giành lại quyền xuất khẩu thủy sản sang Nga

Sau cuộc gặp song phương bên lề Diễn

đàn Thủy sản Quốc tế lần thứ VIII và Triển lãm Công nghệ Thủy sản tại St. Petersburg, Chile

đã được phép nối lại xuất khẩu thủy sản sang

Nga. Theo cơ quan Thú y và Kiểm dịch thực vật Nga (Rosselkhoznadzor), 34 doanh nghiệp

Chile đã được cấp phép chính thức xuất hàng sau buổi làm việc giữa bà María Soledad Tapia Almonacid, Cục trưởng Cục Thủy sản và Nuôi trồng thủy sản Chile (Sernapesca) và ông Konstantin Savenkov, Phó Cục trưởng Rosselkhoznadzor, ngày 23/10. Trước đó, Nga cảnh báo sẽ cấm thủy sản Chile vì phát hiện sai lệch trong hồ sơ, nhãn mác và giấy chứng nhận kiểm dịch. Rosselkhoznadzor đánh giá cao nỗ lực khắc phục của Chile, đặc biệt là việc áp dụng hệ thống chứng nhận mới.

Mỹ Kêu gọi tạm dừng nhập khẩu tôm vì lo ngại nhiễm phóng xạ

Hạ nghị sĩ Clay Higgins (đảng Cộng hòa, bang Louisiana) vừa kêu gọi Tổng thống

Donald Trump ra lệnh tạm dừng toàn bộ hoạt động nhập khẩu tôm vào Mỹ, sau khi Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) cảnh

báo về nguy cơ tôm nhiễm phóng xạ. Ông

Higgins nhấn mạnh: “Tôm nhiễm phóng xạ và

các sản phẩm hải sản ô nhiễm bày bán trong siêu thị Mỹ là mối đe dọa nghiêm trọng đối với

sức khỏe cộng đồng.” Nghị sĩ này đề xuất Nhà

Trắng sử dụng thẩm quyền hành pháp để tạm

dừng nhập khẩu cho đến khi FDA đảm bảo rằng không còn sản phẩm nhiễm bẩn lọt vào thị trường Mỹ. Lời kêu gọi được cho là phản ánh sức ép từ ngành tôm nội địa Louisiana đang phải cạnh tranh với tôm nhập. Tuần

CON SỐ & SỰ KIỆN

58,13 TỶ USD

Là kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam trong 10 tháng năm 2025. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ.

7.846 TỶ ĐỒNG

Là số tiền thiệt hại ước tính do bão và hoàn lưu sau bão số 13 (Kalmaegi) gây ra. Trong đó Gia Lai bị ảnh hưởng nặng nhất với hơn 5.200 tỷ đồng, tiếp đến là Đắk Lắk và Quảng Ngãi.

trước, Indonesia vừa đạt thỏa thuận với FDA cho phép hàng nghìn container tôm đang trên đường cập cảng Mỹ được thông quan trước thời điểm quy định kiểm soát mới có hiệu lực ngày 31/10.

Nhật Bản Tạm ngừng đánh bắt mực ống do vượt hạn ngạch

Cơ quan Thủy sản Nhật Bản vừa ra lệnh tạm dừng toàn bộ hoạt động đánh bắt mực ống Nhật Bản (surume-ika,  Todarodes pacificus) của tàu cá nhỏ từ cuối tháng 10/2025 đến hết mùa vụ vào tháng 3/2026, sau khi sản lượng vượt hạn ngạch 4.900 tấn. Đây là lần đầu tiên kể từ khi áp dụng cơ chế tổng hạn ngạch khai thác (TAC) vào thập niên 1990, Nhật Bản phải đình chỉ một nghề cá vì đánh bắt vượt mức. Theo Bộ trưởng Nông – Lâm –Ngư nghiệp Norikazu Suzuki, sản lượng thực tế đã vượt 5.300 tấn dù chính phủ vừa tăng hạn ngạch năm nay để phản ứng với nguồn lợi dồi dào bất thường. Nguyên nhân được cho là do dòng hải lưu Kuroshio thay đổi, giúp quần đàn mực sinh sôi mạnh. Các chuyên gia cảnh báo trữ lượng mực nhìn chung vẫn suy giảm trong thập kỷ qua, nên đợt “bùng nổ” này chỉ là tạm thời. Quyết định đình chỉ cho thấy Nhật Bản kiên định với chính sách TAC – vừa khai thác hợp lý, vừa bảo vệ nguồn lợi biển lâu dài. Tuấn Minh

895,3 NGHÌN TẤN

Là sản lượng thủy sản của cả nước trong tháng 10, tăng 2,8% so cùng kỳ 2024. Trong đó, nuôi trồng đạt 597,3 nghìn tấn, tăng 5,2%; khai thác chỉ đạt 298 nghìn tấn, giảm 1,7%.

79.734 TÀU

Là tổng số tàu cá hiện có của các địa phương tính đến ngày 8/11/2025. Trong đó, đã đăng ký và được cập nhật là 79.646 tàu cá (chiếm 99,9%), số tàu cá không đủ điều kiện đăng ký là 88 tàu (chiếm 0,1%).

Xanh hóa chuỗi cung ứng

“Giấy thông hành” mới

của thủy sản Việt Nam

Trong bối cảnh thế giới ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn về môi trường và

lao động, ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước yêu cầu kép: Phải “xanh”

hơn và minh bạch hơn nếu muốn duy trì vị thế xuất khẩu hàng đầu. “Xanh hóa

chuỗi cung ứng” không còn là lựa chọn, mà đã trở thành điều kiện tiên quyết

để thủy sản Việt Nam chinh phục thị trường quốc tế.

Cơn sóng “xanh” toàn cầu

Ngành thủy sản thế giới đang bước vào

một cuộc chuyển mình mạnh mẽ. Từ đầu năm 2025, các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản đồng loạt nâng cao tiêu chuẩn nhập khẩu, yêu

cầu sản phẩm thủy sản không chỉ đạt chất

lượng và an toàn thực phẩm, mà còn phải

chứng minh được nguồn gốc bền vững,

thân thiện môi trường và tuân thủ trách nhiệm lao động.

Sau hàng loạt vụ việc bị phanh phui liên quan đến lao động cưỡng bức và khai thác tận diệt, nhiều tập đoàn bán lẻ quốc tế như Walmart, Carrefour, Costco đã tuyên bố chỉ hợp tác với các nhà cung ứng có Chứng nhận Xanh và tuân thủ chuẩn mực xã hội. Với

sản lớn thứ ba thế giới, Việt Nam đang đứng trước thách thức phải tái cấu trúc toàn

Khi con tôm, con cá cần có “hồ sơ đạo đức”

Nếu trước đây, doanh nghiệp chỉ cần chứng minh sản phẩm “ngon và sạch”, thì nay, thị trường đòi hỏi nhiều hơn thế. Mỗi con tôm, con cá phải có “hồ sơ đạo đức”, minh bạch về nguồn gốc, điều kiện lao động và tác động môi trường trong suốt quá trình nuôi trồng.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), ngày càng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tôm và cá tra đang chịu áp lực đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế như ASC (Aquaculture Stewardship Council), BAP (Best Aquaculture Practices) hay SA8000 về trách nhiệm xã hội và môi trường.

Tuy nhiên, những nỗ lực “xanh hóa” từ ao nuôi đến nhà máy mới chỉ hoàn thành một nửa chặng đường. Để chinh phục các thị trường cao cấp, ngành thủy sản Việt Nam còn phải đảm bảo tính minh bạch tuyệt đối trong truy xuất nguồn gốc, yếu tố đang trở thành “tấm hộ chiếu” bắt buộc của sản phẩm thủy sản trong thời kỳ hội nhập.

Nhiều doanh nghiệp đang đầu tư mạnh vào công nghệ blockchain, mã QR, phần mềm quản lý trại nuôi và nhật ký điện tử để chia sẻ dữ liệu minh bạch với người tiêu dùng và nhà nhập khẩu.

Ở cấp Nhà nước, Hệ thống quản lý nghề cá có trách nhiệm (VDMS) được triển khai, bao gồm số hóa đăng ký tàu cá, nhật ký khai thác và truy xuất nguồn gốc nguyên liệu. Đây là một bước tiến quan trọng trong nỗ lực gỡ bỏ “thẻ vàng” IUU mà EU áp dụng từ năm 2017.

Những bước chuyển rõ nét trong “xanh hóa” thủy sản Việt Nam

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, trung tâm nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước, tiến trình “xanh hóa” đang dần hình thành nền tảng vững chắc với hàng loạt mô hình nuôi trồng sinh thái và tuần hoàn được nhân rộng.

Tiêu biểu là mô hình tôm – rừng ở Cà Mau, nơi tôm được nuôi tự nhiên dưới tán rừng ngập mặn, không sử dụng hóa chất, thân thiện môi trường. Sản phẩm từ mô hình này đã đạt chứng nhận sinh thái quốc tế như

Naturland và EU Organic, mở rộng đường vào các thị trường cao cấp.

Tại Bạc Liêu và Sóc Trăng, mô hình tôm siêu thâm canh công nghệ cao ứng dụng hệ thống tuần hoàn nước (RAS) và công nghệ biofloc đang giúp giảm thiểu ô nhiễm, tiết kiệm năng

lượng, đồng thời nâng năng suất lên gấp 3 – 5 lần so với phương pháp truyền thống.

Trong khi đó, nuôi cá tra theo chuẩn

GlobalG.A.P. và ASC tại Đồng Tháp và An Giang đang chú trọng sử dụng thức ăn sinh học, kiểm soát chất lượng nước nghiêm ngặt, đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường

EU và Hoa Kỳ.

Không chỉ các hộ nuôi, doanh nghiệp và startup công nghệ cũng đang trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình “xanh hóa” thủy sản Việt Nam.

Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đang phát triển chuỗi giá trị “tôm có trách nhiệm”, hợp tác với hơn 10.000 hộ nuôi áp dụng hệ thống truy xuất điện tử và cam kết không sử dụng kháng sinh trong toàn bộ quy trình sản xuất.

“Nữ hoàng” cá tra Vĩnh Hoàn lại dẫn đầu với mô hình kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm cá tra để sản xuất collagen, gelatin và năng lượng sinh học, vừa giảm phát thải, vừa gia tăng giá trị cho chuỗi sản phẩm.

Những nỗ lực này không chỉ nâng tầm giá trị sản phẩm, mà còn thể hiện bước chuyển mình mạnh mẽ của ngành thủy sản Việt Nam trên hành trình hướng tới chuỗi cung ứng xanh, minh bạch và bền vững.

Hành trình xanh hóa vẫn còn nhiều thách thức

Con đường hướng tới thủy sản xanh chưa bao giờ dễ dàng. Phần lớn hộ nuôi ở Việt Nam có quy mô nhỏ (dưới 1 ha), nên gặp khó trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế do chi phí chứng nhận và đầu tư công nghệ còn cao. Hạ tầng chuỗi lạnh, logistics và hệ thống xử lý nước thải cũng chưa đồng bộ, làm tăng chi phí vận hành cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, tính minh bạch dữ liệu vẫn là “điểm nghẽn” lớn. Nhiều cơ sở nuôi trồng vẫn ghi chép thủ công, thiếu nhật ký điện tử hoặc khai báo chưa đầy đủ, khiến việc truy xuất nguồn gốc và chứng minh tính bền vững của sản phẩm gặp nhiều khó khăn.

Cơ hội từ tài chính xanh và công nghệ số

Song song với thách thức, cơ hội mới đang mở ra nhờ làn sóng tài chính xanh và chuyển đổi số.

Nhiều ngân hàng như HSBC, Standard Chartered, IFC triển khai tín dụng xanh, ưu đãi doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí môi trường và lao động. Các tổ chức quốc tế như WWF,

USAID, ASC hỗ trợ Việt Nam hàng chục triệu USD cho dự án nuôi trồng bền vững, giảm phát thải carbon.

Ứng dụng AI, IoT, dữ liệu lớn đang giúp quản lý chất lượng nước, tự động điều chỉnh môi trường ao nuôi, giảm nhân công và tăng năng suất. Đồng bằng sông Cửu Long đang trở thành “phòng thí nghiệm xanh” khi nhiều doanh nghiệp hợp tác với Nhật Bản, Singapore triển khai mô hình này.

“Giấy thông hành” cho tương lai

“Xanh hóa chuỗi cung ứng” không chỉ là xu hướng, mà còn là cam kết đạo đức và chiến lược thương hiệu quốc gia. Một sản phẩm thủy sản “xanh và có trách nhiệm” không chỉ mở rộng thị trường, mà còn định vị Việt Nam là quốc gia xuất khẩu bền vững và đáng tin cậy. Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển chuỗi thủy sản xanh, cần có sự chung tay của ba trụ cột chính. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, hoàn thiện khung chính sách và cơ sở dữ liệu quốc gia, đồng thời hỗ trợ nguồn vốn, hạ tầng và các chương trình chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp là lực lượng tiên phong trong việc đầu tư công nghệ, nâng chuẩn sản xuất, đảm bảo minh bạch và truy xuất toàn bộ chuỗi cung ứng.

Trong khi đó, người tiêu dùng giữ vai trò thúc đẩy thị trường, thông qua việc ưu tiên lựa chọn sản phẩm có chứng nhận xanh, góp phần lan tỏa thói quen tiêu dùng có trách nhiệm và bền vững.

Ngành thủy sản Việt Nam đang ở ngã ba đường: Hoặc tiếp tục sản xuất theo mô hình cũ – chi phí thấp nhưng mong manh, hoặc mạnh dạn bước vào con đường mới – xanh hơn, minh bạch hơn, có trách nhiệm hơn. Trong kỷ nguyên mà phát triển bền vững trở thành thước đo giá trị, mỗi con tôm, con cá xuất khẩu của Việt Nam không chỉ mang vị mặn của biển quê hương, mà còn chứa đựng lời cam kết mạnh mẽ về một tương lai xanh, nơi kinh tế đi cùng trách nhiệm với Trái đất.

“Xanh hóa”cảng cá

Kích phát tiềm năng phát triển thủy sản

Phát triển cảng “xanh”

sẽ góp phần tăng cường

sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam.

Cùng với đó, việc đầu

tư xây dựng phát triển

hệ thống cảng “xanh” sẽ

mở ra nhiều cơ hội hợp

tác quốc tế.

Xu thế tất yếu

Cảng biển từ lâu đã là huyết

mạch của ngành vận tải, là động

lực phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, cùng

với sự phát triển là những tác

động tiêu cực không nhỏ đến môi trường. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngành vận tải biển chiếm khoảng 3% tổng lượng phát thải

carbon toàn cầu, đồng thời đóng góp tới 15% lượng phát thải

sulfur và 11% lượng phát thải hạt

nhựa hàng năm.

Trước thực trạng đó, Tổ chức

Hàng hải quốc tế đã đưa ra mục

tiêu cắt giảm lượng phát thải khí

nhà kính về mức 0 vào năm 2050.

Điều này buộc các quốc gia phải chuyển đổi sang mô hình cảng

xanh - mô hình không chỉ là lựa chọn, mà đã trở thành điều kiện

tiên quyết trong cuộc cạnh tranh

khốc liệt của ngành vận tải biển

toàn cầu. Trong xu thế hội nhập, việc xây dựng cảng biển thông minh, cảng “xanh” được xem là một ưu tiên hàng đầu của các quốc gia có biển, bao gồm cả Việt Nam.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, năm 2020, Bộ Giao thông vận tải (nay là Bộ Xây dựng) phê duyệt Đề án phát triển cảng “xanh” tại Việt Nam. Sau đó, Cục Hàng hải Việt Nam ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án phát triển cảng “xanh” được chia làm ba giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn đầu tiên (2021-2025) tập trung vào nghiên cứu cơ chế chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp trong

quá trình chuyển đổi, đồng thời

ứng dụng công nghệ sạch trong

khai thác cảng biển.

Trong đó, giai đoạn 2023-2025

sẽ điều chỉnh quy định liên quan

đến quản lý, đầu tư và xây dựng

cảng biển để phù hợp với tiêu chí cảng “xanh”. Đến năm 2030, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về cảng “xanh” sẽ được xây dựng và áp dụng tự nguyện, tiến tới áp dụng bắt buộc trên toàn hệ thống cảng biển Việt Nam từ sau năm 2030.

Nút thắt quan trọng Đối với ngành thủy sản, cảng cá là nút thắt quan trọng, nơi hội tụ của các hoạt động dịch vụ hậu cần, kiểm soát an toàn, vệ sinh thực phẩm và quy trình chế biến gia tăng giá trị sản phẩm. Cảng cá cũng đóng vai trò là nền tảng tương tác giữa công và tư, tác động trực tiếp đến

Ảnh: Quang Anh

tế và nhu cầu áp dụng các biện pháp bền vững và công bằng hơn, đòi hỏi những cảng cá vượt ra ngoài chức năng truyền thống để phát triển thành trung tâm tăng trưởng bền vững cho chuỗi giá trị thủy sản.

Theo Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO), cảng “xanh” cho phép vận chuyển thủy sản ra thị trường một cách hiệu quả và có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đồng thời thúc đẩy các điều kiện công bằng cho tất cả các bên có liên quan trong chuỗi cung ứng thủy sản (kể cả ngư dân hoạt động sản xuất quy mô nhỏ). Điều này đòi hỏi hệ thống xử lý sau thu hoạch phù hợp, cơ sở hạ tầng đông lạnh và kho bãi, năng lực chế biến, năng lực kiểm soát vệ sinh thực phẩm hiệu quả, cũng như tính minh bạch, khả năng truy xuất nguồn

nhưng quan trọng nhất là giai

đoạn 2023-2025 điều chỉnh quy

định liên quan đến quản lý, đầu

tư và xây dựng cảng biển phù hợp

với tiêu chí cảng “xanh”. Năm

2025 này, việc hoàn thiện các

tiêu chí về cảng “xanh” cần nỗ

lực thực hiện. Song song với quá

trình đầu tư khai thác hệ thống

cảng biển, các doanh nghiệp

cần đẩy mạnh hoạt động chuyển

đổi số, áp dụng công nghệ để

tăng tính kết nối trong các hoạt

động, thúc đẩy phát triển kinh tế biển bền vững.

Hiện nay, tăng trưởng hàng hóa

tại cảng biển Việt Nam mỗi năm

đều ở mức hai con số, được đánh

giá là một mức tăng trưởng tốt.

Nguồn đầu tư về cảng đang đổ

dồn vào Việt Nam, tạo cơ hội trở thành trung tâm trung chuyển lớn.

Trong xu thế phát triển chung, Việt Nam phải chọn hướng phát

triển “xanh - sạch - bền vững” để phù hợp với xu thế toàn cầu. Đây là xu hướng cạnh tranh có tính bền vững cao. Thủ tướng Chính

gốc và các cơ chế tuân thủ quy

định nghiêm ngặt.

Lợi thế canh trạnh

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam

cho biết, phát triển cảng “xanh”

sẽ góp phần tăng cường sức

cạnh tranh cho doanh nghiệp

Việt Nam. Cùng với đó, việc đầu

tư xây dựng phát triển hệ thống

cảng “xanh” sẽ mở ra nhiều cơ

hội hợp tác với các nước.

Với lợi thế về hạ tầng cảng biển, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh

đầu tư và khai thác hệ thống cảng

biển theo tiêu chí “xanh” và bền

vững, kết nối đồng bộ với khu vực

và thế giới, gia tăng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu. Mô hình cảng “xanh” là yêu cầu bắt buộc và là điều kiện tiên quyết để Việt

Nam hội nhập với thế giới. Đề án phát triển cảng “xanh” được chia thành nhiều giai đoạn,

phủ đã đưa ra các hình thức phát triển cảng biển theo hướng phát triển cảng “xanh”. Khi đó, Việt Nam sẽ thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư hệ thống cảng biển đồng bộ và bền vững.

Trên thế giới hiện có khoảng 70% số tàu hàng đóng mới đã chuyển sang sử dụng nhiên liệu xanh. Điều này đòi hỏi các cảng

tại Việt Nam cũng phải nhanh chóng tìm phương án “xanh hoá”

để hiện thực mục tiêu phát triển kinh tế biển. Khi Việt Nam có hệ thống cảng “xanh”, giảm chi phí logistics, sẽ tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên trường quốc tế.

Thực tế năm 2025 cảng Đà

Nẵng đã đặt mục tiêu tập trung nguồn lực để mở rộng, phát triển hệ thống cảng biển, kết hợp khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải tiến để hoàn thiện hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch

vụ cảng biển và logictics. Cảng Đà Nẵng đang tiếp tục số hóa để tăng năng lực, giảm chi phí, tạo điều kiện tối ưu cho khách hàng. Hiện nay, cảng Đà Nẵng đã áp dụng quy trình bán tự động hóa, khách hàng có thể làm thủ tục trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam sẽ tập trung phát triển cảng “xanh” hướng đến tính bền vững, trong đó, công nghệ số đóng vai trò quan trọng. Đầu tư xây dựng phát triển hệ thống cảng “xanh” sẽ mở ra cơ hội hợp tác lớn, các cảng có thể đón siêu tàu container, tạo ra khí thế và động lực mới cho các cảng cá; giúp gia tăng doanh thu và lợi nhuận, củng cố vị thế của cảng cá Việt Nam; đồng thời tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Liên quan đến lĩnh vực thủy sản, thống kê của FAO năm 2023 cho thấy, thương mại thủy sản thế giới đã được thực hiện ở 255 quốc gia và vùng lãnh thổ, tổng giá trị 182 tỷ USD, với rất nhiều hoạt động diễn ra tại các cảng cá như hoạt động cập cảng và bốc dỡ thủy sản, vốn là những điểm then chốt trong chuỗi cung ứng thủy sản toàn cầu. Trong bối cảnh thương mại đầy biến động, khi các tiêu chuẩn về tính bền vững, truy xuất nguồn gốc và thương mại công bằng ngày càng trở nên cấp thiết hơn, các cảng cá dần nổi lên như những trung tâm chiến lược để củng cố chuỗi giá trị thủy sản bền vững. Ủy ban Thủy sản (COFI) nhấn mạnh rằng, các cảng cá có thể trở thành “trung tâm chiến lược cho tăng trưởng kinh tế”. Cảng cá đóng vai trò là điểm giao thoa của nhiều hoạt động thủy sản và khi được quản lý tốt, có thể tạo ra nhiều lợi ích kinh tế - xã hội.

Tuân thủ

này được xem là yếu tố sống còn trong chiến lược phát triển

bền vững của ngành thủy sản Việt Nam, nhất là trong buổi cảnh căng

thẳng thuế quan tại thị trường Mỹ vẫn chưa được hạ nhiệt như kỳ vọng.

Tối đa hóa quyền con người

Là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu tôm lớn vào thị trường EU, ông Hồ Quốc

Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, cho biết các nước châu Âu ngày càng coi trọng tiêu chuẩn về môi trường và lao động là điều dễ hiểu, bởi đây cũng là 2 lĩnh vực chính trong quá trình sản xuất ra mỗi sản phẩm. Còn trong nước, quy định ứng xử người lao động của Việt Nam đã theo chuẩn của thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, cái khó cho doanh nghiệp khi thực thi tiêu chuẩn này là họ buộc mọi hoạt động ứng xử với người lao động đều phải tương đồng với các chuẩn của châu Âu. Ví dụ như số giờ làm việc trong ngày, trong tuần; chế độ phúc lợi, nghỉ ngơi cho lao động nữ đang mang thai; không được sử dụng lao động trẻ em… đều đúng theo quy định của châu Âu… “Tức là mọi thứ đều phải chuẩn mực như ở châu Âu nhằm mục đích chính là bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động”. Ông Lực chia sẻ thêm.

Ông Lực ví dụ cụ thể thêm: “Đơn cử như tại trại nuôi tôm của Sao Ta, trước đây nhà ở cho người lao động chỉ cất bằng nhà lá, khi kiểm tra, phía châu Âu không đồng ý vì họ cho rằng không đảm bảo an toàn. Theo quy định của họ, trước hết nhà ở cho người lao động

phải chắc chắn, kín đáo để không cho động vật bên ngoài xâm nhập, nhưng phải đảm bảo thoáng mát với đầy đủ tiện nghi tối thiểu, như: quạt, điện… Còn nhà ăn cũng phải có chuẩn của chỗ nấu ăn, chỗ ngồi ăn, có nhà vệ sinh, lavabo, nơi rửa tay đàng hoàng… Vì vậy, để bán được hàng vào châu Âu, trại tôm của Sao Ta ở mỗi khu đều đã thực hiện đầy đủ theo đúng tiêu chuẩn châu Âu.

Coi trọng yếu tố môi trường

Đối với tiêu chuẩn môi trường, theo ông

Lực là cực kỳ khó khăn, khi doanh nghiệp

buộc phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí phụ về: kiểm soát phát thải, tiết kiệm năng lượng và giải pháp bù trừ phát thải. Việc kiểm soát phát thải sẽ được châu Âu kiểm tra toàn bộ chuỗi sản xuất từ trại tôm cho đến nhà máy chế biến. Trong đó, phải xác định cụ thể có bao nhiêu máy móc, thiết bị, dụng cụ, con người… tạo ra khí thải và lượng khí thải này là bao nhiêu (phải có con số định lượng rõ ràng) chứ không còn định tính như trước đây. Đây chỉ mới là kiểm soát thôi, còn vấn đề tiếp theo là tiết kiệm. Ví dụ: sử dụng loại máy móc gì ít hao nhiên liệu/năng lượng, sử dụng nhiên liệu gì ít thải ra chất thải nhất… Còn vấn đề giải pháp cân bằng phát thải là

làm sao để giảm tối đa sử dụng năng lượng hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, trồng rừng… Về vật nuôi (phúc lợi động vật), phải được đối xử một cách hết sức là phù hợp với điều kiện tự nhiên mà vật nuôi sinh sống. Ví dụ: tôm bố mẹ khi cho sinh sản không được cắt mắt, trong khi đó, lịch sử công nghệ sinh sản tôm nhân tạo của Việt Nam trong suốt thời gian dài gắn liền với quy trình cắt mắt, nên bước đầu, ngành giống cũng gặp không ít khó khăn. Thứ hai là mật độ nuôi vừa phải, đảm bảo điều kiện tôm bơi lội thoải mái, đầy đủ khí thở… Mật độ này là rất thấp so với mật độ nuôi công nghiệp hiện tại của Việt Nam, nên nếu nuôi công nghiệp theo quy định mật độ này thì hầu như không có lời. Thứ ba là phải có hệ thống giám sát các chỉ tiêu môi trường: ô xy hòa tan, khoáng chất… theo đúng điều kiện sống của tôm. Đồng thời cũng phải có camera theo dõi tình trạng sức khỏe của tôm xem tôm có bị stress hay không để có giải pháp xử lý kịp thời… “Nói tóm lại, nếu thực hiện đầy đủ các quy định về phúc lợi động

Đảm bảo tính minh bạch

Đối với vấn đề truy xuất nguồn gốc có 2 ý nghĩa: thứ nhất là đảm bảo tính minh bạch, an toàn của sản phẩm cung ứng cho thị trường EU. Thứ hai là tuân thủ các quy định của FTA, nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp nhập hàng hóa có xuất xứ khác về gắn nhãn Việt Nam. Trước đây, doanh nghiệp thực hiện ASC chỉ cần khai ao tôm này ở trại nào, ao số mấy… 2, 3 năm sau họ mới đến kiểm tra hồ sơ. Còn bây giờ ao nào khai thực hiện ASC là họ cử bộ phận ASC tại Việt Nam đến kiểm tra ngay tại thực tế. Ngoài ra, họ còn kiểm tra các loại vật tư đầu vào đã được sử dụng xem đúng theo quy định ASC hay không. Có thể nói, truy xuất nguồn gốc là vấn đề cực kỳ khó đối với trại nuôi và doanh nghiệp hiện nay. Vì truy xuất nguồn gốc gắn liền với kiểm tra thực hư quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu đến sản phẩm xuất khẩu có sự đồng bộ theo quy định chặt chẽ từ EU hay không. Đây là vấn đề mà thoạt nhìn tưởng chừng như đơn giản nhưng lại cực kỳ khó khăn đối với hoàn cảnh thực tế nghề nuôi ở

Việt Nam. Đặc biệt là những doanh nghiệp, hộ nuôi nhỏ rất khó để có được sự tin tưởng tuyệt đối của EU như các doanh nghiệp, trang trại nuôi lớn. VASEP cũng đã có làm việc với

phía EU về việc sử dụng vật tư đầu vào nuôi tôm, nhất là thuốc thú y thủy sản, nhằm tìm tiếng nói chung trong vấn đề dư lượng chất cấm trong nuôi trồng, chế biến.

Khó, nhưng có cơ hội lớn

Thẩm định chuỗi cung ứng (Supply Chain Due Diligence) là quy trình đánh giá, xác định và giải quyết các rủi ro tiềm ẩn trong chuỗi cung ứng, bao gồm cả rủi ro về tài chính, vận hành và các vấn đề về môi trường, xã hội. Quá trình này giúp doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ pháp luật và các tiêu chuẩn bền vững, cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực đến con người và hành tinh. Mục tiêu chính là đảm bảo chuỗi cung ứng hoạt động một cách bền vững, tuân thủ các quy định pháp lý và có đạo đức, bao gồm các khía cạnh về môi trường, xã hội và quản trị (ESG).

Theo các doanh nghiệp, việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của chuỗi cung ứng thị trường châu Âu trong bối cảnh hiện tại là một thách thức không nhỏ đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng thừa nhận, nếu thực hiện đúng và đủ, cơ hội mở ra cho doanh nghiệp cũng sẽ rất lớn. Ông

Lực, cho biết: “Hiện nay, doanh nghiệp nào đáp ứng đầy đủ các chuẩn trong chuỗi cung

ứng của EU thì có thể nói là gần như họ không cần phải đi tìm khách hàng, mà khách hàng EU sẽ tự tìm đến doanh nghiệp để đặt hàng”. Chia sẻ thêm về giải pháp thực hiện các tiêu chuẩn trong chuỗi cung ứng thị trường châu Âu, các doanh nghiệp đều cho rằng, với thực trạng nuôi trồng thủy sản, nói chung và con tôm nói riêng còn nhỏ lẻ manh mún như hiện nay là rất khó để đạt được các tiêu chuẩn này. Vì vậy, vấn đề tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác gắn với liên kết chuỗi giá trị cũng như chính sách tích tụ đất đai là hết sức quan trọng đối với ngành tôm trong thời gian tới. Riêng các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào EU thời gian qua đều đã có tâm thế chuẩn bị và thực hiện khá tốt giúp bên mua hàng ở EU an tâm trong việc kiểm soát dây chuyền cung ứng từ phía Việt Nam. Không chỉ có doanh nghiệp, mà kể cả ngành nông nghiệp, nhiều năm qua cũng đã có sự chuẩn bị rất kỹ cho vấn đề này. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các khách hàng lớn ở EU đều rất hài lòng trước sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp lớn có uy tín. Xuân Trường

Ảnh: Khoa Nguyen

TIÊU CHUẨN

CHÌA KHÓA

CHO THỦY SẢN VIỆT NAM

HỘI NHẬP SÂU RỘNG

Trong thời kỳ hội nhập sâu rộng, khi các hàng rào kỹ thuật, môi trường và phát

thải carbon ngày càng khắt khe, tiêu chuẩn đã trở thành “ngôn ngữ chung” của thương mại toàn cầu. Với ngành thủy sản, việc xây dựng chuỗi cung ứng đạt chuẩn quốc tế, minh bạch và xanh hóa toàn diện không chỉ là yêu cầu, mà là con đường duy nhất để phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

Tiêu chuẩn - thước đo mới của năng lực cạnh tranh

Việt Nam hiện đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu thủy sản, chỉ sau Trung Quốc và Na Uy, với kim ngạch năm 2024 đạt hơn 9,4 tỷ USD. Năm 2025, ngành hướng

đến mốc 10 tỷ USD nhờ phục hồi nhu cầu tiêu dùng ở các thị trường lớn và sự chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, để giữ vững vị thế này, yếu tố “số lượng” không còn

đủ. Các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung

Quốc đều đang đặt ra những tiêu

chuẩn kép, không chỉ đảm bảo an toàn thực phẩm mà còn phải

đáp ứng tiêu chí môi trường, xã hội và phát thải carbon. Với EU,

từ 2026, thị trường này sẽ chính thức áp dụng Cơ chế điều chỉnh

biên giới carbon (CBAM) đối với

nhiều nhóm hàng, và thủy sản

nằm trong lộ trình mở rộng. Điều

đó đồng nghĩa, sản phẩm không

đạt chuẩn “xanh” có thể bị loại

khỏi thị trường.

Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng

Thư ký VASEP, nhận định, nếu

không chủ động nâng cấp tiêu chuẩn chuỗi giá trị, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam sẽ bị gạt ra khỏi sân chơi toàn cầu. Tiêu chuẩn giờ không chỉ là tấm vé thông hành, mà là tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia.

Để làm tốt được điều này, trước tiên, ngành thủy sản phải lấp các khoảng trống, nhất là ở khâu đầu vào.

Về con giống, theo số liệu của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cả nước hiện có 7.224 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, trong đó có 2.563 cơ sở thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng và 4.661 cơ sở thuộc

Ở khâu thức ăn, đến nay, trên

80% nguyên liệu sản xuất thức ăn thủy sản vẫn từ nguồn nhập khẩu, chủ yếu từ Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc. Việc phụ thuộc này không chỉ khiến giá thành cao mà còn là rủi ro trong kiểm soát chất lượng.

Một số địa phương như Bạc Liêu (cũ), An Giang đã xây dựng trung tâm giống thủy sản cấp vùng và chuỗi cung ứng thức ăn đạt chuẩn, song mô hình còn chưa lan tỏa. Vì thế, nếu không hoàn thiện khâu đầu vào, tiêu chuẩn quốc tế ở các khâu sau chỉ mang tính hình thức.

Tiêu chuẩn đã có nhưng chưa đủ mạnh Việc áp dụng các bộ tiêu chuẩn chứng nhận là nền tảng để thủy sản Việt Nam thâm nhập các thị trường cao cấp. Hiện nay, Việt Nam có hơn 1.300 vùng nuôi đạt VietGAP; Khoảng 350 vùng nuôi cá tra, tôm đạt chứng nhận ASC hoặc BAP. Cùng đó, nhiều vùng nuôi nghêu cũng đạt chứng nhận bền vững của Hội đồng Quản lý Biển, chứng nhận ASC; Một số doanh nghiệp lớn đạt chuẩn GlobalGAP hoặc đang tham gia chương trình kiểm toán bền vững của EU và Nhật Bản... Các chứng nhận này được xem là “giấy thông hành” để thủy sản Việt Nam mở rộng ở nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật…

Tuy nhiên, tỷ lệ vùng nuôi đạt chuẩn mới chiếm khoảng 25% tổng diện tích nuôi trồng hàng hóa. Nhiều hộ nuôi nhỏ lẻ vẫn đứng ngoài hệ thống chứng nhận do chi phí cao (80 - 150 triệu đồng/lần), thiếu chuyên gia hướng dẫn và khó tiếp cận tín dụng xanh. Một chuyên gia thủy sản khẳng định, muốn đạt chứng nhận quốc tế, không thể chỉ lo phần hồ sơ hay kỹ thuật nuôi, mà phải đảm bảo cả hạ tầng, môi trường, và liên kết thị trường. Đây là thách thức lớn đối với hộ nuôi nhỏ.

Còn về phía doanh nghiệp, hiện phần lớn doanh nghiệp thủy sản Việt Nam thuộc nhóm vừa và nhỏ, với năng lực tài chính, nhân lực và công nghệ hạn chế. Họ thường chỉ đủ khả năng đạt chuẩn HACCP cơ bản, chưa thể

đầu tư cho ASC hoặc BAP, vốn cần cả quy trình nuôi, chế biến và quản lý xã hội đi kèm.

Chi phí chứng nhận và duy trì tiêu chuẩn quốc tế chiếm từ 35% giá thành sản phẩm, khiến lợi nhuận bị bào mòn. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ tín dụng xanh hoặc quỹ chuyển đổi số rất ít.

Theo chuyên gia kinh tế Trần

Quốc Huy, nếu không có cơ chế

hỗ trợ kỹ thuật và tài chính, doanh nghiệp nhỏ sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì thế, cần coi việc đạt chuẩn là một dạng

“đầu tư công nghệ”, chứ không chỉ là chi phí ngắn hạn.

Giải pháp đang được triển khai là mô hình “chứng nhận nhóm”, trong đó hợp tác xã hoặc doanh nghiệp đầu mối đại diện nhiều hộ nuôi làm hồ sơ và giám sát.

Mô hình này đã thành công bước

đầu ở nhiều địa phương vùng

ĐBSCL, giúp giảm đáng kể chi phí chứng nhận.

Chế biến hướng tới chuẩn “xanh”

Nếu khâu đầu vào còn hạn

chế, thì chế biến là khâu mạnh nhất của ngành thủy sản Việt

Nam. Cả nước hiện có gần 830

nhà máy chế biến quy mô công

nghiệp; trong đó, 95% đạt chuẩn

HACCP, ISO 22000 hoặc tương

đương, nhiều doanh nghiệp đạt

chứng nhận BRC, IFS, Halal để xuất sang các thị trường Hồi giáo và châu Âu.

Nhiều doanh nghiệp lớn như

Minh Phú, Vĩnh Hoàn, Sao Ta, Nam Việt đã đầu tư dây chuyền tự động hóa, nhà máy xanh, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong kiểm soát chất lượng. Nhờ đó, tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu tăng dần qua các năm, chiếm hơn 45% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2024.

Tuy nhiên, yêu cầu mới của thị trường không chỉ là an toàn thực phẩm mà còn là trách nhiệm xã hội và môi trường. Các tiêu chí về phát thải CO2, xử lý nước thải, bao bì tái chế đang dần trở thành điều kiện tiên quyết.

Nhiều ý kiến cho rằng, thách thức lớn nhất trong 5 năm tới không phải là sản xuất, mà là quản trị phát thải và minh bạch chuỗi cung ứng. Ai kiểm soát

được dữ liệu carbon, người đó giữ được thị trường.

Tại Việt Nam, đã có những doanh nghiệp tiên phong như

Vĩnh Hoàn tái chế 100% phụ phẩm cá tra thành dầu cá, collagen, gelatin, thức ăn chăn nuôi; Minh Phú phát triển mô hình nuôi tôm sinh thái gắn với rừng ngập mặn, được chứng nhận quốc tế; Sao Ta triển khai mô hình nuôi tôm tuần hoàn nước, tiết kiệm năng lượng và xử lý chất thải tại chỗ.

Ngoài ra, các địa phương ĐBSCL đang thử nghiệm “tín chỉ carbon trong nuôi trồng thủy sản”, nơi doanh nghiệp được ghi nhận và giao dịch lượng phát thải giảm.

Đây được coi là hướng đi tương lai

giúp vừa tăng giá trị, vừa đáp ứng tiêu chuẩn CBAM của EU. TS Phạm Đức Bình (Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội), nhấn mạnh, chuỗi “xanh” không chỉ là yêu cầu từ bên ngoài, mà là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc ngành thủy sản theo hướng giá trị cao, giảm rủi ro và thích ứng biến đổi khí hậu.

Trong Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045, ngành thủy sản đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 12 - 13 tỷ USD; Trên 80% sản phẩm có chứng nhận an toàn và bền vững; 100% vùng nuôi có mã định danh và truy xuất điện tử; Giảm 15% phát thải CO2 toàn ngành.

mục tiêu này, các chuyên gia đề xuất ba hướng trọng tâm là hoàn thiện thể chế và tiêu chuẩn quốc gia, cập nhật quy chuẩn quốc tế, công nhận lẫn nhau giữa VietGAP - GlobalGAPASC, đồng thời bổ sung tiêu chí carbon và tuần hoàn vào quy định. Cùng với đó, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi xanh, hỗ trợ chi phí chứng nhận, đào tạo kỹ thuật, số hóa quy trình. Đồng thời, phát triển hạ tầng dữ liệu số hóa chuỗi cung ứng, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng nuôi, nhà máy chế biến, phát thải và chứng nhận. Đây sẽ là nền tảng để truy xuất tự động và minh bạch với đối tác quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, tiêu chuẩn không còn là rào cản, mà là “chìa khóa vàng” giúp thủy sản Việt Nam hội nhập bền vững. Khi người tiêu dùng ngày càng coi trọng tính minh bạch, sinh thái và trách nhiệm xã hội, một chuỗi cung ứng được chuẩn hóa - xanh hóa - số hóa sẽ đưa

Sản xuất thuận thiên

Hướng đi bền vững trước

biến đổi khí hậu

Ảnh: Báo An Giang

Việc thích ứng, hòa

hợp với tự nhiên thay vì

chống lại trở thành con đường tất yếu để bảo

đảm sinh kế cho hàng

triệu nông, ngư dân và

duy trì tăng trưởng dài

hạn cho ngành thủy sản.

Thách thức lớn đối với sản xuất

thủy sản

Nhiều tổ chức quốc tế đều có

chung nhận định, Việt Nam là

một trong những nước chịu ảnh

hưởng nặng nhất của biến đổi

khí hậu. Nếu không có các giải

pháp thích ứng hiệu quả, nhiệt

độ tăng 1,0 0 C và 1,50 C có thể gây

tổn thất lần lượt khoảng 1,8%

GDP và 4,5% GDP; thiệt hại kinh

tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới. Nếu nước biển dâng và

nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu

người phải di cư nội địa. Trong

đó, Đồng bằng sông Cửu Long

là khu vực chịu tổn thất lớn nhất, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng

sông Cửu Long, đang chịu những tác động nặng nề. Sự gia tăng nhiệt độ, xâm nhập mặn, nước biển dâng, hạn hán và

mưa lũ cực đoan đã làm thay đổi

mạnh mẽ môi trường sinh thái

vùng nước ngọt, nước lợ và nước

mặn. Hệ quả là nhiều vùng nuôi

trồng bị thu hẹp, năng suất giảm, dịch bệnh bùng phát, và nguồn

lợi thủy sản tự nhiên suy giảm nghiêm trọng. Các chuyên gia

ước tính sẽ có khoảng 1,1 triệu tấn thủy sản nuôi trồng, tương

đương 935 triệu USD có nguy cơ

bị tổn thất do lũ lụt hàng năm.

Không chỉ ảnh hưởng đến năng suất, biến đổi khí hậu còn làm gia tăng chi phí đầu tư cho hạ tầng nuôi trồng, buộc người dân phải thay đổi cách thức sản xuất. Các mô hình canh tác truyền thống vốn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên không còn phù hợp, trong khi yêu cầu của thị trường quốc tế ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, sản xuất xanh, bền vững.

Thời của những mô hình thuận thiên Mô hình nuôi cá đồng trong mùa lũ ở An Giang do Hội Nông dân xã An Cư (tỉnh An Giang) phối hợp Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) triển khai

được kỳ vọng sẽ mở ra hướng đi mới, giúp nông dân tăng thu nhập, bảo tồn đa dạng sinh học trên vùng xả lũ hằng năm.

Như vậy, thay vì bỏ hoang đất canh tác khi ngập nước, nông dân dựng đăng quầng, kết hợp trồng sen, thả nuôi các loài cá bản địa như cá lóc, cá trê, đồng thời dẫn dụ cá tự nhiên vào khu vực nuôi. Mô hình này giúp người dân có thêm thu nhập từ đất ngập nước, giảm khai thác cá tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và cải thiện chất lượng đất cho vụ lúa sau lũ. Theo đánh giá của các chuyên gia, đây là mô hình sinh thái bền vững, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế, vừa duy trì cân bằng tự nhiên, đúng nghĩa “thuận thiên”.

Còn ở vùng đất ngập mặn ven biển, điển hình như Cà Mau, mô hình luân canh lúa - tôm đã chứng minh hiệu quả vượt trội.

Vào mùa khô, người dân nuôi tôm sú, tôm càng xanh; đến mùa mưa, họ rửa mặn đồng để trồng lúa. Chu kỳ canh tác này giúp cắt mầm bệnh, tái tạo đất, giảm chi phí vật tư, đồng thời tận dụng chất thải của tôm làm phân bón tự nhiên cho lúa.

Theo đuổi mô hình này, nhiều Hợp tác xã lúa - tôm như Trí Lực đã được cấp chứng nhận hữu cơ quốc tế ASC Group. Nông dân có thu nhập cao hơn mức trung bình 150 triệu đồng/ha/năm nhờ sản phẩm được doanh nghiệp bao tiêu với giá cao. Ở tỉnh Bạc Liêu (cũ), diện tích lúa - tôm đạt trên 15.000 ha, năng suất lúa 8 - 10 tấn/ha, tôm 250 - 300 kg/ha, cho thấy tính hiệu quả và bền vững của mô hình này.

Một mô hình khác mang đậm dấu ấn “thuận thiên” là nuôi tôm dưới tán rừng ngập mặn. Mô hình này phát triển rất tốt tại tỉnh Cà Mau. Người dân tận dụng không gian sinh thái tự nhiên để nuôi tôm, cua, sò, hạn chế tối đa thức ăn công nghiệp và hóa chất.

Tỉnh Cà Mau đang tiên phong thực hiện kế hoạch phát triển ngành tôm giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, hướng tới kim ngạch xuất khẩu 1,65 tỷ USD vào năm 2030 và 6 tỷ USD vào năm 2050. Mục tiêu của kế hoạch là xây dựng chuỗi giá trị thủy sản xanh, carbon thấp, thích ứng biến đổi khí hậu, phù hợp với cam kết giảm phát thải của Việt Nam theo Thỏa thuận Paris.

Nhiều doanh nghiệp lớn như

Minh Phú, Camimex, CASES đã liên kết với các hộ dân để phát triển chuỗi tôm - rừng đạt các chứng nhận quốc tế như EU Organic, Naturland, ASC, BAP. Hiện toàn tỉnh Cà Mau (cũ) có khoảng 39.500 ha diện tích tôm

- rừng, góp phần bảo vệ rừng, giảm phát thải carbon và duy trì đa dạng sinh học.

Ngoài ra, tỉnh Cà Mau đang thí điểm mô hình nuôi tôm siêu thâm canh không xả thải và tôm quảng canh hai giai đoạn giảm phát thải carbon, hướng đến sản xuất xanh, thích ứng với khí hậu và đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu cao cấp.

Không chỉ ở ĐBSCL, nhiều địa phương miền Trung và miền Bắc cũng đang phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp bảo

tồn sinh thái. Ở Quảng Ninh,

người dân nuôi nhuyễn thể dưới

tán rừng ngập mặn ven biển; tại Nghệ An và Hà Tĩnh, mô hình nuôi cá lồng trên hồ chứa gắn với trồng rừng phòng hộ cũng mang lại hiệu quả kinh tế và môi

trường rõ rệt.

Những mô hình này minh chứng cho xu hướng chuyển đổi từ sản xuất khai thác sang sản xuất dựa vào tự nhiên, thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu và hướng tới nền nông nghiệp sinh thái.

Cần thêm những giải pháp thích ứng

Dù mang lại nhiều lợi ích, các mô hình thủy sản thuận thiên vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn. Trước hết, đó là do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún khiến việc cơ giới hóa, áp

dụng công nghệ cao và truy xuất nguồn gốc gặp trở ngại. Cơ sở hạ tầng vùng nuôi chưa đồng bộ; thiếu quy hoạch tổng thể, dẫn tới chất lượng sản phẩm không ổn định. Biến đổi khí hậu tiếp tục gây ra những thiên tai

bất thường như hạn hán, xâm

nhập mặn, bão lũ, làm gia tăng rủi ro cho người nuôi. Ngoài ra, sự thiếu hụt lao động có tay nghề, vốn đầu tư hạn chế, cùng với việc liên kết giữa người dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ khiến nhiều mô hình chưa thể mở rộng quy mô.

Theo các chuyên gia, để hướng sản xuất thuận thiên thực sự phát huy hiệu quả, cần có cơ chế chính sách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Đầu tiên, cần đẩy mạnh quy hoạch vùng nuôi thích ứng khí hậu, đảm bảo hài hòa giữa sản xuất và bảo tồn sinh thái. Các địa phương cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ (ban hành năm 2017) về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, lấy “thuận thiên” làm triết lý chủ đạo. Song song với đó, tăng cường đầu tư hạ tầng (thủy lợi, điện, giao thông nội đồng, hệ thống cấp thoát nước) để hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh. Ngoài ra, Nhà nước cần có thêm chính sách tín dụng ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào vùng nuôi, tham gia chuỗi giá trị và bao tiêu sản phẩm.

Về khoa học - công nghệ, cần đẩy mạnh nghiên cứu mô hình nuôi trồng giảm phát thải, ít rủi ro, nhân rộng các quy trình sản xuất hữu cơ, sinh thái. Công tác đào tạo, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế cho nông dân cũng là yếu tố quyết định để nâng cao giá trị xuất khẩu. Từ những mô hình thành công ở An Giang, Cà Mau… có thể thấy “thuận thiên” không chỉ là khẩu hiệu mà là hướng đi tất yếu của ngành thủy sản Việt Nam. Đó là cách tiếp cận thông minh, hài hòa giữa kinh tế và môi trường, giữa con người và tự nhiên. Khi người dân chủ động thích ứng, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, và Nhà nước có chính sách hỗ trợ đồng bộ, sản xuất thuận thiên sẽ trở thành nền tảng cho một ngành thủy sản bền vững trước biến đổi khí hậu và hội nhập toàn cầu.

Ảnh: Kim Anh/ Báo NN&MT

Cá rô phi Việt Nam vươn tầm thế giới

Bước ngoặt

từ chuỗi

sản xuất xanh

Thế giới đang chuyển mình trong kỷ nguyên

xanh, nơi tăng trưởng kinh tế không thể tách rời

trách nhiệm với môi trường. Trong dòng chảy

đó, cá rô phi – loài cá nước ngọt quen thuộc

đang được nhìn nhận như “ứng viên sáng giá” cho chiến lược phát triển thủy sản xanh.

Tiềm năng lớn, thị trường mở rộng

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, diện tích nuôi cá rô phi trên cả

nước năm 2024 đạt khoảng 42.000 ha, sản lượng 316.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 41 triệu USD. Nếu tính riêng 6 tháng đầu năm nay, sản lượng cá rô phi ước đạt 220.000 tấn, lũy kế 8 tháng đầu năm đạt 63,3 triệu USD, gấp gần 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Các vùng nuôi tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Đồng Tháp), Đồng bằng sông Hồng (Bắc Ninh, Hải Phòng) và một số tỉnh miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Sơn La. Việt Nam hiện đứng trong nhóm 10 quốc gia sản xuất cá rô phi lớn của thế giới. Thị trường tiêu thụ chính là Mỹ, EU, Trung Đông và Nam Mỹ, trong đó các sản phẩm chủ lực gồm phi lê đông lạnh, cá rô phi tươi và chế biến sẵn. Ngược lại, nhập khẩu cá rô phi vào Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, chủ yếu phục vụ chế biến xuất khẩu tái xuất. Phát biểu tại Diễn đàn phát triển sản xuất và tiêu thụ cá rô phi tổ chức tại Hải Phòng mới đây, ông Nhữ Văn Cẩn - Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cho biết dù kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này mới chỉ đạt 70–80 triệu USD, nhưng tiềm năng còn rất lớn. “Cá rô phi hoàn toàn có thể trở thành ngành hàng tỷ đô tiếp theo của thủy sản Việt Nam nếu phát triển theo hướng xanh, có chuỗi liên kết và thương hiệu quốc gia,” ông nhấn mạnh. Nhận thức rõ điều đó, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã và đang tập trung vào tám nhóm giải pháp trọng tâm để đưa cá rô phi trở thành sản phẩm chiến lược. Từ quy hoạch vùng nuôi tập trung, phát triển giống chọn lọc GIFT và rô phi đỏ, đến thúc đẩy liên kết chuỗi và ứng dụng công nghệ tuần hoàn, tất cả đều hướng tới mục tiêu chung là chuẩn hóa quy trình, nâng chất lượng và giảm phát thải.

“Điều quan trọng không phải mở rộng diện tích, mà là làm cho mỗi vùng nuôi có danh tính, có tiêu chuẩn, có khả năng truy xuất nguồn gốc,” ông Cẩn nói.

Theo ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cá rô phi đang vươn lên trở thành một trong những loài cá được tiêu thụ nhiều nhất thế giới. Năm 2024, sản lượng cá rô phi toàn cầu đạt hơn

7 triệu tấn, dự báo tăng lên 7,3 triệu tấn trong năm 2025, với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 3,5%/năm. Châu Á hiện là trung tâm sản xuất lớn nhất, chiếm tới 67% tổng sản lượng, trong đó Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 1,8 triệu tấn, tương đương hơn một nửa lượng cá rô phi xuất khẩu toàn cầu.

Cá rô phi được đánh giá là loài cá “dễ nuôi – dễ thích nghi – hiệu quả cao”, đồng thời đáp ứng xu hướng tiêu dùng mới của thế giới: ưu tiên thực phẩm lành mạnh, có nguồn gốc bền vững và truy xuất rõ ràng.

Các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Đông đang gia tăng nhập khẩu sản phẩm cá rô phi đạt chứng nhận ASC, BAP hoặc GlobalGAP – một tín hiệu tích cực cho các nước đang phát triển như Việt Nam.

“Đây là thời điểm vàng để Việt Nam bứt phá, khi nhiều quốc gia sản xuất lớn đang gặp khó về chi phí, môi trường và dịch bệnh,” ông Nam nhận định.

Liên kết cùng phát triển

Những định hướng đó đang được hiện thực hóa bằng những mô hình cụ thể ở nhiều địa phương. Tại An Giang, nơi được coi là “vựa cá nước ngọt” của miền Tây

Nam Bộ, việc nuôi cá rô phi theo hướng tuần hoàn sinh học đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Theo ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, toàn tỉnh có hơn 1.000 ha cá rô phi thương phẩm, trong đó phần lớn đạt chứng nhận VietGAP.

“Chúng tôi không mở rộng bằng mọi giá, mà tập trung nâng chuẩn kỹ thuật, giảm phát thải, tái sử dụng nước và xử lý chất thải hữu cơ. Mục tiêu là phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và duy trì sinh kế cho người dân,” ông Hiệp chia sẻ.

Từ thực tế tại An Giang có thể thấy, khi chính quyền đồng hành cùng người nuôi, phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu. Mỗi ao nuôi, mỗi hộ dân đều đang là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị xanh mà Việt Nam hướng tới. Câu chuyện ấy cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Bắc – nơi doanh nghiệp đang trở thành động

lực trung tâm của quá trình chuyển đổi. Tại Hợp tác xã Sản xuất & Thương mại

Thủy sản Xuyên Việt (Hải Phòng), người ta có thể thấy hình mẫu một chuỗi liên kết

khép kín: từ con giống, quy trình nuôi, thu hoạch đến chế biến và xuất khẩu. Hệ thống ao nuôi ở đây được giám sát bằng cảm biến môi trường 24/7, quản lý dữ liệu qua phần mềm, và áp dụng công nghệ Biofloc giúp tái tạo vi sinh, hạn chế chất thải.

“Chúng tôi nuôi cá theo cách mới – sạch từ ao nuôi đến bàn ăn, và minh bạch toàn chuỗi. Khi người nuôi, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng đi chung một hướng, con cá Việt Nam sẽ đủ sức đi xa,” ông Lê Văn Việt – Chủ tịch HĐQT Xuyên Việt khẳng định. Không chỉ dừng ở sản xuất, Xuyên Việt còn đầu tư mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng như cá phi lê, chả cá, thực phẩm tiện lợi,... Không chỉ dùng làm thực phẩm, phụ phẩm từ cá rô phi có thể được tận dụng

làm bột protein, dầu cá và phân hữu cơ, tạo nên mô hình kinh tế tuần hoàn không rác thải, vừa giúp gia tăng giá trị, vừa bảo vệ môi trường. Theo VASEP, nếu 50% doanh nghiệp cá rô phi Việt Nam áp dụng mô hình xanh như Xuyên Việt, giá trị xuất

khẩu toàn ngành có thể tăng thêm 40%.

“Xanh không chỉ là xu hướng, mà là điều

kiện để tồn tại trong thị trường quốc tế,” ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng Thư ký

VASEP nhận định.

Sự thay đổi trong tư duy sản xuất đang

được thúc đẩy mạnh mẽ bởi công nghệ.

Theo ông Ngô Thế Anh – Trưởng phòng

Nuôi trồng Thủy sản, Cục Thủy sản và

Kiểm ngư: “Nếu trước đây người nuôi cần kinh nghiệm, thì nay họ cần dữ liệu. Ai nắm dữ liệu, người đó làm chủ chất lượng.”

Mô hình tuần hoàn RAS, cảm biến IoT, cho ăn tự động, nhật ký điện tử… đang dần thay thế cách làm truyền thống, giúp kiểm soát môi trường và tăng hiệu quả sản xuất. Công nghệ cũng mở ra hướng khai thác phụ phẩm – phần giá trị bị bỏ quên lâu nay khi 30–40% khối lượng cá có thể tận dụng làm collagen, dầu cá, hoặc nguyên liệu dược phẩm.

Việc kết hợp giữa chính sách, công nghệ và doanh nghiệp đang giúp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng thương hiệu quốc gia cá rô phi tương tự như thành công của cá tra trước đây. Theo kế hoạch, đến năm 2030, sản phẩm cá rô phi mang thương hiệu quốc gia sẽ được gắn mã truy xuất vùng nuôi, logo

Ngành hủy sản đặt mục tiêu năm 2030, sản lượng cá rô phi trong nước đạt khoảng 400.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 100 triệu USD, hướng tới xây dựng thương hiệu quốc gia “Cá rô phi Việt Nam” gắn với chứng nhận quốc tế như ASC, BAP hoặc VietGAP; đồng thời đề ra 8 nhóm giải pháp: Quy hoạch hạ tầng vùng nuôi; Phát triển giống chất lượng cao; Ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến; Giảm chi phí thức ăn, nâng hiệu quả kinh tế; Tổ chức sản xuất theo chuỗi; Đầu tư chế biến sâu; Xây dựng thương hiệu quốc gia; Tăng cường

nhận diện thống nhất, và đáp ứng tiêu chuẩn xanh – sạch – minh bạch.

“Thương hiệu không chỉ là tên gọi, mà là lời cam kết về chất lượng, trách nhiệm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế,” Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Nhữ Văn Cẩn nhấn mạnh.

Tuy nhiên, để đạt được điều đó, các chuyên gia cho rằng cần đồng thời tháo gỡ nút thắt về vốn và hạ tầng. Nhiều hộ nuôi và doanh nghiệp nhỏ vẫn khó tiếp cận tín dụng xanh để đầu tư công nghệ mới. Theo ông Nguyễn Hoài Nam (VASEP), cần có chính sách ưu đãi thực chất cho mô hình sản xuất tuần hoàn, chế biến phụ phẩm, và hệ thống truy xuất điện tử. “Khi lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường đi cùng nhau, ‘xanh’ mới có thể trở thành hiện thực,” ông Nam khẳng định. Hành trình phát triển cá rô phi Việt Nam

hôm nay là sự kết nối của ba trụ cột: Nhà nước kiến tạo chính sách, doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi giá trị, và người nuôi –chuyên gia trực tiếp tạo nên sản phẩm. Khi ba lực này đồng hành, cá rô phi Việt Nam không chỉ là mặt hàng xuất khẩu, mà còn là hình ảnh của nông nghiệp xanh – trách nhiệm – hội nhập.

Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học

Nền

tảng cho quản

lý, nghiên cứu và phát triển thủy sản

Trong lĩnh vực thủy sản, việc chuẩn hóa các danh từ và khái niệm khoa học là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tính thống nhất, chính xác và minh bạch trong nghiên cứu, giảng dạy và quản lý. Sự thống nhất này giúp tránh mơ hồ trong đánh giá sản phẩm khoa học, hạn chế sai lệch trong trao đổi học thuật, đồng thời tạo nền tảng so sánh kết quả nghiên cứu giữa các tổ chức. Ngoài ra, chuẩn hóa còn thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hỗ trợ hoạch định chính sách và nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn, qua đó góp phần vào phát triển bền vững của ngành thủy sản.

Ảnh: Kibeom Jin

Trong một số hội đồng xét duyệt, thẩm

định, nghiệm thu đề tài và văn bản quản lý trong lĩnh vực thủy sản, có thể nhận thấy không ít trường hợp chủ nhiệm, đồng chủ nhiệm đề tài, nhà khoa học và cán bộ quản lý mắc sai sót trong việc sử dụng khái niệm. Chẳng hạn, khái niệm “hệ sinh thái” thường bị hiểu sai chỉ như một khía cạnh cụ thể của một thủy vực, trong khi thực chất, nó chỉ toàn bộ một hệ thống có các đặc trưng chung gồm sinh vật – môi trường – và các mối tương tác giữa chúng. Tương tự, vẫn còn sự nhầm lẫn giữa các cặp khái niệm như “quần thể” và “quần đàn” sinh vật; “hệ sinh thái khởi nghiệp” và “môi trường khởi nghiệp”; “trầm tích” và “đất nền đáy”; hay giữa “công nghệ”, “quy trình công nghệ” và “mô hình sản xuất”; giữa “kịch bản”, “tình huống” và “phương án”; cũng như cách gọi tên khoa học của các loài như “tôm thẻ chân trắng” và “tôm he chân trắng”, v.v.v Trên cơ sở khảo cứu các báo cáo khoa học, sách chuyên khảo và bài giảng tại các cơ sở đào tạo, chúng tôi đã tiến hành tổng hợp và hệ thống hóa các định nghĩa, khái niệm nhằm góp phần làm rõ hơn các thuật ngữ khoa học thường được sử dụng trong lĩnh vực thủy sản.

1. Sinh cảnh (Habitat)

Sinh cảnh là khái niệm sinh thái học chỉ môi trường sống tự nhiên của một loài sinh vật. Nó bao gồm toàn bộ các yếu tố vô sinh (nước, ánh sáng, nhiệt độ, muối và các khí hòa tan trong nước...) và yếu tố hữu sinh (thực vật, động vật khác, vi sinh vật...), tạo nên nơi cư trú của quần thể sinh vật. Sinh cảnh và quần thể sinh vật trong đó cùng hình thành một hệ sinh thái, với sự tương tác qua lại giữa sinh vật và môi trường. Có thể hiểu đơn giản, sinh cảnh là “nơi ở” của một loài hay quần thể sinh vật.

2. Quần thể thủy sinh vật (Aquatic Populations)

Quần thể thủy sinh vật là tập hợp các cá thể cùng loài, tồn tại trong cùng một sinh cảnh ở một không gian và thời gian xác định. Các cá thể trong quần thể có khả năng sinh trưởng, phát triển và sinh sản, tạo nên những thế hệ kế tiếp. Quần thể có các đặc trưng cơ bản như: tỷ lệ giới tính, cấu trúc tuổi, sự phân bố cá thể, mật độ và kích thước quần thể...

3. Quần xã thủy sinh vật (Aquatic Communities) Quần xã thủy sinh vật (hay cộng đồng sinh vật thủy sinh) là tập hợp nhiều loài sinh vật

cùng sinh sống trong một không gian và thời gian, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và với môi trường sống. Các loài trong quần xã tương tác theo nhiều hình thức như cạnh tranh, cộng sinh, ký sinh, hay quan hệ vật ăn thịt – con mồi...

4. Hệ sinh thái (Eco-system)

Hệ sinh thái là một hệ thống mở, bao gồm sự tương tác qua lại giữa quần xã sinh vật và môi trường sống. Cấu trúc hệ sinh thái gồm hai thành phần chính: Sinh vật: (1) Nhóm sản xuất, (2) Nhóm tiêu thụ, (3) Nhóm phân hủy; Môi trường: (1) Môi trường đất, (2) Môi trường nước, (3) Môi trường không khí. Trong hệ sinh thái, các sinh vật và môi trường luôn tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, tương đối ổn định nhưng cũng có khả năng biến đổi theo điều kiện bên ngoài...

5. Sinh thái học (Ecology)

Sinh thái học là ngành khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật và với môi trường tự nhiên. Nội dung nghiên cứu bao gồm: Sự tương tác, cạnh tranh, hợp tác giữa các loài; Quá trình thích nghi và phân bố sinh vật; các quy luật về số lượng và cấu trúc quần thể; các chu trình dinh dưỡng, dòng năng lượng trong hệ sinh thái. Sinh thái học cung cấp cơ sở khoa học cho việc quản lý hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với các thách thức môi trường.

6. Nguồn gen (Genetic Resources)

Nguồn gen là bao gồm các loài sinh vật trong tự nhiên, cũng như vật liệu di truyền và mẫu vật lưu giữ trong các khu bảo tồn, cơ sở nghiên cứu và ngân hàng gen. Đây là tài nguyên di truyền có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, đảm bảo cân bằng sinh thái, và phục vụ nghiên cứu, chọn giống, phát triển công nghệ sinh học.

7. Đa dạng sinh học (Biodiversity) Đa dạng sinh học là sự phong phú và biến dị của sinh giới, bao gồm: Đa dạng di truyền (gen, loài phụ, biến dị trong loài); đa dạng loài (số lượng và thành phần loài sinh vật); đa dạng hệ sinh thái (các dạng môi trường sống trên cạn, dưới nước và không khí). Đa dạng sinh học phản ánh mức độ phong phú và phức tạp của tự nhiên. Nó không chỉ là tổng số loài, hệ sinh thái hay nguồn gen, mà còn bao gồm cả những mối quan hệ sinh thái đa dạng giữa chúng. Bảo tồn

đa dạng sinh học là nền tảng duy trì cân bằng sinh thái và sự phát triển bền vững.

8. Hình thức nuôi (Forms of farming)

8.1. Nuôi quảng canh (Extensive culture) Thực hiện trong các đầm lớn hoặc đầm rừng ngập mặn, có gia cố bờ, khai thông luồng lạch và lắp đặt cống điều tiết nước theo thủy triều. Môi trường và sinh thái phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Người nuôi chỉ bổ sung giống sau khi đã loại bỏ hoặc hạn chế địch hại. Nguồn thức ăn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Có thể áp dụng hình thức thu tỉa – thả bù theo con nước hàng tháng.

8.2. Nuôi quảng canh cải tiến (Improved extensive culture)

Ao, đầm được đầu tư, cải tạo với hệ thống cống, mương bao quanh và mương xương cá (nếu cần). Bờ ao được gia cố chống rò rỉ và thẩm lậu. Nước ra vào có cống điều tiết và hệ thống lọc. Trước khi thả giống, ao được cải tạo, diệt tạp, xử lý và gây màu nước. Thức ăn tự nhiên chiếm khoảng 50–70%, kết hợp bổ sung 30–50% thức ăn nhân tạo.

8.3. Nuôi bán thâm canh (Semi-intensive culture)

Ao nuôi có diện tích hợp lý, độ sâu ≥ 1,0 m, bờ ao được gia cố chống rò rỉ, có cống cấp – thoát chủ động hoặc theo thủy triều. Trước khi thả giống, ao được cải tạo, diệt tạp, xử lý nước, loại bỏ địch hại và tác nhân gây bệnh; nước được gây nuôi tảo 5–7 ngày. Mật độ thả giống phụ thuộc vào năng lực thiết bị hỗ trợ (máy bơm, dàn quạt nước, thiết bị chuyên dụng). Trong quá trình nuôi, môi trường ao được theo dõi và điều chỉnh thường xuyên. Toàn bộ thức ăn cung cấp là thức ăn nhân công hoặc công nghiệp.

8.4. Nuôi thâm canh & siêu thâm canh

Cơ sở hạ tầng: Ao hoặc bể có diện tích 0,1–0,5 ha, độ sâu ≥1,5 m; đáy và bờ được cứng hóa hoặc lót bạt; có hệ thống cấp, thoát và xử lý nước riêng biệt.

Chuẩn bị ao nuôi: Chủ động cải tạo ao, diệt tạp, xử lý và gây màu tảo trước khi thả giống 5–7 ngày.

Giống và thức ăn: Chủ động nguồn giống và thức ăn; kiểm soát chặt chẽ chất lượng; thả giống với mật độ cao phù hợp với hình thức nuôi.

Quản lý và vận hành: Chủ động kiểm soát môi trường nước và cung cấp ôxy; giám sát các chỉ tiêu kỹ thuật thông qua hệ thống quan trắc tự động và kết nối internet.

An toàn sinh học: Tuân thủ đầy đủ các quy định về an toàn sinh học, bao gồm kiểm soát dịch bệnh, quản lý chất thải và khử trùng định kỳ.

8.5. Nuôi công nghiệp (Industrial culture)

Về cơ bản giống với nuôi thâm canh và siêu thâm canh, nhưng được kiểm soát toàn diện các điều kiện sinh thái (nhiệt độ, ánh sáng, mưa gió...), nhờ đó đạt mức độ tự động hóa và ổn định cao hơn.

9. Mô hình nuôi (Aquaculture production model)

Mô hình sản xuất là hình thức tổ chức và quản lý quá trình sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ. Có thể hiểu đây là một chu trình sản xuất thu nhỏ đã được xây dựng hoặc tồn tại trong thực tế, được sử dụng như một mẫu hình để hoàn thiện quy trình sản xuất mới, đồng thời làm khuôn mẫu để nhân rộng thành các mô hình sản xuất quy mô lớn hơn.

Mô hình nuôi thủy sản là một phương thức sản xuất thu nhỏ được thiết kế nhằm thử nghiệm, đánh giá và tối ưu hóa các yếu tố kỹ thuật và kinh tế trong quá trình nuôi. Mô hình bao gồm các nội dung chính: lựa chọn địa điểm, xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị; áp dụng các quy trình công nghệ phù hợp; bố trí và quản lý nguồn nhân lực; tính toán chi phí và hiệu quả kinh tế nhằm đảm bảo khả năng sinh lợi và tính bền vững của hoạt động sản xuất.

10. Quy trình công nghệ (Technological process)

Quy trình công nghệ là chuỗi các hoạt động có tính công nghệ được sắp xếp theo trình tự hợp lý nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ hoặc giải pháp kỹ thuật. Đây là một phần (hoặc một công đoạn) trong toàn bộ chu kỳ sản xuất, trực tiếp làm thay đổi trạng thái, hình dạng hoặc tính chất của đối tượng sản xuất.

11. Công nghệ (Technology)

Công nghệ là tập hợp các kỹ năng, kinh nghiệm và kỹ thuật được nghiên cứu, cải tiến và áp dụng ở một khâu hoặc công đoạn cụ thể của quy trình công nghệ, nhằm tạo ra sản phẩm thủy sản đáp ứng nhu cầu sản xuất và thị trường.

12. An toàn sinh học (Biosafety)

An toàn sinh học trong nuôi trồng thủy sản là hệ thống các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và quản lý tổng hợp được áp dụng ngay

từ giai đoạn chuẩn bị đến kết thúc chu kỳ nuôi. Nhằm giảm thiểu nguy cơ xâm nhập và lây lan của tác nhân gây bệnh (ký sinh trùng, vi khuẩn, virus, nấm), ngăn ngừa ô nhiễm môi trường nước và đất, đồng thời hạn chế sự xâm nhập của các sinh vật ngoại lai hoặc sinh vật gây hại khác vào ao nuôi hoặc vùng nuôi tập trung.

13. Môi trường nuôi (Culture environment)

13.1. Môi trường nền đáy ao Môi trường nền đáy ao nuôi thủy sản là hệ sinh thái gồm các yếu tố vô sinh (vật chất hữu cơ, khoáng và cấu trúc đất đáy) và hữu sinh (thực vật, động vật, vi sinh vật) cùng tồn tại và tương tác trong nền đáy ao. Trong đó có sự tương tác, trao đổi vật chất với nước và không khí, được phân tầng từ lớp bùn bề mặt đến các lớp sâu hơn, với mức độ phân hủy và khoáng hóa giảm dần.

13.2. Ô nhiễm môi trường đất Ô nhiễm môi trường đất là sự xuất hiện hoặc tích tụ các chất thải, chất độc hại hay năng lượng ở mức vượt quá khả năng tự làm sạch của đất, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sinh vật, sức khỏe con người và làm suy thoái chất lượng môi trường.

13.3. Môi trường nước trong nuôi thủy sản Môi trường nước ao/bể nuôi là không gian sinh tồn của vật nuôi và thủy sinh vật, gồm các yếu tố vô sinh (thủy lý, thủy hóa) và hữu sinh. Tất cả các nhóm sinh vật trong đó đều chịu tác động trực tiếp từ đặc tính môi trường nước. Môi trường này có thể bao quát từ quy mô thủy vực lớn (hồ, đầm phá, biển) đến phạm vi hẹp (ao, bể nuôi).

13.4. Ô nhiễm môi trường nước Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều hướng xấu các đặc tính vật lý, hóa học, sinh học của nước, do sự xuất hiện các chất lạ (rắn, lỏng, khí) vượt quá ngưỡng an toàn, làm nước trở nên độc hại, phá vỡ cân bằng hệ sinh thái và giảm đa dạng sinh học.

13.5. Chất gây ô nhiễm môi trường nước

(Water pollutants)

Chất gây ô nhiễm nước bao gồm chất thải hữu cơ, vô cơ, hóa học, sinh học hoặc các yếu tố vật lý. Nguồn phát sinh chủ yếu từ công nghiệp (nhà máy, khai thác khoáng sản…), nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất…), y tế, sinh hoạt, rác thải cảng biển… Khi vượt quá khả năng tự điều chỉnh của thủy vực, các chất này gây ô nhiễm và đe dọa hệ sinh thái thủy sinh. Bao gồm:

a) Ô nhiễm vật lý (Physical pollution): Do các chất rắn không tan (chất lơ lửng, vô cơ hoặc hữu cơ) làm tăng độ đục; các chất thải công nghiệp có màu, các hợp chất hóa học (muối sắt, mangan, phenol, sulfua, dầu, amoniac…) gây mùi, vị bất thường, ảnh hưởng đến giá trị sử dụng và chất lượng nước. b) Ô nhiễm hóa học (Chemical pollution):

Do các hợp chất nông nghiệp (nitrat, phosphat, thuốc trừ sâu, diệt cỏ…) và công nghiệp (ion kim loại nặng như Cr, Ni, Cd, Mn, Cu, Hg, CN…). Ở nồng độ thích hợp, nitrat và phosphat có lợi cho sinh vật phù du, nhưng ở mức cao sẽ gây phú dưỡng, ô nhiễm hữu cơ. c) Ô nhiễm sinh học (Biological pollution) Ô nhiễm sinh học chủ yếu do sự tích tụ chất hữu cơ dễ phân hủy, tạo điều kiện cho vi sinh vật gây hại phát triển. Nguồn gốc có thể từ nước thải sinh hoạt, rác hữu cơ, dư lượng hóa chất nông nghiệp, sản phẩm phụ công nghiệp, khí thải… dẫn đến suy giảm chất lượng nước và nguy cơ dịch bệnh. 13.6. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước (Causes of water pollution)

a) Nguyên nhân tự nhiên: Mưa, lũ, bão, tuyết tan, xác chết sinh vật phân hủy gây phú dưỡng và thiếu ôxy; đặc điểm địa chất (đất phèn, nước ngầm nhiều sắt, nhôm, canxi…).

b) Nguyên nhân nhân sinh: Chủ yếu do hoạt động của con người, gồm: chất thải công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt; rửa trôi hóa chất và rác thải trong mùa mưa; nước thải chưa qua xử lý… Đây là nguyên nhân chính làm suy thoái nguồn nước hiện nay.

Tóm lại, thuật ngữ khoa học là hình thức biểu đạt của nội dung tư tưởng, tức là “cái nghĩa”, được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học, có tính chính xác, khái quát và ổn định. Mỗi thuật ngữ thường gắn liền với một khái niệm được xác định rõ ràng và diễn đạt bằng định nghĩa chặt chẽ, nhằm tránh sự mơ hồ trong giao tiếp học thuật. Khái niệm đóng vai trò quy nạp các hiện tượng riêng lẻ thành những phạm trù thống nhất, giúp nhận thức khoa học có hệ thống và nhất quán. Do đó, việc sử dụng đúng thuật ngữ trong các tài liệu, báo cáo khoa học cũng như văn bản quản lý là hết sức cần thiết để đảm bảo tính chính xác và minh bạch trong nghiên cứu và thực tiễn quản lý.

Trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, môi trường biển chịu nhiều sức ép và yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao, việc chuyển đổi nghề cho ngư dân đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với ngành thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, để chính sách đi vào cuộc sống, điều quan trọng nhất là các địa phương phải triển khai phù hợp với thực tiễn.

Áp lực từ phát triển bền vững

Nhiều năm qua, cường lực khai thác hải sản của nước ta đã tăng cao, ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của nguồn lợi. Các nghề khai thác có tính hủy diệt như lưới kéo đáy, lưới rê có mắt lưới nhỏ, hay việc khai thác ven bờ bằng xung điện, chất nổ… vẫn còn diễn ra ở một số nơi, gây tổn hại đến hệ sinh thái biển.

Bên cạnh đó, yêu cầu chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), nhất là sau cảnh báo “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC), đang đặt ra sức ép lớn đối với Việt Nam trong quản lý nghề cá. Việc chuyển đổi nghề vì vậy không chỉ là biện pháp bảo vệ môi trường, mà còn là điều kiện bắt buộc để khôi phục uy tín quốc tế của thủy sản Việt Nam. Nhằm giải quyết vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 208/ QĐ-TTg ngày 10/3/2023 phê duyệt Đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi và môi trường sinh thái. Mục tiêu của Đề án là từng bước giảm số lượng tàu cá và ngư cụ khai thác có tác động tiêu cực, chuyển sang các nghề khai thác thân thiện với môi trường hoặc các lĩnh vực khác như nuôi trồng, dịch vụ hậu cần, du lịch biển.

Năm 2025, cả nước phấn đấu chuyển đổi khoảng 2.000 tàu cá ven bờ và vùng lộng, cùng 1.000 tàu vùng khơi, sang các nghề ít ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Giai đoạn 20262030, mục tiêu là tiếp tục mở rộng chuyển đổi, gắn với phục hồi nguồn lợi thủy sản và phát triển kinh tế biển bền vững.

Để triển khai Đề án, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phê duyệt Kế hoạch triển khai chuyển đổi nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái. Kế hoạch này yêu cầu các địa phương xây dựng lộ trình cụ thể, rà soát lại đội tàu khai thác, xác định nhóm nghề cần chuyển đổi, đồng thời tổ chức đào tạo, tập huấn kỹ năng nghề mới cho ngư dân.

Đặc biệt, Kế hoạch nhấn mạnh việc chuyển đổi phải dựa trên điều kiện thực tế của từng vùng biển, phù hợp với năng lực, kinh nghiệm và nhu cầu của ngư dân. Đây chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi nghề. Ảnh: Dũ Tuấn/Báo Dân Việt

Không thể áp dụng rập khuôn

Ngay sau khi thực hiện lộ trình chấm dứt khai thác thủy sản bằng nghề lưới kéo, hàng nghìn ngư dân Quảng Ninh vùng ven biển Hạ Long, Cô Tô, Vân Đồn phải tìm hướng sinh kế mới. Chính quyền hỗ trợ người dân chuyển từ đánh bắt ven bờ sang nuôi cá lồng bè, nuôi nhuyễn thể, trồng rong và phát triển du lịch cộng đồng - trải nghiệm nghề cá. Kết quả, đã có hơn 1.000 hộ dân được chuyển đổi nghề ổn định. Nhiều mô hình “một lồng cá, hai hướng thu nhập”, vừa nuôi trồng vừa kết hợp dịch vụ du lịch, cho thu nhập gấp 3 - 4 lần nghề cũ. Ví dụ: mô hình du lịch sinh thái của hợp tác xã Vạn Chài Xanh giúp tạo việc làm ổn định cho 60 lao động, thu nhập bình quân 10 - 12 triệu đồng/tháng.

Hay tại Bình Định (nay là tỉnh Gia Lai) sau các đợt tuyên truyền về chống khai thác IUU, nhiều tàu cá công suất nhỏ phải dừng hoạt động. Tỉnh triển khai đào tạo nghề cơ khí, điện tàu, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần cảng cá, đồng thời hỗ trợ vốn vay ưu đãi. Kết quả, hơn 400 lao động đã được chuyển sang làm việc tại các xưởng sửa tàu, cơ sở nước đá, kho lạnh. Một số hộ phát triển dịch vụ cung ứng nhiên liệu, lương thực, vật tư cho tàu cá, thu nhập 15 - 20 triệu đồng/tháng.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi này không thể áp dụng rập khuôn cho tất cả các địa phương ven biển. Thực tế cho thấy, trong khi ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, tiềm năng phát triển du lịch biển, dịch vụ hậu cần và nghề cá giải trí khá lớn, thì ở nhiều khu vực Bắc Bộ hay miền Bắc Trung Bộ, đời sống ngư dân vẫn gắn chặt với khai thác truyền thống. Nếu việc chuyển đổi được thực hiện một cách cơ học, thiếu khảo sát cụ thể, sẽ dễ dẫn đến tình trạng “chuyển đổi trên giấy”, ngư dân bỏ nghề cũ nhưng chưa có nghề mới phù hợp. Ở một số địa phương, khi vận động ngư dân bỏ nghề lưới kéo để chuyển sang nuôi trồng thủy sản, do thiếu vốn, thiếu kỹ năng và đầu ra sản phẩm, người dân đã quay lại khai thác. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải chuyển đổi nghề theo hướng “vừa làm, vừa điều chỉnh”, lắng nghe ý kiến cộng đồng ngư dân, và có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thủy sản, du lịch, lao động, việc làm và chính quyền địa phương.

Chính vì thế, để hạn chế hoạt động khai thác gây hại, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương phải kiểm soát chặt việc cấp

phép khai thác. Cụ thể, không cấp phép đóng

mới hoặc cải hoán tàu cá cho các nghề có tác động xấu đến môi trường nếu chưa được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận; Không cấp phép cho tàu cá vi phạm chuyển vùng hoạt động, tránh tình trạng di chuyển tàu vi phạm từ nơi này sang nơi khác; Thiết lập hạn ngạch giấy phép khai thác theo vùng biển, phù hợp với khả năng tái tạo nguồn lợi thủy sản. Ngoài ra, công tác đào tạo, tập huấn và hỗ trợ sinh kế cũng đặc biệt được chú trọng. Bởi lẽ, việc đào tạo nghề là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi thành công. Ngư dân cần được trang bị kỹ năng mới, từ kỹ thuật nuôi biển, vận hành tàu du lịch, đến kỹ năng tiếp thị và quản lý tài chính nhỏ.

Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ tài chính, vay vốn ưu đãi cho ngư dân khi chuyển đổi, giúp họ đầu tư trang thiết bị, chuyển đổi phương tiện khai thác hoặc bắt đầu nghề mới.

Thêm vào đó, việc chuyển đổi nghề nên gắn với mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, trong đó cộng đồng ngư dân tham gia giám sát và bảo vệ vùng biển. Đồng thời, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn lợi, giảm thiểu tác động môi trường và tuân thủ các quy định về IUU.

Hướng tới nghề cá hiện đại và bền vững

Chuyển đổi nghề cho ngư dân là chủ trương

đúng đắn, mang tính chiến lược. Mỗi địa phương cần xây dựng lộ trình riêng, gắn với điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân sinh, kinh tế và năng lực của ngư dân.

Những vùng có tiềm năng du lịch nên ưu tiên mô hình cá giải trí, du lịch trải nghiệm;

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Việc chuyển đổi nghề cho ngư dân không chỉ giúp bảo vệ nguồn lợi thủy sản đang cạn kiệt, mà còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất, thoát khỏi tình trạng “bám biển bằng mọi giá”, mở ra hướng phát triển bền vững.

vùng cửa sông, đầm phá nên chuyển sang nuôi trồng, dịch vụ hậu cần; vùng xa bờ cần phát triển nghề khai thác ít tác động như câu, vây, rê. Chỉ khi có sự phối hợp giữa chính sách vĩ mô và hành động thực tế, công tác chuyển đổi nghề mới đạt hiệu quả, ngư dân mới thực sự “sống được” bằng nghề mới. Việt Nam đang đặt mục tiêu đến năm 2030, phát triển ngành thủy sản theo hướng hiện đại, hội nhập và có trách nhiệm. Việc chuyển đổi nghề cho ngư dân là một trong những trụ cột quan trọng để đạt được mục tiêu đó. Khi những con tàu cũ không còn khai thác tận diệt, mà thay vào đó là các mô hình du lịch, dịch vụ và nuôi biển công nghệ cao, nuôi trồng thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn thân thiện môi trường, đó không chỉ là sự thay đổi về sinh kế, mà còn là bước chuyển mình của ngành thủy sản Việt Nam, từ “khai thác” sang “bảo tồn và phát triển bền vững”. Tại phiên họp của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác IUU mới đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân và xây dựng dự án về chuyển đổi nghề cho ngư dân, lo lương thực, thực phẩm trong thời gian chuyển đổi, trước mắt Chính phủ sẽ hỗ trợ 3 tháng lương thực.

Thủ tướng yêu cầu các địa phương xây dựng đề án hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề phù hợp, gắn với chính sách vay ưu đãi, hỗ trợ lương thực, đào tạo nghề trong giai đoạn đầu để người dân yên tâm ổn định cuộc sống. Hồng Hà

THẨM ĐỊNH VÀNG

CHUỖI CUNG ỨNG THỦY SẢN

Mục tiêu là đảm bảo "sạch" ngay từ gốc rễ của chuỗi sản xuất.

 Con giống: Kiểm dịch, xét nghiệm mầm bệnh, đảm bảo nguồn gốc rõ ràng, được sản xuất từ cơ sở

điều kiện.

 Thức ăn và thuốc: Chỉ sử dụng các sản phẩm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam. Kiểm soát chặt chẽ dư lượng kháng sinh, hóa chất cấm.

QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT

Đây là bước kiểm soát tính bền vững, an toàn và hợp pháp của nguyên liệu.

Đối với nuôi trồng: Thẩm định điều kiện cơ sở nuôi (nguồn nước, xử lý bùn thải). Giám sát quy trình nuôi, ghi chép nhật ký (sử dụng thức ăn, hóa chất). Tiêu chuẩn áp dụng như VietGAP, GlobalG.A.P., ASC (Aquaculture Stewardship Council)…

 Đối với khai thác: Thẩm định tính hợp pháp của tàu cá (giấy phép, trang bị giám sát hành trình - VMS). Kiểm soát nhật ký khai thác, báo cáo sản lượng, đảm bảo không vi phạm IUU.

KIỂM SOÁT THU MUA VÀ VẬN CHUYỂN

Đảm bảo tính liên tục của chuỗi an toàn và khả năng truy xuất nguồn gốc (Traceability). 3

 Nguyên liệu phải có hồ sơ chứng minh nguồn gốc rõ ràng (từ cơ sở nuôi/tàu cá đã được thẩm định).

 Đảm bảo điều kiện bảo quản (duy trì chuỗi lạnh) trong suốt quá trình vận chuyển từ ao/cảng cá về nhà máy.

4

5

 Tiêu chuẩn quốc tế: HACCP, BRC (Global Standard for Food Safety), IFS Food… THẨM ĐỊNH NHÀ MÁY CHẾ BIẾN

Đây là nơi tất cả các mối nguy về an toàn thực phẩm phải được kiểm soát tuyệt đối.

 Đánh giá toàn diện điều kiện nhà xưởng, thiết bị, quy trình vệ sinh công nghiệp (SSOP) và thực hành sản xuất tốt (GMP).

 Thẩm định chương trình Quản lý Chất lượng theo HACCP (Phân tích mối nguy và Kiểm

soát điểm tới hạn). Đây là yêu cầu bắt buộc của hầu hết các thị trường.

LÔ HÀNG

Xác nhận bằng chứng khoa học rằng sản phẩm cuối cùng an toàn. CẤP CHỨNG THƯ XUẤT KHẨU (HEALTH CERTIFICATE)

 Cán bộ kiểm tra của cơ quan thẩm quyền lấy mẫu ngẫu nhiên đại diện cho lô hàng.

 Phân tích tại các phòng thí nghiệm được chỉ định (thuộc NAFIQPM hoặc được công nhận) để kiểm tra các chỉ tiêu:

 Vi sinh vật gây bệnh (Salmonella, E. coli...).  Dư lượng hóa chất, kháng sinh cấm.

 Kim loại nặng (thủy ngân, chì...).

Con dấu cuối cùng xác nhận lô hàng tuân thủ quy định của Việt Nam và thị trường nhập khẩu.

 Dựa trên kết quả thẩm định toàn bộ chuỗi (từ Bước 1 đến Bước 5).

 Nếu lô hàng đáp ứng TẤT CẢ yêu cầu của nước nhập khẩu (ví dụ: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc...), cơ quan thẩm quyền sẽ cấp Chứng thư An toàn Vệ sinh (Health Certificate).

*Lưu ý: Đây là quy trình tham khảo chung. Tùy thuộc vào sản phẩm cụ thể (như tôm, cá tra, nhuyễn thể hai mảnh vỏ...) và thị trường nhập khẩu (EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc...), doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu kỹ thuật và quy định chi tiết riêng biệt của thị trường đó.

Triển lãm Quốc tế Khoa học công nghệ thủy sản Việt Nam - VINAFIS EXPO với chủ

VINAFIS EXPO 2026

Thủy sản Việt Nam vươn mình

Triển lãm Quốc tế Khoa

học công nghệ thủy sản

Việt Nam đánh dấu bước

chuyển biến quan trọng

của ngành thủy sản

trong tiến trình hội nhập

và phát triển bền vững.

Triển lãm Quốc tế Khoa học công nghệ thủy sản Việt Nam - VINAFIS EXPO 2026 với chủ đề “Thủy sản Việt Nam vươn mình” được Bộ Nông nghiệp và Môi trường chấp thuận ngày 10/10/2025 tại Văn bản số 7767/BNNMT-CTSKN.

VINAFIS EXPO 2026 là triển lãm đầu tiên bao quát toàn ngành

thủy sản, mở ra cơ hội giao lưu,

kết nối toàn diện cho các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và quốc

tế nằm trong chuỗi giá trị ngành

thủy sản, từ khai thác, nuôi trồng, dịch vụ hậu cần nghề cá đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm, logistics.

Sự kiện dự kiến quy tụ hơn

200 gian hàng của các tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế, trưng bày những sản phẩm, công nghệ mới và dịch vụ trong nhiều lĩnh vực như: Nuôi trồng, khai thác, chế biến, giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, logistics và thương mại.

Đặc biệt, 40% đơn vị tham gia

VINAFIS EXPO 2026 đến từ các

nước như: Philippines, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...

VINAFIS EXPO 2026 sẽ diễn

ra nhiều hoạt động quan trọng, trong đó hội thảo khoa học quốc

tế tập trung vào các chủ đề nóng

như: Phát triển nuôi biển bền

Ngày 13/10/2025, Hội Thủy sản Việt Nam tổ chức họp báo công bố Triển lãm Quốc tế Khoa học công nghệ thủy sản Việt Nam lần thứ I - VINAFIS EXPO 2026. Sự kiện sẽ diễn ra trong 3 ngày từ 28 - 30/4/2026 tại Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn (SECC), TP. Hồ Chí Minh.

Theo ông Nguyễn Việt Thắng -

vững, dinh dưỡng và phòng bệnh thủy sản, công nghệ chế biếnbảo quản, logistics, đổi mới sáng tạo trong chuỗi giá trị. Diễn đàn chuyên ngành tôm Việt Nam (VietShrimp Forum) và hội thảo quốc tế về công nghệ nuôi biển (VinaMarine Aqua) hứa hẹn thu hút đông đảo chuyên gia, doanh nghiệp và nhà quản lý, bà con nông - ngư dân tham dự.

Diễn ra trong dịp kỷ niệm Ngày truyền thống Ngành Thủy sản Việt Nam (01/4), VINAFIS EXPO 2026 được đánh giá là sự kiện trọng điểm quốc gia, thể hiện

khát vọng đưa ngành thủy sản

Việt Nam phát triển theo hướng xanh - bền vững, hội nhập quốc tế sâu rộng. Với thông điệp

“Khác biệt để vươn tầm”, sự kiện

không chỉ là nơi giới thiệu thành

tựu mà còn là cầu nối hợp tác,

đầu tư và chuyển giao công nghệ giữa các bên liên quan trong và ngoài nước.

Chủ tịch Hội Thủy sản Việt Nam, Triển lãm lần này có bước tiến mới nhằm nâng cao chất lượng, tập hợp đông đảo hơn nữa các nhà khoa học, các doanh nghiệp công nghệ… để đưa tất cả công nghệ đó đến với ngành, với doanh nghiệp và người nuôi trồng thủy sản. Về phần mình, ông Nguyễn Hữu Dũng - Tổng Thư ký Hội Thủy sản Việt Nam nhấn mạnh, Triển lãm Quốc tế Khoa học công nghệ ngành thủy sản Việt Nam - VINAFIS EXPO 2026 sẽ là một chuỗi các sự kiện. Triển lãm có sự tham gia của nhiều đoàn khách quốc tế, Hội Nghề cá ASEAN, Hội Nghề cá Trung Quốc, Hội Nghề cá Hàn Quốc… Ngoài ra, trong khuôn khổ Triển lãm còn bao gồm nhiều hoạt động quan trọng như lễ thả cá nhân ngày truyền thống và trao giải Danh hiệu Chất lượng vàng thủy sản Việt Nam. Chia sẻ trong cuộc họp báo công bố Triển lãm ngày 13/10/2025 tại Hà Nội, TS. Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, kỳ vọng VINAFIS EXPO 2026 không chỉ là dịp trưng bày, quảng bá sản phẩm và công nghệ mới, mà còn là diễn đàn để cùng bàn luận về con đường phát triển ngành thủy sản Việt Nam theo hướng bền vững, hiệu quả và hội nhập sâu rộng hơn trong thời gian tới.

Uni-President Việt Nam

Chúng tôi chọn chất lượngkhông chọn lối tắt!

Trong bối cảnh thị trường ngành thủy sản ngày càng sôi động, không ít doanh nghiệp mọc lên tự phát, mang theo làn sóng sản phẩm được quảng cáo “thần tốc” với những lời có cánh, nhưng

chất lượng thực tế lại chưa được kiểm chứng. Giữa dòng chảy ấy,

Uni-President vẫn kiên định giữ vững định hướng phát triển: sản

phẩm chất lượng – giá thành hợp lý – phục vụ tận tâm, lấy hiệu

quả của người nuôi làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Không chạy theo lợi nhuận ngắn hạn, Uni-President tin rằng niềm tin chỉ được gây dựng từ giá trị thật. Mỗi sản phẩm trước khi ra mắt đều phải trải qua quá trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, thử nghiệm thực tế tại ao nuôi, được đội ngũ kỹ thuật giám sát chặt chẽ và kiểm chứng hiệu quả. Chính sự nghiêm túc trong từng khâu nghiên cứu, kiểm tra và đánh giá đã tạo nên bản sắc riêng của Uni-President – một thương hiệu gắn liền với chất lượng ổn định và trách nhiệm lâu dài với ngành thủy sản Việt Nam.

Song song đó, Uni-President không ngừng

đổi mới danh mục sản phẩm, ra mắt nhiều giải pháp và combo xử lý bệnh phù hợp với

điều kiện nuôi trồng hiện nay, nhằm giúp người nuôi giải quyết triệt để những vấn đề nan giải trong quá trình sản xuất. Những sản phẩm này

không chỉ mang lại hiệu quả rõ rệt, mà còn

được thiết kế với mức giá hợp lý, giúp người nông dân dễ dàng tiếp cận và ứng dụng.

Sản phẩm vi sinh Uni-light của Uni-President VN

Sản phẩm vi sinh

cùng loại thông thường

“Khi so sánh với sản phẩm cùng loại thông thường trên thị trường, sản phẩm vi sinh Uni-light của Uni-President ngoại quan có sắc đỏ

– đặc trưng của vi sinh Rhodopseudomonas, cho thấy hiệu quả sinh khối và năng lực xử lý hữu cơ vượt trội so với nhóm sản phẩm thông thường trên thị trường.”

Trong những năm gần

đây, Uni-President Việt Nam liên tục cho ra đời những Mô hình nuôi tôm được khách hàng áp dụng rộng rãi, những sản phẩm hỗ trợ sức khỏe tôm cá được đưa ra thị trường và nhận lại nhiều phản hồi tích cực từ khách hàng. Nhưng điều làm nên sự khác biệt của Uni-President không chỉ là sản phẩm, mà còn là tinh thần phụng sự, từ phòng thí nghiệm đến từng ao nuôi, từ khâu nghiên cứu đến hỗ trợ kỹ thuật, đội ngũ UniPresident luôn đồng hành sát sao cùng người nuôi, lắng nghe, chia sẻ và tìm giải pháp tối ưu cho từng trường hợp thực tế.

Minh chứng thuyết phục nhất cho những nỗ lực bền bỉ của Uni-President chính là thành công của người nuôi tôm trên khắp cả nước – những khách hàng tin tưởng và đồng hành cùng sản phẩm của công ty trong suốt nhiều năm qua. Từ miền Tây Nam Bộ đến miền Trung và miền Bắc, hàng trăm ao nuôi đã ghi nhận tỷ lệ sống cao, tăng trưởng ổn định và năng suất vượt trội, nhờ vào việc áp dụng quy trình nuôi chuẩn kết hợp sản phẩm chất lượng của Uni-President. Nhiều hộ nuôi chia sẻ, chính sự đồng hành tận tâm của đội ngũ kỹ thuật Uni-

President – từ việc hướng dẫn sử dụng sản phẩm, theo dõi môi trường, đến giải quyết kịp thời các vấn đề trong ao – đã giúp họ yên tâm sản xuất và đạt vụ mùa bội thu. Những kết quả thực tế ấy không chỉ là niềm vui của người nuôi, mà còn là động lực lớn nhất để Uni-President tiếp tục kiên định với con đường mình đã chọn: mang lại giải pháp toàn diện – sản phẩm chất lượng – và sự phát triển bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam. Trong hành trình hơn hai thập kỷ gắn bó với ngành thủy sản Việt Nam, Uni-President vẫn vững vàng với triết lý: “Chất lượng là lời quảng cáo mạnh mẽ nhất.”

Và chính điều đó đã giúp UP không chỉ giữ được vị thế vững chắc trên thị trường, mà còn trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của người nuôi trên mọi vùng miền.

Để tìm hiểu thêm về các giải pháp và quy trình nuôi tôm hiệu quả, bà con có thể liên hệ với đội ngũ nhân viên Uni-President qua số HotLine 02743.732.723, hệ thống đại lý trên toàn quốc, hoặc gửi tin nhắn trực tiếp qua Fanpage chính thức trên Facebook, để được lắng nghe và hỗ trợ trong thời gian sớm nhất. Uni-President - Luôn đồng hành và hỗ trợ quý khách!

Khánh thành Công ty

TNHH

Thức ăn

YueHai Việt Nam

Lễ khánh thành Công ty TNHH Thức ăn YueHai

Việt Nam vừa được tổ chức vào sáng ngày 30/10 tại

Lô 2, Khu Công nghiệp Hòa Phú, tỉnh Vĩnh Long.

Tham dự buổi lễ có ông Zheng

Shixuan – Chủ tịch HĐQT Tập

đoàn Thức ăn chăn nuôi YueHai; ông Zheng Yuqiu – Tổng giám

đốc Công ty TNHH Thức ăn

YueHai Việt Nam; TS. Vũ Trọng

Đại – Phó Viện trưởng Viện Thủy

sản, Trường Đại học Nha Trang; cùng các quan chức, thành viên

Tập đoàn, khách hàng và lãnh

đạo các sở, ngành tỉnh Vĩnh Long.

Phát biểu chào mừng buổi lễ,

ông Zheng Yuqiu cho biết, giai

đoạn 1 của dự án có tổng vốn

đầu tư gần 20 triệu USD, với

tổng công suất 100.000 tấn/ năm thức ăn cho cá và tôm. Dự

án gồm 4 dây chuyền sản xuất thức ăn tôm, công suất 5 tấn/

giờ (có thêm 2 dây chuyền dự phòng) và 1 dây chuyền sản

xuất thức ăn cá ép đùn, công suất 10 tấn/giờ.

Dự án áp dụng công nghệ

thiết bị tự động hóa tiên tiến hàng đầu thế giới, hệ thống sản

xuất và quản lý trọn bộ tích hợp (ERP), trung tâm điều khiển toàn

bộ quy trình, đóng gói tự động thông minh, tay robot xếp hàng…

Ngoài ra, công ty còn xây dựng

phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn

cao và hệ thống quản lý chất

lượng hoàn thiện, đảm bảo sản

xuất ra những sản phẩm có chất

lượng cao.

Nhà máy YueHai Việt Nam có diện tích 5 ha, vẫn còn không

gian để mở rộng trong tương lai.

Theo kế hoạch trung và dài hạn, công ty sẽ nâng công suất lên

200.000 tấn/năm.

Tập đoàn YueHai đã có nhiều năm nghiên cứu, khảo sát và thực nghiệm thị trường Việt Nam, tiến hành kinh doanh tiêu thụ thử sản phẩm và nắm vững mô hình

nuôi trồng của địa phương. Hiện YueHai cung cấp đa dạng sản

phẩm gồm: thức ăn cho tôm, cá tra, cá lóc, cá biển, cá rô phi, trắm cỏ… và sắp tới sẽ ra mắt thức ăn cho cá chẽm và cá chim vây vàng.

Đội ngũ YueHai Việt Nam luôn tuân thủ chiến lược chất lượng sản phẩm do Chủ tịch HĐQT đề

ra, với định hướng “3 thấp, 3 cao” – trong đó: - 3 cao: chất lượng cao, sức khỏe cao, tăng trưởng cao; - 3 thấp: hàm lượng đạm thấp, hao hụt thấp và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp. Cùng với đó, YueHai xây dựng hệ thống “Bốn đảm bảo chất lượng”, gồm: đảm bảo kiểm soát nguyên liệu đầu vào; đảm bảo thiết kế hệ thống

Ông Zheng Shixuan - Chủ tịch

HĐQT Tập đoàn YueHai chia

sẻ về tầm nhìn chiến lược, tiềm năng thị trường Việt Nam

như: thức ăn tôm 43% độ đạm, nuôi 92 ngày đạt kích cỡ 25 con/ kg, FCR chỉ 1,2; thức ăn cá lóc cỡ lớn FCR 1,2, cá cỡ nhỏ không quá 1–1,05. Với hơn 30 năm kinh nghiệm tích lũy kỹ thuật sản xuất, YueHai có lợi thế cạnh tranh trực tiếp với các thương hiệu lớn khác.

Đối với YueHai, khách hàng và nhà phân phối chính là tài sản quý báu nhất. Sự thành công của khách hàng chính là tiêu chuẩn kinh doanh – tiếp thị của YueHai. YueHai không chỉ cung cấp sản phẩm chất lượng cao, giá trị vượt trội mà còn cung cấp giải pháp nuôi trồng hiệu quả, giúp người nuôi cá, nuôi tôm có chi phí thấp nhất, năng suất cao nhất và tạo ra giá trị lớn nhất.

Tầm nhìn của Tập đoàn YueHai là trở thành doanh nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản mạnh nhất Trung Quốc, tầm cỡ thế giới, nên Công ty TNHH Thức ăn YueHai Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong chiến lược toàn cầu hóa – vừa phát triển sâu rộng

thị trường Việt Nam, vừa mở rộng sang các nước có nhu cầu

rõ rệt như Campuchia, Malaysia, Ấn Độ…

Việt Nam có khí hậu ấm áp, bờ biển dài, nguồn tài nguyên

Ông Zheng Yuqiu - Tổng giám

đốc Công ty TNHH Thức ăn

YueHai Việt Nam phát biểu

chào mừng

thủy sản phong phú, đặc biệt khu vực phía Nam ít thiên tai, là vùng lý tưởng cho nuôi trồng thủy sản. Cùng với chính sách

đầu tư thông thoáng, môi trường thương mại thuận lợi, GDP tăng trưởng nhanh, dân số hơn 100 triệu người – tất cả cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản Việt Nam.

Tập thể YueHai Việt Nam phấn

đấu xây dựng doanh nghiệp thức

ăn thủy sản đẳng cấp thế giới, phát triển mạnh mẽ – bền vững, đóng góp cho sự phát triển ngành

thủy sản Việt Nam, tạo việc làm và giá trị kinh tế cho cộng đồng, mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng, góp phần vào sự thịnh vượng chung của đất nước.

TS. Seetheraman, một khách hàng của YueHai tại Ấn Độ, cho biết công ty ông đã sử dụng sản

Ông Bùi Nghĩa Hiệp - Nông dân

Việt Nam xuất sắc năm 2025, chính thức trở thành đại lý với đơn hàng đầu tiên 200 tấn thức ăn tôm

phẩm YueHai nhiều năm và nhận thấy kết quả rất tốt vì tất cả đều

là sản phẩm chất lượng, hàm

lượng công nghệ cao.

Ông Bùi Nghĩa Hiệp, Nông dân Việt Nam xuất sắc năm

2025, đến từ tỉnh Cà Mau, cho biết nhu cầu thức ăn phục vụ

trại nuôi tôm 25 ha của gia đình và khách hàng mỗi năm lên đến

700–800 tấn. Sau thời gian thăm

dò, trước khi đến dự lễ khánh

thành, ông đã chốt đơn hàng 200 tấn thức ăn YueHai.

Phát biểu tại buổi lễ, ông

Zheng Shixuan – Chủ tịch HĐQT

Tập đoàn YueHai – nhấn mạnh: “Việt Nam là điểm đến mang tính chiến lược trong mục tiêu vươn tầm ra thế giới của YueHai. Đây là minh chứng tích cực cho hợp tác

Trung – Việt trong việc đưa ưu thế công nghệ của YueHai ra thế giới,

góp phần phát triển ngành thủy

sản Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Chúng tôi sẽ lấy dự án

này làm khởi đầu, từng bước đưa sản phẩm chất lượng cao của

YueHai đến khắp nơi trên thế giới, để công nghệ tiên tiến của Trung Quốc có cơ hội phục vụ ngày càng nhiều hộ nuôi thủy sản hơn.” YueHai xác định đây không chỉ là việc mở rộng thị phần mà còn là mở rộng trách nhiệm, luôn kiên định với triết lý: vận hành bản địa hóa, phát triển bền vững, thực hành xã hội tại địa phương, thúc đẩy việc làm, đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam nâng cấp theo hướng tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa và thân thiện môi trường. YueHai tận dụng tốt cơ hội từ quan hệ hợp tác song phương và khối RCEP để lấy Việt Nam làm điểm tựa vươn ra toàn cầu, xây dựng chuỗi cung ứng thức ăn thủy sản cao cấp khắp khu vực Đông Nam Á, thúc đẩy kết nối tiêu chuẩn thủy sản Trung Quốc với quốc tế, góp phần tạo nên hình mẫu mới trong hợp tác nông nghiệp toàn cầu. YueHai sẽ luôn đồng hành cùng người nuôi thủy sản Việt Nam với những sản phẩm chất lượng cao, hỗ trợ người dân “nuôi tốt từng con cá, con tôm” để YueHai trở thành người bạn đáng tin cậy và lâu dài. Hy vọng chúng ta sẽ cùng nhau viết nên chương mới cho ngành thủy sản Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Lựa chọn YueHai là lựa chọn thành công.

Sau phần phát biểu của ông Zheng Shixuan, nghi thức cắt băng khánh thành diễn ra trong không khí náo nhiệt, hân hoan. Các đại biểu còn được tham quan nhà máy, chứng kiến nghi thức “điểm nhãn” và xuất lô hàng đầu tiên của công ty.

Xuân Trường

Tôm Việt Nam lập kỷ lục xuất khẩu 3,4 tỷ USD sau 9 tháng

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong 9 tháng năm 2025, xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt hơn 3,4 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ, ghi nhận mức tăng trưởng mạnh nhất trong ba năm gần đây. Thành tích này khẳng định năng lực phục hồi ấn tượng của doanh nghiệp Việt và củng cố vị thế của tôm Việt trên bản đồ thủy sản thế giới. Trong cơ cấu sản phẩm, tôm chân trắng tiếp tục dẫn đầu với hơn 2,2 tỷ USD, chiếm 65% tổng kim ngạch. Đáng chú ý, tôm thẻ chân trắng chế biến đạt gần 1 tỷ USD, tăng 12%, cho thấy xu hướng mở rộng sản phẩm giá trị gia tăng. Nhóm tôm biển cao cấp như tôm hùm, tôm mũ ni tăng tới 91%, đạt gần 870 triệu USD, nhờ nhu cầu mạnh tại Trung Quốc và châu Âu. Trung Quốc – Hong Kong là thị

trường tăng trưởng cao nhất, đạt 966 triệu USD (tăng 65%), trong khi Mỹ, Nhật Bản và EU đều ghi nhận mức tăng ổn định. Ở trong nước, giá tôm nguyên liệu duy trì ở mức cao do nhu cầu xuất khẩu tăng dịp cuối năm. VASEP nhận định, để giữ vững đà tăng trưởng, doanh nghiệp cần tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (EVFTA, CPTPP), phát triển sản phẩm chế biến sâu, bền vững và đạt chuẩn xanh quốc tế.

Thanh Hóa Giá muối giảm sâu, diêm dân bỏ ruộng đi làm thuê

Thời điểm này, trên những cánh đồng muối xã Hoa Lộc (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), chỉ còn lác đác vài hộ dân bám trụ với nghề. Giá muối giảm mạnh, chỉ còn từ 2.000 – 3.000 đồng/kg, khiến nhiều diêm dân phải bỏ ruộng đi làm thuê để trang trải cuộc sống. Theo người dân địa phương, đây là mức giá thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Với giá này, mỗi vụ muối gần như không có lãi, thậm chí lỗ do chi phí công, vật liệu và vận chuyển tăng cao. Nhiều ruộng muối bị bỏ hoang, đồng muối vắng bóng người, chỉ còn người già và trẻ nhỏ tiếp tục trụ lại mưu sinh. Trước tình hình trên, ngành nông nghiệp Thanh Hóa đang nghiên cứu các chính sách hỗ trợ diêm dân, tìm kiếm đối tác thu mua, đồng thời xúc tiến kết nối tiêu thụ với các doanh nghiệp chế biến. Mục tiêu là nâng cao chất lượng muối, đa dạng sản phẩm để ổn định đầu ra và khôi phục nghề muối truyền thống tại địa phương.

Lâm Đồng

Vào mùa ghẹ lưới, giá ổn định

Những ngày đầu vụ bấc, ngư dân vùng biển Phan Rí Cửa (tỉnh Lâm Đồng) bước vào mùa ghẹ lưới sôi động. Theo kinh nghiệm, gió càng mạnh, sóng càng to thì ghẹ càng nhiều; chỉ cần đi cách bờ hơn 10 hải lý là có thể “trúng” lưới ghẹ tươi ngon. Hiện các ghe, thúng nhỏ ra khơi mỗi đêm đều thu về sản lượng khá, bình quân từ 5 – 20 kg ghẹ/chuyến, có ghe trúng lớn đạt gần 1 tạ, thu nhập đến 10 triệu đồng/ngày. Theo ngư dân tại đây cho biết, thương lái thu mua hải sản tại địa phương, thời điểm này ghẹ xuất hiện nhiều loại như ghẹ nhàn (ghẹ xanh), ghẹ đỏ, ghẹ mặt trăng.... Mỗi ngày chị thu mua hơn 1 tạ ghẹ, trong đó ghẹ nhàn loại 1 giá 250.000 đồng/kg, loại 2 từ 150.000 – 170.000 đồng/kg. Dù giá thấp hơn mọi năm, mùa ghẹ năm nay vẫn mang lại nguồn thu ổn định cho ngư dân. Dự báo, nếu thời tiết thuận lợi, sản lượng ghẹ còn tăng, góp phần bù đắp cho vụ cá nam vừa qua và cung ứng dồi dào cho thị trường cuối năm.

ĐBSCL

Làng khô

“đỏ mắt” tìm cá nguyên liệu

Nhiều làng nghề chế biến khô cá ở vùng đầu nguồn sông Hậu, sông Tiền như Khánh Bình, Vĩnh Xương, Vĩnh Hội Đông… đang rơi vào cảnh thiếu nguyên liệu nghiêm trọng. Nếu như những năm trước, các sân phơi cá luôn tấp nập, thì nay chỉ còn lác đác vài giàn phơi giữa sân trống. Giá cá sặc rằn nguyên liệu, mặt hàng chủ lực của các làng khô đã tăng mạnh, từ mức 45.000 – 55.000 đồng/kg lên 70.000 – 90.000 đồng/kg, có thời điểm chạm mốc 110.000 đồng/kg. Giá khô cá thành phẩm vì vậy cũng leo lên hơn 350.000 đồng/kg, khiến sức mua giảm, hàng tồn kho tăng. Theo thống kê, diện tích nuôi cá sặc rằn tại một số xã cung cấp nguyên liệu chính giảm hơn 70% so với năm 2020. Cùng với đó, việc phụ thuộc vào nguồn cá nhập khẩu từ Thái Lan khiến nhiều cơ sở khó xoay xở khi nguồn cung gián đoạn. Thiếu cá nguyên liệu đang khiến hàng trăm lao động ở các làng khô miền Tây phải tạm nghỉ việc, chờ mùa cá mới trở lại.

Tôm càng xanh trúng mùa, được giá – nông dân phấn khởi

Vụ tôm càng xanh năm 2025 tại đồng bằng sông Cửu Long khép lại trong không khí phấn khởi khi nông dân vừa được mùa, vừa được giá. Nhiều địa phương như An Giang, Cà Mau, Vĩnh Long ghi nhận năng suất cao, giá bán ổn định, mang lại nguồn thu nhập lớn cho người nuôi.

Tại An Giang, tôm càng xanh được thu mua với giá 120.000 – 130.000 đồng/kg, loại lớn lên tới 200.000 đồng/kg, cao gấp đôi cùng kỳ năm trước. Sản lượng toàn tỉnh ước đạt gần 20.000 tấn, nhờ thời tiết thuận lợi và mô hình nuôi xen canh tôm – lúa phát huy hiệu quả. Người nuôi đạt lợi nhuận bình quân từ 150 – 200 triệu đồng/ha, chi phí thấp do tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên. Tại Cà Mau, sản lượng tôm càng xanh 9 tháng đầu năm vượt 2.000 tấn, giá bán tăng 30.000 – 50.000 đồng/kg so với năm 2024. Mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, kết hợp lúa hoặc tôm sú đang được nhân rộng, giúp nông dân cải thiện thu nhập, đồng thời bảo vệ môi trường và tận dụng tối đa nguồn nước, đất đai.

Ba khía muối nước mắm giá đến 250.000 đồng/kg

Tại Cà Mau, giá ba khía sống hiện dao động từ 43.000 – 72.000 đồng/ kg tùy kích cỡ. Cụ thể, loại 22–26 con/kg được thương lái thu mua tại nhà dân với giá khoảng 43.000 đồng/kg; loại dưới 16 con/kg có giá lên đến 72.000 đồng/kg. Sau khi thu mua, thương lái bán lại cho các hợp tác xã chế biến với mức chênh từ 2.000 – 5.000 đồng/kg. Tại các hợp tác xã sản xuất ba khía muối, giá bán thành phẩm dao động từ 130.000 – 150.000 đồng/kg, riêng ba khía muối nước mắm loại ngon có thể đạt 250.000 đồng/kg. Sản phẩm này hiện được người tiêu dùng ưa chuộng nhờ hương vị đậm đà, có thể dùng ngay mà không cần pha chế thêm gia vị. Ba khía muối Cà Mau đã được công nhận OCOP 4 sao và trở thành Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia từ năm 2020. Nghề muối ba khía không chỉ gìn giữ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng vùng Đất Mũi mà còn mang lại sinh kế ổn định, giúp nhiều hộ dân địa phương vươn lên khá giả.

Cà Mau

Thái Lan Đăng cai Hội nghị Thủy sản trách nhiệm

thứ 25

Hiệp hội Thủy sản Toàn cầu (GSA) sẽ tổ chức Hội nghị Thủy sản trách nhiệm toàn cầu lần thứ 25 tại Shangri-La Bangkok vào tuần lễ 21/9/2026. Sự kiện năm nay đánh dấu sự hợp tác chiến lược giữa GSA và Trung tâm Thủy sản Có trách nhiệm (TCRS), mang đến nội dung chuyên sâu từ chuỗi hội nghị Shrimp Summit. Ông Mike Kocsis, CEO GSA, cho biết hội nghị năm 2026 sẽ là cơ hội đặc biệt để hai tổ chức kết hợp thế mạnh, tập trung vào chủ đề tôm, lĩnh vực đang đối mặt nhiều thách thức về môi trường và thị trường. Ông nhấn mạnh hội nghị sẽ tiếp tục là diễn đàn hàng đầu quy tụ các chuyên gia, doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách toàn cầu. Ông George Chamberlain, Chủ tịch TCRS và người sáng lập GSA, nhận định đây là thời điểm lý tưởng để thúc đẩy nuôi tôm theo hướng tái tạo, nhằm giảm thiểu tác động và góp phần phục hồi hệ sinh thái địa phương.

Bangladesh

Xuất khẩu thủy sản tăng

và Trung Quốc

Xuất khẩu thủy sản đông lạnh của Bangladesh tăng 19,3% trong năm tài khóa vừa qua, đánh dấu giai đoạn phục hồi mạnh nhất sau hai năm suy giảm. Số liệu của Cục Xúc tiến xuất khẩu (EPB) cho thấy kim ngạch đạt 388,7 triệu USD, tăng từ 325,7 triệu USD năm trước, nhờ nhu cầu gia tăng từ Ấn Độ và Trung Quốc cùng các biện pháp kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt hơn. Tôm vẫn là mặt hàng chủ lực, mang về 296,3 triệu USD, tăng hơn 19% giá trị và 21,5% sản lượng. Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân giảm nhẹ còn 12,75 USD/kg do cạnh tranh gay gắt từ Việt Nam và Ấn Độ. Trong khi đó, xuất khẩu cá đông lạnh đạt 92,4 triệu USD, tăng 19,4% dù sản lượng giảm 10,7%, phản ánh xu hướng chuộng các loài cá giá trị cao. Đà phục hồi đến từ đầu tư vào chuỗi lạnh, công nghệ chế biến hiện đại đạt chuẩn EU, Mỹ và Nhật Bản, cùng đồng taka yếu giúp tăng sức cạnh tranh. Dù vậy, ngành vẫn đối mặt thách thức lớn về biến đổi khí hậu, dịch bệnh và chi phí tuân thủ tiêu chuẩn xuất khẩu ngày càng cao.

Anh

Xuất khẩu thủy sản sang Pháp gặp khó vì quy định mới

Các nhà xuất khẩu thủy sản Anh đang lên tiếng phản đối quy định nhập khẩu mới của Pháp, trong đó có cả yêu cầu về cách sản xuất đá lạnh dùng để bảo quản hải sản. Bà Nathalie Porritt, quản lý Công ty Aqua-mar Fisheries tại Anh, cho biết việc xuất khẩu sang Pháp ngày càng gian nan khi doanh nghiệp không còn được phép dùng nước máy Jersey để làm đá nếu không hoàn tất hàng loạt thủ tục kiểm định bổ sung. Một số lô sò điệp vào mùa hè đã phải tiêu hủy vì không đạt yêu cầu về nhiệt độ. Bộ trưởng Môi trường Anh Steve Luce cũng thừa nhận việc đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của Pháp đối với thủy sản, đặc biệt là nhuyễn thể, đang trở thành thách thức lớn. Tháng trước, một lô 4 tấn hàu của Anh bị tiêu hủy tại biên giới Pháp chỉ vì sai sót đánh máy trong mã tham chiếu.

Mỹ - Trung Quốc Đạt đồng thuận sơ bộ trong đàm phán thương mại

Các quan chức kinh tế hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc đã thống nhất khuôn khổ cho một thỏa thuận thương mại, mở đường cho cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent cho biết, khuôn khổ này sẽ được hai nhà lãnh đạo thảo luận vào ngày 29/10, với kỳ vọng tránh được việc Mỹ áp thuế 100% lên hàng hóa Trung Quốc và Trung Quốc mở rộng kiểm soát xuất khẩu đất hiếm. Hai bên đạt đồng thuận sơ bộ sau vòng đàm phán thứ năm bên lề Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Kuala Lumpur, tập trung vào cân bằng thương mại, nông sản Mỹ và vấn đề fentanyl.

Ông Trump bày tỏ tin tưởng sẽ có thỏa thuận với Trung Quốc, đồng thời gợi ý khả năng gặp song phương tiếp theo tại Bắc Kinh hoặc Washington. Nếu được duy trì, thỏa thuận đình chiến thương mại giữa hai nước sẽ giúp hạ nhiệt căng thẳng và ngăn nguy cơ leo thang biện pháp trả đũa lẫn nhau.

Australia

lệnh cấm nhập tôm Ấn Độ

Ngành tôm Ấn Độ vừa đón tin vui khi Australia chính thức dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu tôm chưa bóc vỏ từ Ấn Độ – một bước ngoặt lớn với hàng ngàn hộ nuôi tôm bang Andhra Pradesh. Bộ trưởng Công nghiệp bang, ông Nara Lokesh, cho biết quyết định này đã mở đường cho lô tôm đầu tiên được phép nhập vào Australia sau nhiều năm bị cấm do lo ngại virus đốm trắng. Lệnh cấm kéo dài khiến xuất khẩu thủy sản Ấn Độ đình trệ, nhất là sau khi Mỹ áp thuế cao với hàng tôm Ấn, đẩy người nuôi vào thế khó. Phát biểu tại Australia, ông Lokesh nhấn mạnh việc đa dạng hóa thị trường là cần thiết để giảm phụ thuộc vào một vài đối tác. Ông cũng kêu gọi tăng hợp tác trong chuỗi lạnh, bao bì và an toàn sinh học, đồng thời quảng bá ẩm thực hải sản Andhra Pradesh như một điểm nhấn du lịch quốc tế.

Ecuador

Xuất khẩu tôm giữ vững đà tăng, thị phần Mỹ mở rộng

Số liệu tháng 9 cho thấy xuất khẩu tôm Ecuador tiếp tục duy trì ổn định giữa bối cảnh cầu toàn cầu tái cân bằng. Thị phần tại Mỹ đã tăng lên khoảng 19-23%, trong khi châu Âu cũng nhích lên 20% giữa, còn châu Á giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Tính theo trọng lượng thương mại, sản lượng tháng 9 khá cao và sau điều chỉnh hiệu suất có thể là mức kỷ lục cho tháng này. Thực tế, nếu tính thêm sản phẩm tôm bóc vỏ, thị phần Mỹ còn lớn hơn, cao hơn khoảng 25-30% so với con số chính thức. Dù nhu cầu Mỹ đang chững lại theo mùa, chi phí nhập khẩu vẫn ở mức cao, giúp giá tôm duy trì ổn định. Giới thương mại hiện theo dõi sát diễn biến đàm phán giữa Ấn Độ và Mỹ về khả năng hạ mức thuế tôm từ 50% xuống thấp hơn đáng kể, động thái có thể tái định hình nguồn cung và tạo thêm cạnh tranh tại thị trường Mỹ, giữa lúc Indonesia và Việt Nam vẫn gặp trở ngại về thương mại và thuế quan.

Tuấn

Châu Âu siết chuỗi cung ứng

Thách thức toàn cầu

về trách nhiệm và minh bạch

Minh bạch nay đã trở thành tấm hộ chiếu mới cho thương mại toàn cầu. Hàng loạt đạo luật như SCDDA của Đức hay CSDDD của EU đang buộc doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, phải chứng minh tính trách nhiệm và bền vững ở từng mắt xích chuỗi cung ứng.

Từ khuyến nghị đến luật bắt buộc

Luật SCDDA của Đức đã chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2023, yêu cầu các doanh nghiệp có từ 1.000 lao động trở lên phải thực hiện thẩm định rủi ro về nhân quyền, môi trường và lao động cưỡng bức trong toàn bộ chuỗi cung ứng, từ khâu khai thác nguyên liệu, sản xuất đến phân phối. Tiếp nối đó, Chỉ thị CSDDD của Liên minh châu Âu (EU) cũng

đã được thông qua và sẽ được các quốc gia thành viên nội luật hóa vào năm 2026, bắt đầu áp dụng từ 2027–2029 tùy quy mô doanh nghiệp.

Đây được xem là bước ngoặt pháp lý lớn định hình lại thương mại toàn cầu trong thập kỷ tới, khi yêu cầu minh bạch chuỗi cung ứng chính thức trở thành nghĩa vụ pháp lý thay vì chỉ là khuyến nghị. Theo quy định, các doanh nghiệp lớn của châu Âu quy mô từ 1.000 đến trên 5.000 nhân viên và doanh thu từ 900 triệu

đến 1,5 tỷ euro sẽ phải thiết lập cơ chế thẩm định, đánh giá và phòng ngừa rủi ro liên quan

đến quyền con người, bảo vệ môi trường và tác động xã hội.

Những đạo luật này ra đời sau hàng loạt bê bối chuỗi cung ứng toàn cầu từng gây chấn động dư luận. Đáng chú ý, ngành thủy sản Thái Lan từng vướng cáo buộc lạm dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức trên tàu cá năm 2015, khiến EU và Mỹ dán “thẻ vàng” và siết chặt nhập khẩu. Gần đây hơn, năm 2024, Liên minh châu Âu từ chối nhiều lô tôm của Ấn Độ vì nghi ngờ có lao động nô lệ trong khâu chế biến. Những vụ việc ấy không chỉ làm sụp đổ hình ảnh của cả ngành, mà còn là hồi chuông cảnh báo: một mắt xích sai phạm có thể khiến toàn bộ chuỗi cung ứng bị gãy đổ.

Châu Âu với vị thế là thị trường tiêu dùng có tiêu chuẩn cao nhất thế giới đang dùng khung pháp lý mới để tái định hình thương mại theo hướng có trách nhiệm. Giờ đây, không chỉ sản phẩm phải đạt chuẩn, mà quá trình tạo ra sản phẩm cũng phải sạch, công bằng và nhân đạo.

Doanh nghiệp nào chịu rủi ro lớn nhất?

Những quy định mới của châu Âu khiến rủi ro không chỉ dừng ở các tập đoàn nội khối, mà còn lan rộng đến các nhà cung ứng bên ngoài, đặc biệt là các quốc gia đang xuất khẩu mạnh vào EU như  Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia hay Ecuador trong ngành thủy sản.

Các doanh nghiệp châu Âu nay phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu trong chuỗi cung ứng của họ có vi phạm nhân quyền hay môi trường. Điều này đồng nghĩa: dù một doanh nghiệp nhỏ ở châu Á chỉ cung cấp nguyên liệu hay gia công, nếu để xảy ra lao động cưỡng bức hoặc xả thải trái phép, đối tác châu Âu cũng có thể bị kiện hoặc phạt nặng. Theo chuyên gia thương mại quốc tế, điều đáng lo không chỉ là các biện pháp xử phạt, mà là rủi ro bị loại khỏi chuỗi cung ứng – một

hệ quả âm thầm nhưng khốc liệt. Nhiều nhà

nhập khẩu EU đã bắt đầu yêu cầu hồ sơ truy

xuất nguồn gốc, báo cáo ESG, chứng nhận lao động và môi trường trước khi ký hợp đồng. Doanh nghiệp nào không đáp ứng kịp sẽ mất

đơn hàng hoặc bị chuyển sang nhà cung cấp

khác có hồ sơ minh bạch hơn.

Trong lĩnh vực thủy sản, chuỗi cung ứng có tính đan xen phức tạp từ đánh bắt, nuôi trồng, thu mua, chế biến đến xuất khẩu. Một khâu sai phạm, dù nhỏ, cũng có thể làm hỏng uy tín cả chuỗi. Những nước đang phát triển nơi lao động giá rẻ là lợi thế đang đứng trước bài toán khó: làm sao giữ sức cạnh tranh mà vẫn đáp ứng được tiêu chuẩn đạo đức ngày càng cao của châu Âu.

Dù vậy, không thể phủ nhận rằng chính các doanh nghiệp châu Âu cũng chịu áp lực lớn. Việc phải thiết lập hệ thống giám sát, báo cáo và đánh giá toàn chuỗi đòi hỏi chi phí và nhân lực khổng lồ. Nhiều hiệp hội tại

Đức và Pháp đã cảnh báo về gánh nặng tuân thủ, nhất là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn rộng hơn, đây là chi phí tất yếu

để đảm bảo thương mại công bằng và bền vững trong tương lai.

Ứng phó “làn sóng thẩm định”

Trước sự thay đổi mang tính hệ thống này, một số quốc gia đã chủ động chuyển hóa thách thức thành cơ hội. Thái Lan, sau khủng hoảng lao động cưỡng bức năm 2015, đã cải tổ toàn bộ hệ thống khai thác và truy xuất nguồn gốc thủy sản, thiết lập cơ chế đăng ký tàu cá, giám sát bằng GPS, cấp mã QR cho sản phẩm và tăng cường hợp tác liên bộ về lao động – nông nghiệp – ngoại giao. Nhờ đó, nước này dần khôi phục được uy tín và lấy lại thị trường xuất khẩu sang châu Âu.

Tại Indonesia và Philippines, nhiều doanh nghiệp chế biến hải sản đã áp dụng hệ thống

blockchain để minh bạch hóa quy trình thu mua, từ ngư dân đến nhà máy. Một số tập đoàn lớn tại Ecuador – quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu Nam Mỹ – đã triển khai nền tảng dữ liệu “from farm to fork”, giúp khách hàng châu Âu kiểm tra ngay trên nhãn hàng nguồn gốc và điều kiện sản xuất của từng lô hàng.

Những ví dụ này cho thấy, minh bạch không còn là gánh nặng, mà là chìa khóa để bước vào chuỗi cung ứng cao cấp. Với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc xây dựng hệ thống truy xuất, áp dụng tiêu chuẩn ESG và tăng cường đối thoại với nhà nhập khẩu sẽ là yếu tố sống còn nếu muốn duy trì thị phần tại châu Âu.

Về phía doanh nghiệp, thay vì chờ “bị yêu cầu”, họ cần chủ động tự thẩm định chuỗi cung ứng của chính mình, rà soát các nhà cung cấp, đào tạo lao động và đầu tư công nghệ quản lý dữ liệu. Bởi một khi các tiêu chuẩn này đã trở thành luật, sự chậm trễ đồng nghĩa với bị loại khỏi sân chơi. Những quy định mới của châu Âu về thẩm định chuỗi cung ứng là chỉ dấu rõ ràng cho sự chuyển hướng từ thương mại “chỉ dựa trên giá” sang thương mại “dựa trên giá trị”. Đây cũng là lời nhắc rằng năng lực cạnh tranh không chỉ đến từ chi phí thấp mà còn từ tính bền vững và trách nhiệm. Hội nhập sâu hơn đồng nghĩa với chuẩn mực cao hơn. Và thay vì bị động tuân thủ, doanh nghiệp cần xem đây là cơ hội để khẳng định vị thế vững chắc hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bởi trong kỷ nguyên mới của thương mại, doanh nghiệp nào càng sớm “xanh” và “trách nhiệm” hơn – doanh nghiệp đó sẽ ở trung tâm của chuỗi cung ứng tương lai. Như các chuyên gia thương mại OECD nhận định: “Châu Âu không chỉ muốn mua hàng sạch, mà còn muốn biết rằng không ai bị tổn thương khi tạo ra món hàng đó. Trong thế giới ấy, minh bạch chính là giấy thông hành mới cho thương mại quốc tế”.

Công nghệ Nanobubble

Giải pháp đột phá nâng cao hiệu quả nuôi trồng

thủy sản bền vững

Trong bối cảnh ngành thủy sản Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng sản xuất bền vững, hạn chế kháng

sinh và bảo vệ môi trường, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ mới trở nên đặc biệt quan trọng. Trong đó, công nghệ Nanobubble (bong bóng khí nano) được xem là một bước tiến đột phá, giúp tối ưu môi trường nước ao nuôi và nâng cao hiệu quả nuôi tôm, cá.

Nanobubble là gì?

Nanobubble là những bong bóng khí có kích thước siêu nhỏ, chỉ từ 80–120 nanomet, nhỏ hơn hàng nghìn lần so với bong bóng khí thông thường. Với kích thước cực nhỏ, Nanobubble có thể tồn tại trong nước từ nhiều ngày đến nhiều tuần, thay vì chỉ vài giây như sục khí truyền thống. Khi vỡ ra, chúng giải phóng ôxy hòa tan (DO) cùng các gốc ôxy hoạt tính (ROS). Đây chính là yếu tố giúp tăng nồng độ ôxy và hỗ trợ tiêu diệt vi khuẩn gây hại.

Tăng hiệu quả cung cấp ôxy hòa tan

Trong ao nuôi, tầng đáy thường là nơi thiếu ôxy nhất, dẫn đến tích tụ khí độc và ảnh

hưởng đến sức khỏe vật nuôi. Các hệ thống quạt nước hoặc sục khí thông thường chủ yếu cung cấp ôxy ở tầng mặt. Ngược lại, công nghệ Nanobubble phân tán ôxy đồng đều từ mặt

đến đáy ao. Các bong bóng siêu nhỏ thâm nhập sâu vào toàn bộ cột nước, nâng cao nồng độ ôxy hòa tan ổn định, giúp tôm cá ăn

mạnh, tăng trưởng nhanh, giảm stress và giảm tỷ lệ hao hụt.

Khả năng hạn chế vi khuẩn và

mầm bệnh

Khi bong bóng nano vỡ, các gốc ôxy hoạt tính (ROS) được giải phóng có khả năng phá vỡ cấu

trúc tế bào của vi khuẩn, nấm và virus gây bệnh. Nhờ cơ chế khử

trùng tự nhiên này, Nanobubble

giúp giảm mật độ vi khuẩn gây

hại mà không cần sử dụng quá nhiều hóa chất hoặc kháng sinh. Điều này hỗ trợ duy trì hệ vi sinh

có lợi trong ao, giúp môi trường nuôi ổn định và an toàn hơn.

Cải thiện chất lượng nước và

giảm ô nhiễm đáy ao

Chất thải hữu cơ, thức ăn thừa và xác tảo chết trong ao là nguyên nhân tạo ra các khí độc như NH3 và H2S. Nanobubble hỗ trợ phân hủy

các chất hữu cơ này hiệu quả hơn, đồng thời giảm tích tụ khí độc. Kết quả là nước trong hơn, mùi hôi đáy ao giảm, môi trường nuôi cân bằng hơn và ít phải thay nước, giúp giảm chi phí và hạn chế tác động đến môi trường xung quanh.

Nâng cao năng suất và tiết kiệm chi phí

Nhờ duy trì ôxy ổn định và cải thiện điều kiện sống, tôm cá phát triển nhanh, khỏe mạnh và tăng tỷ lệ sống từ 10–20% so với mô hình sục khí truyền thống. Hệ thống Nanobubble cũng tiết kiệm điện năng, vận hành êm, không gây xói đáy, từ đó giúp giảm chi phí vận hành và kéo dài tuổi thọ hệ thống ao nuôi.

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Hướng tới nền thủy sản xanh và bền vững Việc ứng dụng Nanobubble phù hợp với định hướng phát triển ngành thủy sản Việt Nam: giảm phát thải, giảm hóa chất, nâng cao hiệu quả và giá trị xuất khẩu. Công nghệ này có thể áp dụng linh hoạt cho ao đất, ao trải bạt, hệ thống tuần hoàn RAS, nuôi nhà màng hoặc mô hình khép kín.

B.H.N
Nano bubble tại trang trại nuôi tôm

Giảm thiểu

ô nhiễm môi trường từ nuôi thủy sản

Người nuôi cần áp dụng các mô hình, công nghệ

Hiện nay, nuôi trồng thủy sản

ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của nhiều địa phương. Trong đó, yếu tố môi trường được xem là mấu chốt để đảm bảo sự bền vững

của ngành, đặc biệt là ý thức bảo vệ môi trường của người dân tại các vùng nuôi.

Phát triển nhanh chóng

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là hoạt động canh tác hoặc nuôi cá, động vật có vỏ và thực vật thủy sinh có kiểm soát. Năm 2022, ngành nuôi trồng thủy sản, đã có một bước tiến vượt bậc, trở thành một yếu tố chủ chốt trong việc cung cấp thực phẩm cho thế giới. Theo báo cáo từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), tổng sản lượng thủy sản và khai thác toàn cầu năm 2022 đạt 223,2 triệu tấn, tăng 4,4% so năm 2020. Trong đó, sản lượng từ NTTS đạt 130,9 triệu tấn, bao gồm 94,4 triệu tấn động vật thủy sinh. Điều này đồng nghĩa với việc NTTS chiếm 51% tổng sản lượng động vật thủy sinh, lần đầu tiên vượt qua khai thác thủy sản tự nhiên. Điều này thể hiện sự phát triển vượt bậc của ngành NTTS trong vài thập kỷ qua, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của thế giới. Trong đó, NTTS không chỉ đáp ứng được nhu cầu protein cao cấp mà còn đóng vai trò quan

trọng trong việc giảm thiểu tình trạng đói nghèo và thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là ở các quốc gia châu Á, nơi sản xuất đến 90% tổng sản lượng nuôi trồng toàn cầu.

Tại Việt Nam, ngành NTTS đang phát triển nhanh chóng nhờ vị trí địa lý thuận lợi, đầu tư vào công nghệ và giống mới, cũng như chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Với sản lượng ngày càng tăng, đạt mức sản xuất hàng hóa chủ lực, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới và là nhà cung cấp tôm lớn thứ hai thế giới.

NTTS ở nước ta được phát triển ở cả 3 môi trường nước ngọt, nước lợ và nước mặn với sự đa dạng về các đối tượng nuôi, trong đó tập trung vào các đối tượng nuôi chủ lực quan trọng như cá tra, tôm nư ớc lợ, cá rô phi và một số đối tượng khác như cá cá biển và nhuyễn thể (nghêu, sò huyết,…). Khu vực phía Bắc phổ biến bởi các hệ thống nuôi cá nước ngọt kết hợp bán thâm canh/thâm canh (nhóm cá chép, rô phi); nuôi kết hợp cá - lúa; và nuôi cá

biển lồng bè. Khu vực miền Trung phổ biến với

hệ thống nuôi thâm canh tôm nư ớc lợ, cá biển lồng bè và tôm hùm. Vùng Nam bộ, đặc biệt

ĐBSCL là vùng NTTS trọng điểm quốc gia với

sự đa dạng cả về các hệ thống nuôi (chuyên canh, kết hợp), phương thức nuôi và loài nuôi.

Hệ lụy

Ngành NTTS góp phần cải thiện thu nhập của người dân và nâng cao giá trị xuất khẩu quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực NTTS, cả việc mở rộng diện tích nuôi và mứ c độ thâm canh ngày càng cao lại kéo theo nhiều hệ lụy môi trường như ô nhiễm nguồn nước và đất đai do chất thải hữu cơ, hóa chất, và thức ăn thừa tích tụ, làm giảm đa dạng sinh học.

Các yếu tố tr ự c tiếp dẫn đến các vấn đề này bao gồm: lự a chọn địa điểm không phù hợp, sử dụng không hợp lý các yếu tố đầu vào trong NTTS (hóa chất, thứ c ăn, con giống,...), quản lý chất thải kém,…

Theo các chuyên gia, tình trạng ô nhiễm môi trường nước xảy ra do phần lớn các chất hữu cơ dư thừa từ thức ăn, phân và các rác thải khác đọng lại dưới phần đáy mặt nước nuôi. Chúng sẽ phân hủy, tạo ra các hợp chất như amoniac, nitrit và nitrat, gây ô nhiễm nước ao nuôi. Sự tích tụ của các chất này làm giảm lượng ôxy hòa tan trong nước, gây nguy cơ ngạt thở cho thủy sản và ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng. Ngoài ra, chất thải hữu cơ còn làm ô nhiễm đất, gây hại cho hệ sinh thái xung quanh.

Bên cạnh đó, việc sử dụng hóa chất trong nuôi trồng thủy sản để kiểm soát dịch bệnh và tăng năng suất có thể dẫn đến tồn dư hóa chất trong nước và đất. Những hóa chất này có thể gây độc cho thủy sản, làm giảm chất lượng nước, và gây hại cho các sinh vật sống trong môi trường xung quanh. Hơn nữa, hóa chất có thể lan ra ngoài khu vực nuôi trồng, ảnh hưởng đến các nguồn nước ngọt và nước ngầm. Theo một số nghiên cứu cho thấy, chỉ có 17% thức ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và các chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Với các ao nuôi công nghiệp, chất thải có thể chứa đến 45% nitrogen và 22% là chất hữu cơ khác. Hơn nữa, các chất thải này có thể cũng chứa nitơ và phốt pho hàm lượng cao. Đặc biệt, chúng lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè

trên sông, nuôi cá trong các đầm trũng ngập nước,… cùng với lượng phù sa có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.

Đối với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp,… thì nguồn chất thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi trường càng cao.

Tăng trưởng bền vững

Nhu cầu về thủy sản trên toàn cầu sẽ tiếp tục gia tăng khi dân số thế giới không ngừng phát triển. Trong điều kiện nguồn hải sản tự nhiên không thể gia tăng (trừ khi việc khai thác quá mức được chấm dứt), thì hoạt động

NTTS chính là nguồn cung cho tương lai.

Do đó, để tránh những rủi ro đối với môi trường, điều thiết yếu nhất của quá trình tăng trưởng NTTS là sự bền vững. Để làm được điều này, cần áp dụng các giải pháp toàn diện từ quy hoạch nuôi trồng bền vững, lựa chọn mô hình thích hợp, ứng dụng công nghệ vi sinh để xử lý chất thải, hạn chế hóa chất và kháng sinh, kiểm soát chặt chẽ chất lượng nước và thức ăn. Trong đó, biện pháp quan trọng nhất là cần nâng cao ý thức và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này đối với môi trường và việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Theo đó, các chủ cơ sở cần áp dụng các mô hình, công nghệ nuôi ít gây ảnh hưởng đến môi trường. Chẳng hạn như Aquaponics, mô hình nuôi thủy sản kết hợp mang tính hiệu quả và bền vững, giúp tiết kiệm nước và giảm thiểu chất thải, không có sự can thiệp của phân bón hóa học, thuốc trừ sâu. Hệ thống này cũng cho phép kiểm soát chất lượng nước và môi trường nuôi, đảm bảo sức khỏe của cá và cây trồng. Hay hệ thống NTTS tuần hoàn (RAS), phục vụ các trại sản xuất giống và nuôi thâm canh các loài thủy sản nước ngọt, lợ, mặn. Điểm khác biệt cơ bản của RAS so với phương pháp nuôi truyền thống trong ao mở ngoài trời là tạo hệ sinh thái trong các bể (bồn) trong nhà với môi trường được kiểm soát. Từ đó quá trình nuôi được thực hiện theo mô hình tuần hoàn lọc và làm sạch nước để đưa về các bể nuôi. Hay là các mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu, nuôi kết hợp tôm, cá - lúa, trong đó sự kết nối của các thành phần sản xuất lúa và tôm, cá có thể làm tăng thu nhập cho người dân, cải thiện năng suất lương thực và dinh

Đặc điểm của nghề

NTTS là thải ra khối lượng nước rất lớn, chứa nhiều chất hữu cơ, thức ăn dư thừa, hóa chất,… tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước.

dưỡng, giảm thiểu sử dụng hóa chất bổ sung vào hệ sinh thái, tăng khả năng chống chịu với những thay đổi của môi trường. Đối với xử lý nước thải và chất thải rắn, tùy thuộc vào điều kiện quy mô và loại hình hoạt động mà sử dụng các biện pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vệ sinh phòng dịch theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, vệ sinh thú y. Riêng xử lý nước thải, hệ thống cấp nước, thoát nước thải phải luôn thông thoáng, được sên vét, cải tạo thường xuyên, đảm bảo không bị bồi lắng, tồn đọng gây tác động xấu đến môi trường và hoạt động sản xuất, canh tác của khu vực. Nước thải phải được thu gom và xử lý bằng biện pháp công nghệ hợp lý, không để rò rỉ, phát tán vi sinh vật, mầm bệnh gây ô nhiễm môi trường. Hệ thống xử lý nước thải phải được vận hành thường xuyên, nước thải sau xử lý đạt giá trị của các thông số: pH, BOD, COD, chất rắn lơ lửng, Coliform theo quy định tại QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp. Ngoài ra, các địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở NTTS; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường.

KHẨU THỦY SẢN

THÁCH THỨC TRONG CHẶNG CUỐI NĂM

Tăng trưởng 15,5% trong 9 tháng đầu năm, song ngành thủy sản Việt Nam cần vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, hướng đến mục tiêu đã đề ra.

Phục hồi từ các thị trường lớn

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu dần ổn định sau giai đoạn nhiều biến động, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang khởi sắc rõ rệt, tiến gần hơn tới mục tiêu 10 tỷ USD xuất khẩu trong năm 2025.

Tính đến hết tháng 9, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt khoảng 8,33 tỷ USD, tăng 15,5%

so với cùng kỳ năm trước. Theo

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu

Thủy sản Việt Nam (VASEP), chỉ riêng tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt khoảng

991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là tháng thứ tư liên tiếp ngành duy trì

tăng trưởng dương, một tín hiệu cho thấy sự phục hồi bền vững của toàn ngành.

Trong đó, tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực với hơn 3,4 tỷ USD, tăng 22% (mức cao nhất trong ba năm gần đây). Cá tra cũng duy trì vị thế vững chắc trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ đã chuyển hướng sang chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm như cá tra hữu cơ, cá tra phi lê cao cấp và cá tra tẩm gia vị, đáp ứng

thị hiếu người tiêu dùng châu Âu, Mỹ và Trung Đông.

Động lực tăng trưởng của ngành thủy sản chủ yếu đến từ nhu cầu tiêu thụ ổn định tại các

thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc, cùng khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuyển hướng sản phẩm, tận dụng các hiệp định thương mại tự do (EVFTA, CPTPP, UKVFTA)

để hưởng ưu đãi thuế quan, đồng thời đầu tư mạnh vào công nghệ chế biến, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận bền vững.

Xét theo thị trường, Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là điểm sáng. Dù tháng 9 giảm nhẹ, nhưng lũy kế 9 tháng vẫn tăng tới 32,1%, đạt 1,76 tỷ USD, chiếm thị phần lớn nhất. Thị trường này được đánh giá hấp dẫn nhờ nhu cầu dồi dào và chi phí logistics thuận lợi. Nhu cầu tiêu thụ cá tra, tôm và hải sản đông lạnh của Trung Quốc cũng phục hồi mạnh, nhất là trong các tháng cuối năm khi tiêu dùng nội địa tăng cao dịp Tết Nguyên đán. Mỹ vẫn là một trong những thị trường trọng điểm, với kim ngạch 9 tháng tăng 6,2% so với cùng kỳ. Người tiêu dùng Mỹ ngày càng ưa chuộng các sản phẩm có chứng nhận bền vững, xuất xứ rõ ràng, đây là lợi thế của thủy sản Việt Nam vốn đã đầu tư bài bản về truy xuất nguồn gốc và chứng nhận môi trường.

Với EU, thị trường này nhập khẩu thủy sản Việt Nam tăng mạnh cả về lượng (18,2%) và giá trị (19,2%) trong 7 tháng đầu năm. EVFTA tiếp tục mang lại lợi thế thuế quan rõ rệt, đặc biệt cho các sản phẩm tôm, cá ngừ và cá tra chế biến. Một số thị trường như Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Pháp gia tăng nhập khẩu các sản phẩm có chứng nhận ASC, BAP hoặc MSC từ Việt Nam.

Bà Nguyễn Hà, chuyên gia thị trường cá ngừ của VASEP nhận

định: “Chính sách thuế đối ứng 0% nếu được thông qua sẽ là động lực giúp doanh nghiệp Việt Nam khôi phục tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ chế này có thể áp dụng chọn lọc, ưu tiên các mặt hàng đáp ứng quy tắc xuất xứ rõ ràng, minh bạch và tiêu chuẩn phát triển bền vững”.

Ngoài ra, các thị trường Nhật

Bản, Hàn Quốc, Australia và

ASEAN cũng duy trì mức nhập

khẩu ổn định, đặc biệt ở nhóm sản phẩm chế biến sâu, đồ ăn liền và thủy sản đông lạnh tiện dụng.

Việc đa dạng hóa thị trường giúp

Việt Nam giảm phụ thuộc vào

một vài thị trường lớn, tăng khả

năng chống chịu trước biến động

toàn cầu.

Cơ hội đan xen thách thức

Mặc dù xuất khẩu đang phục

hồi tốt, tuy nhiên, ngành thủy sản

vẫn phải đối mặt với nhiều thách

thức trong chặng đường còn lại

của năm.

Đáng chú ý nhất là rào cản kỹ

thuật và chính sách thương mại

tại các thị trường lớn. Trong đó,

Mỹ tiếp tục rà soát thuế chống

bán phá giá đối với tôm và cá tra, quy định tại Đạo Luật bảo tổn thú

biển (MMPA), còn EU và Nhật

Bản tiếp tục tăng cường kiểm tra

dư lượng kháng sinh, yêu cầu truy

xuất nguồn gốc chặt chẽ hơn.

Đặc biệt, việc EU vẫn duy trì “thẻ

vàng” IUU đối với Việt Nam đang

ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu

hải sản khai thác. Nếu không sớm

gỡ bỏ, nhiều doanh nghiệp sẽ bị

hạn chế xuất hàng vào châu Âu,

Hiệp định thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng giữa Việt Nam và Mỹ - được công bố tại Hội nghị cấp cao ASEAN 2025 ở Malaysia, mở ra khả năng giảm thuế nhập khẩu xuống 0% cho một số sản phẩm cá ngừ như: cá ngừ tươi hoặc ướp lạnh, philê cá ngừ đông lạnh và cá ngừ, cá

hộp kín. Nếu những điều này

thực thi, đây là động lực giúp doanh nghiệp Việt Nam khôi phục tăng trưởng

ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín

của toàn ngành. Bộ Nông nghiệp

và Môi trường đang đẩy mạnh

các biện pháp khắc phục, bao gồm giám sát tàu cá, quản lý nhật ký khai thác và tăng cường kiểm soát truy xuất điện tử.

Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế cũng ngày càng gay gắt. Các nước như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Ecuador đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu với chi phí thấp hơn, trong khi được hưởng ưu đãi thuế quan tại một số thị trường mà Việt

Nam chưa có hiệp định thương mại song phương. Cùng với đó, chi phí logistics và vận tải quốc tế vẫn ở mức cao, gây áp lực lên giá thành sản phẩm.

Khó khăn còn hiện hữu, tuy nhiên theo VASEP, gam màu xuất khẩu của ngành thủy sản Việt

Nam vẫn tích cực khi vừa đón hai tín hiệu sáng từ thị trường Mỹ, đó là việc nước này tạm hoãn lệnh cấm nhập khẩu ghẹ và một số sản phẩm cá ngừ có khả năng giảm thuế về 0%.

Cụ thể, ngày 31/10/2025, Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ đã ra phán quyết tạm hoãn hiệu lực lệnh cấm nhập khẩu ghẹ từ Việt Nam, Philippines, Indonesia và Sri Lanka theo MMPA. Cùng đó,

trưởng và hướng tới mục tiêu 10 tỷ USD, ngành thủy sản đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp tháo gỡ. Trước hết, tập trung đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng sang Trung Đông, Nam Mỹ, châu Phi và Nam Á để giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Đầu tư chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển các sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp thị hiếu tiêu dùng hiện đại như tôm hấp chín, cá tra hữu cơ, cá ngừ đóng hộp, sản phẩm ăn liền. Thúc đẩy phát triển bền vững và chuyển đổi xanh, xây dựng chuỗi nuôi trồng tuần hoàn, giảm phát thải, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và vật liệu thân thiện môi trường.

Với kết quả 9 tháng tăng trưởng ấn tượng, xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2025 hoàn toàn có thể đạt hoặc vượt mốc 10 tỷ USD nếu duy trì đà tăng trong quý IV. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc lớn vào khả năng gỡ “thẻ vàng” IUU, diễn biến kinh tế toàn cầu và sự linh hoạt trong chính sách thương mại của các quốc gia nhập khẩu cũng như việc nắm bắt cơ hội của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Bột ấu trùng ruồi lính

đen

thay thế bột cá trong nuôi cá tráp đầu vàng

Nguồn protein mới

Trong bối cảnh nguồn bột cá

ngày càng khan hiếm và giá cao, côn trùng, đặc biệt là ấu trùng

ruồi lính đen (Hermetia illucens, BSFL) đang nổi lên như một giải

pháp tiềm năng thay thế. Nhờ

khả năng phát triển trên nhiều

loại chất thải hữu cơ và quy mô

sản xuất lớn, BSFL không chỉ cung cấp nguồn protein dồi dào

mà còn góp phần giảm lãng phí thực phẩm, hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành

chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.

Tại châu Âu, việc sử dụng bột

côn trùng trong thức ăn thủy sản

đã được cấp phép, song mức độ

chấp nhận của người tiêu dùng

và nhà sản xuất vẫn còn là vấn

đề mới mẻ. Nhiều nghiên cứu

trước đó cho thấy, bổ sung BSFL

ở các tỷ lệ khác nhau không gây

ảnh hưởng lớn đến chất lượng phi lê cá, ngoại trừ sự gia tăng nhẹ axit béo bão hòa, đặc biệt là axit lauric.

Nghiên cứu do nhóm của  Copelotti E. và cộng sự (2025)  thực hiện, thuộc dự án Sử dụng bột côn trùng trong ngành nuôi thủy sản, đã đánh giá tác động của việc thay thế một phần bột cá bằng bột BSFL tách béo một phần đối với chất lượng và đặc tính cảm quan của phi lê cá tráp đầu vàng ( Sparus aurata). Thí nghiệm được tiến hành tại hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS) của Đại học Pisa với 132 cá thể cá tráp, trung bình nặng 364 gram. Cá được chia ngẫu nhiên vào các bể 420 lít và cho ăn hai loại thức ăn: Khẩu phần đối chứng (CTRL) chứa 22,8% bột cá; Khẩu phần thử nghiệm (IF), trong đó 10% BSFL tách béo thay thế khoảng 40% lượng bột cá của khẩu phần đối chứng. Sau 10 ngày thích nghi, cá được cho ăn đến khi no mỗi ngày, liên tục trong hai tháng. Cuối kỳ thí nghiệm, cá được

phân tích các chỉ tiêu hóa lý và cảm quan.

Chất lượng phi lê không thay đổi

Kết quả phân tích cho thấy, không có sự khác biệt đáng kể về thành phần hóa học tổng thể giữa hai nhóm cá. Điều này phù hợp với các công bố trước đây, khẳng định rằng tỷ lệ thay thế 10% bột cá bằng BSFL không ảnh hưởng tới thành phần dinh dưỡng cơ bản của phi lê.

Màu sắc và độ pH của da và thịt cá cũng tương tự nhau giữa hai nhóm. Chênh lệch màu tổng thể chỉ đạt 2,48, vừa đủ để mắt người có thể nhận thấy, chủ yếu

do cá ăn BSFL có da sáng và hơi ngả vàng hơn. Tuy nhiên, khác biệt này không đáng kể về mặt cảm quan.

Đáng chú ý, việc bổ sung BSFL không làm thay đổi độ pH của phi lê, chứng tỏ quá trình acid hóa sau khi chết (yếu tố ảnh hưởng đến độ tươi và kết cấu thịt) không bị tác động.

Khi xem xét thành phần axit béo, ba loại axit chiếm tỷ lệ lớn nhất ở cả hai nhóm là oleic, linoleic và palmitic, chiếm khoảng 70% tổng lượng axit béo. Mặc dù có sự tăng nhẹ ở axit lauric, myristic và stearic, song đây là hệ quả tự nhiên do BSFL chứa nhiều axit béo bão hòa.

Điều quan trọng, hàm lượng EPA (eicosapentaenoic acid) và DHA (docosahexaenoic acid) không bị giảm sút. Do ấu trùng ruồi lính đen vốn không tổng hợp EPA và DHA, kết quả này phản ánh sự cân bằng dinh dưỡng ổn định của khẩu phần ăn thử nghiệm. Theo nhóm nghiên cứu, điều này cho thấy cá tráp đầu vàng có thể

được nuôi bằng thức ăn chứa BSFL ở giai đoạn vỗ béo mà không làm giảm chất lượng

dinh dưỡng của sản phẩm.

Ấu trùng ruồi lính đen

Không ôxy hóa lipid

Phân tích mức độ ôxy hóa lipid trong phi lê cho thấy, không có khác biệt rõ ràng giữa hai nhóm.

Hàm lượng axit béo bão hòa và

không bão hòa đa (PUFA) tương

tự nhau, dẫn đến mức độ ổn định

lipid tương đồng.

Kết quả này tương tự nghiên cứu của Moutinho và cộng sự, khi thay thế dầu thực vật bằng

dầu ruồi lính đen trong thức ăn cá tráp, đã ghi nhận sự giảm đáng kể quá trình peroxid hóa lipid, nhờ đặc tính bền ôxy hóa của nguồn dầu côn trùng.

Trong phần đánh giá cảm quan, nhóm nghiên cứu sử dụng phép thử duo–trio với 26

chuyên gia trong lĩnh vực dịch vụ ẩm thực. Ở mẫu phi lê sống, có đến 23 người phân biệt chính xác giữa hai loại mẫu, cho thấy sự khác biệt cảm nhận được

ở mức tin cậy 95%. Khi hỏi chi

tiết, các chuyên gia nhận thấy khác biệt chủ yếu ở màu sắc, kết

cấu, độ tơi và mùi – những yếu

tố liên quan đến cấu trúc mô và

thành phần axit béo.

Tuy nhiên, ở mẫu phi lê đã nấu

chín, chỉ 14 người nhận biết được sự khác biệt, dưới ngưỡng ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy thức

ăn chứa BSFL ảnh hưởng nhẹ đến phi lê sống nhưng không làm thay đổi hương vị hoặc cấu trúc sau chế biến.

Tiềm năng và triển vọng

Từ các kết quả trên, nhóm nghiên cứu kết luận rằng, bột ấu

trùng ruồi lính đen tách béo một phần hoàn toàn có thể thay thế 10% bột cá trong khẩu phần nuôi cá tráp đầu vàng mà không ảnh hưởng đến thành phần dinh dưỡng, màu sắc hay độ tươi của phi lê.

Sự hiện diện của một số axit béo như lauric và myristic trong thịt cá phản ánh đặc tính riêng của nguồn nguyên liệu BSFL, song không làm biến đổi đáng kể thành phần axit béo tổng thể. Đặc

biệt, việc duy trì ổn định EPA và DHA củng cố giá trị dinh dưỡng của sản phẩm cuối cùng. Điều này mở ra hướng đi bền vững cho ngành thức ăn thủy sản. Nghiên cứu của Đại học Pisa là minh chứng rằng, nguồn protein từ côn trùng không chỉ bền vững mà còn an toàn và hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển xanh của ngành thủy sản toàn cầu. Việc bổ sung 10% bột ấu trùng ruồi lính đen tách béo một phần trong khẩu phần cá tráp đầu vàng không làm giảm giá trị dinh dưỡng hay cảm quan của sản phẩm, còn góp phần giảm áp lực khai thác bột cá. Đây là bước tiến quan trọng trong chiến lược phát triển thức ăn thủy sản “xanh hơn, bền vững hơn”, đưa ngành nuôi biển tiến gần hơn đến mô hình kinh tế tuần hoàn.

Dũng Nguyên

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Phụ gia thảo dược AI

Bước ngoặt mới trong dinh dưỡng thủy sản

Nhờ sức mạnh của trí tuệ nhân tạo (AI), ngành dinh

dưỡng thủy sản đang bước vào một kỷ nguyên mới,

nơi các hợp chất tự nhiên được phát hiện, phân tích và

ứng dụng nhanh chưa từng có, mở đường cho thế hệ

phụ gia sinh học hiệu quả, an toàn và bền vững hơn.

Trong bối cảnh nhu cầu thủy sản toàn cầu không ngừng tăng, phụ gia dinh dưỡng trở thành trụ cột trong chiến lược nâng cao hiệu suất tăng trưởng, cải thiện chuyển hóa thức ăn và tăng cường sức đề kháng của vật nuôi. Giữa xu hướng tìm kiếm giải pháp tự nhiên thay thế kháng sinh và chất kích thích tăng trưởng, phụ gia chiết xuất từ thực vật đang nổi lên như “ngôi sao mới”. Chúng chứa nhiều hoạt chất sinh học có đặc tính chống ôxy hóa, kháng viêm, kháng khuẩn, giúp giảm stress ôxy hóa và kích hoạt hệ miễn dịch tự nhiên cho cá, tôm và các loài thủy sản khác.

Tuy nhiên, hành trình tìm kiếm những hoạt chất này vốn đầy gian nan. Hàng chục nghìn hợp chất tự nhiên cần được sàng lọc và kiểm chứng, đối chiếu với hàng trăm mầm bệnh và cơ chế sinh học. Chi phí để phát triển một phụ gia đơn lẻ có thể vượt 500.000 USD, trong khi tỷ lệ thành công dưới 10%. Trước đây, những rào cản này khiến nghiên cứu phytogenic tiến triển chậm và tốn kém. Nhưng công nghệ mới, đặc biệt là AI, đang thay đổi hoàn toàn cuộc chơi.

Gỡ “nút thắt” nghiên cứu

Vấn đề lớn nhất của nghiên cứu thảo dược nằm ở quy mô khổng lồ của tự nhiên. Xác định được hợp chất mạnh nhất từng là nhiệm vụ bất khả thi. Giờ đây, nhờ các nền tảng sàng lọc tốc độ cao (High-Throughput Screening – HTS), hàng nghìn chiết xuất thực vật có thể được thử nghiệm tự động trên các dòng tế bào cá hoặc mầm bệnh cụ thể. Công nghệ này giúp nhanh chóng thu hẹp phạm vi, chọn ra những ứng viên tiềm năng để phân tích sâu hơn. Song HTS chỉ cho biết một hợp chất có hiệu quả hay không. Để hiểu vì sao nó hiệu quả, các nhà khoa học sử dụng bộ công cụ sinh học phân tử hiện đại (omics) gồm hệ gen (genomics), phiên mã (transcriptomics), protein học (proteomics) và chuyển hóa (metabolomics) nhằm phác họa bức tranh toàn diện về tác động sinh học ở cấp độ phân tử. Khi kết hợp, HTS và ‘omics’ tạo nên bản đồ chi tiết hành trình của hợp chất trong cơ thể cá, chứng minh cơ chế tác động và độ an toàn. Nếu HTS và ‘omics’ mở rộng năng lực quan sát, thì AI chính là công cụ giúp giải mã và dự đoán. Các mô hình học máy hiện có thể phân tích cấu trúc hóa học của hàng nghìn hợp chất thảo dược và dự đoán hoạt tính sinh học của chúng trước khi bước vào phòng thí nghiệm. Dựa trên dữ liệu tích lũy từ các nghiên cứu

trước, AI xác định được những ứng viên có khả năng thành công cao, tiết kiệm đáng kể thời gian và chi phí nghiên cứu. AI cũng giúp xử lý lượng dữ liệu khổng lồ từ công nghệ ‘omics’, phát hiện những mẫu biến

đổi gen hoặc chuyển hóa tinh vi mà con người khó nhận ra. Nhờ đó, các nhà khoa học có thể liên kết chính xác từng hợp chất với tác

động cụ thể như tăng cường miễn dịch, cải thiện đường ruột hoặc giảm viêm. Quá trình

tìm kiếm phụ gia vì thế chuyển từ “thử và sai” sang “thiết kế thông minh”.

Bốn trụ cột phụ gia AI

Dự đoán thay vì thử nghiệm: Thay vì sàng lọc vật lý hàng nghìn mẫu, AI cho phép sàng lọc ảo (in silico) hàng triệu phân tử. Dựa trên cấu trúc hóa học, mô hình AI có thể dự đoán

hiệu quả, độ an toàn và cơ chế tác động của từng hợp chất. Việc này rút ngắn thời gian

R&D từ nhiều năm xuống chỉ vài tuần.

Hiểu cơ chế ở cấp độ hệ thống: AI tổng hợp dữ liệu từ nhiều tầng – gen, protein, chuyển hóa để vẽ nên bức tranh toàn cảnh phản ứng sinh học của cá khi tiếp xúc với phụ gia. Từ đó, các nhà nghiên cứu có thể thiết kế hợp chất “hai trong một”, vừa ức chế mầm bệnh, vừa kích thích gen tạo chất nhầy bảo vệ niêm mạc ruột. Tạo công thức cộng hưởng thông minh: Những giải pháp tự nhiên hiệu quả nhất không nằm ở đơn chất mà ở tổ hợp nhiều thành phần. AI có thể mô phỏng hàng triệu tương tác giữa phytogenics, probiotics, prebiotics và enzyme để xây dựng công thức cộng hưởng với tác dụng đa chiều gồm kháng khuẩn, kháng viêm và điều hòa hệ vi sinh đường ruột trong cùng một sản phẩm.

Thử nghiệm ảo và “bản sao kỹ thuật số”: Nhờ công nghệ digital twin, các nhà khoa học có thể tạo ra mô hình ảo của cá hoặc cả hệ thống nuôi để mô phỏng hàng nghìn kịch bản từ biến động nhiệt độ, khẩu phần ăn đến áp lực bệnh tật trước khi thử nghiệm thật. Cách làm này giảm mạnh chi phí, thời gian và số lượng vật nuôi cần cho nghiên cứu, đồng thời tối ưu hóa liều lượng và hiệu quả. Từ cây cỏ đến giải pháp công nghệ cao Hành trình từ một loài thảo mộc trong tự nhiên đến phụ gia sinh học hiệu quả đang được tái định nghĩa bởi công nghệ, trong đó AI là trung tâm dẫn dắt. Khi kết hợp với sàng lọc tốc độ cao và dữ liệu ‘omics’, trí tuệ nhân tạo giúp ngành thủy sản hiểu sâu hơn bao giờ hết về cách các hợp chất tự nhiên vận hành ở cấp phân tử.

Nhờ vậy, phụ gia thực vật sẽ không còn là lựa chọn thay thế tạm thời, mà trở thành trụ cột của dinh dưỡng thủy sản hiện đại, góp phần xây dựng mô hình nuôi trồng bền vững, hiệu quả và sinh lời cao.

Tiên phong trong xu hướng này, ISRBIO vừa giới thiệu nền tảng AI đầu tiên dành riêng cho sàng lọc dự đoán phụ gia thảo dược trong ngành thức ăn thủy sản. Hệ thống này không chỉ hỗ trợ phát hiện hợp chất mới mà còn xác định ứng dụng tiềm năng chưa được khai thác của các phụ gia sẵn có trên nhiều loài khác nhau. Bằng cách này, thời gian nghiên cứu rút ngắn đáng kể, chi phí tối ưu và nguồn lực được tập trung cho những hướng đi khả thi nhất. Sự kết hợp giữa khoa học tự nhiên và trí tuệ nhân tạo đang mở ra một kỷ nguyên dinh dưỡng thông minh, nơi mỗi phân tử thảo dược đều được hiểu rõ, thiết kế chính xác và ứng dụng tối ưu vì một ngành thủy sản xanh, khỏe và bền vững.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Nam Trung Bộ tìm lời giải

cho nuôi biển thích ứng với biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu đang khiến nghề nuôi biển truyền thống đối mặt với

nhiều rủi ro. Việc người nuôi chuyển từ lồng gỗ ven bờ sang công nghệ nuôi hiện đại, quản lý bằng dữ liệu và vật liệu chịu bão đang mở ra cơ hội phát triển bền vững cho khu vực Nam Trung Bộ.

Từ mô hình thí điểm đến nhân rộng

Dải bờ biển Nam Trung Bộ từng là “thủ

phủ” lồng bè gỗ, san sát từ vịnh Vân Phong, Nha Trang, Cam Ranh cho đến các đầm, vịnh

ở Đắk Lắk hay Gia Lai. Lồng gỗ rẻ, dễ đóng, phù hợp sản xuất nhỏ lẻ nên hàng nghìn hộ dân gắn bó suốt nhiều thế hệ.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đã khiến mọi thứ thay đổi. Bão mạnh xuất hiện dày hơn,

Ảnh: Trung tâm Khuyến nông Quốc gia

sóng lớn kéo dài đến tận tháng 11–12, nhiệt độ nước biển bất thường khiến cá yếu, dịch bệnh bùng phát. Chỉ trong vài giờ, một trận gió lớn có thể đánh sập cả hệ thống lồng gỗ, cuốn theo toàn bộ vốn liếng của người nuôi. Khánh Hòa vốn được biết đến là “thủ phủ nuôi biển” của cả nước, cũng không tránh khỏi vòng xoáy ấy. Sản lượng thủy sản nuôi của tỉnh đạt hơn 32.000 tấn mỗi năm, trong đó khoảng 50% đến từ nuôi lồng bè trên biển. Nhưng kèm theo đó là nỗi lo thường trực: trời yên thì thu nhập cao, biển động thì rủi ro mất trắng.

Trong bối cảnh đó, những năm gần đây, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với các doanh nghiệp, địa phương cùng người dân liên tục triển khai các mô hình nuôi biển công nghệ cao tại Khánh Hòa, Quảng Ngãi,

Đắk Lắk, Gia Lai, Quảng Ninh… Nòng cốt của các mô hình không chỉ là lồng nuôi bằng vật liệu HDPE chịu sóng lớn, chống ăn mòn, tuổi thọ 30–50 năm mà còn thay đổi toàn bộ quy trình sản xuất như: máy cho ăn tự động, camera quan sát dưới nước, thiết bị đo chất lượng nước theo thời gian thực.

Ở Khánh Hòa, từ nguồn kinh phí khuyến nông Trung ương và tỉnh, 38 ô lồng HDPE vuông và 8 lồng tròn đường kính 10–13 m đã được hạ thủy cho các hộ dân tại vịnh Nha Trang, Cam Ranh. Điều đáng mừng không nằm trên giấy tờ, mà nằm ở những con số người dân nhìn thấy hàng ngày: năng suất trung bình tăng lên 10–15 kg/m³ (so với 8–10 kg/m³ ở lồng gỗ), tỷ lệ cá hao hụt giảm mạnh, dịch bệnh hạn chế, chi phí thức ăn tiết kiệm do máy tự động điều chỉnh khẩu phần.

Nhưng điều thuyết phục nhất lại là khả năng chống chịu sóng gió. Những mùa bão gần đây, lồng HDPE vẫn đứng vững trong khi hàng chục lồng gỗ xung quanh bị sóng giật hỏng.

Phát biểu tại Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp phát triển nuôi biển thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ” tổ chức mới đây tại Khánh Hòa, ông Hoàng Văn Hồng –Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chia sẻ: “Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những tác động sâu rộng đến sinh kế và sản xuất, việc tìm kiếm những giải pháp bền vững cho phát triển kinh tế biển không còn là sự lựa chọn, mà đã trở thành một yêu cầu cấp thiết”.

Sau hơn một năm thí điểm, số hộ dân tự bỏ vốn mua lồng HDPE ngày càng nhiều. Đến nay, tại Khánh Hòa đã có 27 hộ đầu tư thêm 50 lồng tròn và 12 lồng vuông, hình thành những cụm nuôi công nghiệp đầu tiên trên biển.

Đánh thức tiềm năng nuôi biển

Chương trình khuyến nông không chỉ dừng

ở việc hướng dẫn người dân nuôi cá. Hệ thống khuyến nông trở thành cầu nối giữa nhiều phía: viện nghiên cứu – doanh nghiệp –hộ dân – cơ quan quản lý. Nhờ các mô hình thí điểm, nhiều doanh nghiệp chế biến đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm, vì cá nuôi bằng quy trình công nghệ cao dễ truy xuất nguồn gốc, kiểm soát kháng sinh, phù hợp thị trường xuất khẩu. Người nuôi không còn phụ thuộc thương lái; chuỗi giá trị bắt đầu hình thành từ lồng nuôi đến nhà máy.

Từ những số liệu khảo sát thực tế, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tham mưu đề xuất chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi lồng bè truyền thống sang lồng vật liệu mới; khuyến nghị bảo hiểm nuôi biển, tín dụng ưu đãi, tiêu chuẩn kỹ thuật vùng nuôi, cấp mã số vùng nuôi.

Một trong những điểm mới của khuyến nông là phương pháp “cầm tay chỉ việc”. Không còn những lớp tập huấn lý thuyết nặng nề, cán bộ khuyến nông xuống tận bè, dạy cách vận hành máy cho ăn, cách lặn kiểm tra neo, cách đọc dữ liệu môi trường. Người dân dùng điện thoại xem cảm biến chất lượng nước, điều chỉnh lượng thức ăn, nhận cảnh báo khi ôxy giảm. Từ chỗ nuôi bằng kinh nghiệm, họ bắt đầu nuôi bằng dữ liệu.

Ông Vũ Khắc Mười, một ngư dân tiên phong thí điểm nuôi biển công nghệ cao ở khu vực Đầm Bấy (phường Nha Trang) chia sẻ: “Lồng gỗ trước đây chỉ cần bão cấp 7 là lo ngay ngáy. Còn lồng HDPE chịu được bão cấp 12. Mình không còn sống chung với nỗi sợ nữa”. Hiện ông đang nuôi cá chim vây vàng và cá bớp trên diện tích 1.000m² mặt nước, dự kiến sản lượng 30 tấn/năm. Kinh nghiệm của ông đã lan rộng, trở thành ví dụ điển hình cho nhiều hộ nuôi khác thực hiện.

Theo đại diện Cục Thủy sản và Kiểm ngư, muốn “đánh thức” tiềm năng biển, trước hết phải làm tốt quy hoạch và quản lý không gian biển. Các vùng nuôi cần được bố trí mặt nước rõ ràng, tránh chồng lấn với du lịch, giao thông thủy hay khu bảo tồn; từ đó hình thành những cụm nuôi tập trung với hạ tầng đồng bộ và dịch vụ hậu cần đi kèm. Cách làm manh mún, nhỏ lẻ sẽ không thể tạo ra giá trị lớn và càng dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu.

Nuôi biển là trụ cột quan trọng trong

Chiến lược phát triển Thủy sản Việt

Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cùng với Đề án phát triển nuôi trồng Thủy sản trên biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu đến năm 2030, diện tích nuôi biển trên cả nước đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi đạt 12 triệu m3, sản lượng đạt 1,45 triệu tấn, giá trị xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ USD mỗi năm; tăng cường nuôi trồng, giảm khai thác.

Bên cạnh đó, ngành cần đẩy mạnh chuyển đổi từ lồng bè gỗ ven bờ sang lồng công nghiệp chịu lực như HDPE, hướng đến nuôi xa bờ, quản lý bằng công nghệ số, quan trắc môi trường và sử dụng giống chất lượng cao. Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chuỗi giá trị: sản xuất phải gắn với chế biến và tiêu thụ, có truy xuất nguồn gốc, có doanh nghiệp thu mua thì sản phẩm mới đủ điều kiện vào thị trường xuất khẩu. Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Hoàng Văn Hồng cho rằng, việc tìm kiếm các giải pháp nuôi biển công nghệ cao và bền vững không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu cấp thiết đối với ngành thủy sản. Theo ông Hồng, Nam Trung Bộ có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi biển với nhiều khu vực nước sâu, dòng chảy ổn định, thích hợp nuôi cá biển, tôm hùm, nhuyễn thể.

“Chúng ta buộc phải thay đổi. Nếu vẫn nuôi theo mô hình nhỏ lẻ, dựa vào kinh nghiệm và lồng gỗ truyền thống, thì rủi ro ngày càng lớn. Diễn đàn lần này không chỉ tháo gỡ khó khăn trong thực tế sản xuất, mà quan trọng hơn là định hướng một ngành nuôi biển hiện đại, hiệu quả, hướng đến công nghiệp hóa và bền vững,” ông Hồng khẳng định.

Nhiều chuyên gia nhận định, trong tương lai, ngành thủy sản Việt Nam muốn bứt phá thì phải vươn ra xa bờ, giảm áp lực khu vực ven bờ đang quá tải. Hệ thống lồng tròn dung tích hàng trăm đến hàng nghìn m³ với công nghệ tự động hóa chính là chìa khóa.

Những quốc gia phát triển nuôi biển như Na Uy hay Nhật Bản đã chứng minh: giá trị không nằm ở số lượng lồng, mà ở năng suất, chất lượng và an toàn môi trường. Sự chuyển mình của nghề nuôi biển sẽ không thể diễn ra trong một sớm một chiều, nhưng với sự đồng hành của khuyến nông, công nghệ và chính sách, một nền nuôi biển hiện đại, an toàn, thân thiện môi trường đang dần hình thành. Từ Nha Trang, tín hiệu đổi mới đang lan rộng, mở ra kỳ vọng về một ngành kinh tế biển bền vững cho Nam Trung Bộ và cả nước.

BQ&Q

Hướng đến nông nghiệp xanh với giải pháp vi sinhenzyme -

thảo dược thiên nhiên

Công ty Cổ Phần BQ&Q chuyên

nhập khẩu và phân phối các sản

phẩm nguyên liệu Yucca, Chế

Phẩm Vi Sinh, Enzyme, Dinh Dưỡng

Bổ Sung, Sản Phẩm Xử Lý Nước…

phục vụ cho Nông Nghiệp. Với mục

tiêu hướng các sản phẩm đến phát

triển bền vững và thân thiện với môi trường.

1. Nhóm Các Sản Phẩm Thiên Nhiên, Chiết

Xuất Thực Vật

 Yucca Star Liquid - Yucca Star Powder

Yucca Star Liquid và Yucca Star Powder là sản phẩm của Nhà sản xuất BAJA AGRO INTERNATIONAL được sản xuất bằng phương pháp ép lạnh hoặc nghiền cây Yucca Schidigera, cho ra sản phẩm yucca 100% thiên nhiên.

Công dụng:

Dùng trộn vào thức ăn cho vật nuôi giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng, giảm hệ số FCR, chuyển hóa NH3 từ bên trong đường ruột, giảm stress cho vật nuôi,...

Tại Việt Nam, Công ty BQ&Q hiện đang phân phối độc quyền duy nhất sản phẩm Yucca Star Liquid và Yucca Star Powder của thương hiệu Baja Agroin.

 Or - Immuno Chiết Xuất Thực Vật, Hỗ Trợ Gan

Or - Immuno là sản phẩm chứa hỗn hợp chiết xuất từ thực vật đến từ NSX Tex Biosciences (Ấn Độ) giúp bảo vệ sức khỏe, tăng cường khả năng miễn dịch ở động vật thủy sản và vật nuôi khác.

Công dụng:

- Bổ sung vitamin giúp tôm, cá giảm stress.

- Bổ sung thymol và allicin vào thức ăn giúp tăng sức đề kháng, tăng khả năng sống và phát triển của tôm, cá.

- Hỗ trợ ngăn chặn sự phát triển của virus gây bệnh trên tôm, cá.

2. Nhóm Sản Phẩm Vi Sinh

 BIO PROTABLET - VI SINH VIÊN 3G Vi sinh viên nén - BIO PRO TABLET là sản phẩm của nhà sản xuất Aquaintech Inc - Mỹ, BIOPRO TABLET là dòng vi sinh kết hợp hỗn hợp độc quyền của các loài vi khuẩn được lựa chọn đặc biệt có ứng dụng trong nuôi trồng thuỷ sản.

Công dụng:

- Bổ sung môi trường nuôi tăng mật độ vi khuẩn có lợi.

- Giúp tôm, cá tiêu hóa tốt thức ăn, cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR).

 ECUPRO - Vi sinh hỗ trợ phòng bệnh TPD ECUPRO là hỗn hợp các chế phẩm sinh học và enzyme giúp ức chế các tác nhân gây bệnh Vibrio sp. ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản. Probiotic trong sản phẩm tạo ra các chất chuyển hóa thứ cấp có tác dụng chống lại mầm bệnh Vibrio sp. và làm giảm các bệnh nhiễm trùng khác.

Công dụng: - Ức chế các tác nhân gây bệnh do Vibrio và giảm tỷ lệ tử vong.

- Tăng cường khả năng miễn dịch, tăng khả năng sống sót và tăng trưởng của tôm.

3. Nhóm Sản Phẩm Enzyme  Superzyme - Enzyme tẩy nhớt bạt, xử lý nước, hỗ trợ tiêu hoá - Superzyme chứa các enzyme sinh học

Protease và Phytase. Các enzyme này có tác dụng phân giải phytate, giúp giải phóng phospho và inositol trong phytate để động vật thủy sản dễ hấp thu hơn.

- Sản phẩm giúp tăng trưởng tốt hơn và giảm ô nhiễm môi trường bằng cách giảm lượng phospho và nitơ thải ra hệ sinh thái.

Superzyme còn cải thiện khả năng tiêu hóa và sử dụng thức ăn thủy sản, nâng cao hiệu suất tăng trưởng, và giảm thiểu tác động môi trường.

Công dụng:

- Bổ sung enzyme vào thức ăn cho tôm, cá.

- Giúp tôm cá tiêu hóa tốt thức ăn, cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR).

4. Nhóm Sản Phẩm Dinh Dưỡng Bổ Sung  VITA KINGDOM - Vitamin tổng hợp VITA KINGDOM chứa các loại vitamin có hàm lượng cao dưới dạng phức hợp nhiều loại vitamin giúp nâng cao sức đề kháng bệnh cho tôm, cá, đặc biệt giúp giảm stress, thúc đẩy tăng trưởng, giúp tôm, cá phát triển nhanh, tăng tỷ lệ sống.

Công dụng:

- Bổ sung các vitamin cần thiết cho tôm, cá.

- Cải thiện sức khỏe và tăng đề kháng cho tôm, cá.

5. Nhóm Sản Phẩm Xử Lý Nước

 Dissolvine Na2 - EDTA 2 muối Sản phẩm EDTA Dissolvine nhập khẩu

chính hãng từ Nouryon, Dissolvine Na2 là EDTA 2Na (Ethylen Diamin Tetraacetic Acid, disodium salt, dihydrate), có khả năng khử phèn, làm giảm độ cứng của nước.

Công dụng:

- Khử các kim loại nặng tồn lưu trong nước.

- Giảm độ nhờn, váng bọt, làm lắng các cặn bã và chất lơ lửng trong nước, tiêu hủy các độc tố của tảo.

- Ổn định độ kiềm, độ pH của nước.

Công ty Cổ Phần BQ&Q hiện đang nhập khẩu và phân phối trực tiếp 2 sản phẩm EDTA 2 muối (Dissovine Na2) và EDTA 4 muối (Dissovine Na) của Nouryon.

 AQUAZE - Potassium monopersulphate 50%

AQUAZE là một chất sát trùng phổ rộng và an toàn, có thể diệt được nhiều loài virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh ở các loài thủy sản.

Công dụng:

- Khử trùng và tiêu diệt virus, vi khuẩn, nấm,… trong ao nuôi.

- Ngăn chặn virus White Spot và Taura… lây truyền trong nguồn nước.

- Phòng ngừa bệnh do vi khuẩn Vibrio spp. gây ra trong nuôi trồng thủy sản.

Để tìm đúng nguồn hàng chính hãng, giá tốt, giao hàng tận nơi, Quý khách hãy liên hệ ngay với công ty Cổ Phần BQ&Q thông qua Zalo mini app BQQ Aqua: https:// zalo.me/s/1401859480337411262/?utm_ source=zalo-qr.

BQQ Aqua là ứng dụng mua hàng thông minh trên nền tảng Zalo, được phát triển riêng cho khách hàng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi và thú y Tính năng nổi bật của BQQ Aqua:

- Đặt hàng online nhanh chóng chỉ với 1 cú click ngay trên điện thoại.

- Đăng ký tài khoản miễn phí, quản lý đơn hàng và theo dõi trạng thái giao hàng dễ dàng.

- Liên kết trực tiếp với Giao Hàng Nhanh, hỗ trợ ship COD – kiểm hàng trước khi thanh toán.

- Tích điểm – nhận quà – quay thưởng may mắn: càng mua nhiều, càng nhiều ưu đãi và voucher hấp dẫn.

- Kho sản phẩm phong phú, thông tin rõ ràng, tích hợp tài liệu kỹ thuật – hướng dẫn chuyên môn cho người dùng.

Với giao diện thân thiện, thao tác tiện lợi, BQQ Aqua giúp bà con tra cứu – đặt hàng – nhận ưu đãi nhanh chóng, tất cả gói gọn trong cùng một ứng dụng Zalo duy nhất.

Công ty Cổ phần BQ&Q kính chúc Quý khách hàng vụ mùa thắng lợi, mùa màng bội thu, vật nuôi khỏe mạnh và đạt năng suất cao.

Yucca Star Liquid
Superzyme
Yucca Star powder
VITAKINGDOM
Or-Immuno
EDTA Dissolvine
Bio Pro Tablet Aquaze
ECUPRO
Quét mã tại đây

độc và biện pháp xử lý triệt

Trong ngành NTTS, đặc biệt là trong nuôi tôm, tảo

là yếu tố quan trọng trong chuỗi thức ăn tự nhiên và

giữ vai trò là hệ thống lọc sinh học giúp cân bằng

các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, nếu tảo phát triển

quá mức hay thiếu tảo sẽ gây biến động môi trường

WD 103

Nguyên nhân

Tảo phát triển quá mức ở đầu vụ thường là do cải tạo ao không kỹ, đáy ao dơ, tích tụ nhiều chất hữu cơ, nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ.

dạng hạt hay sợi đều độc như nhau, nhưng dạng sợi thường độc hơn do vướng vào mang tôm và tôm thường ăn phải nhưng không tiêu hóa được.

nước và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của tôm. sung chế

Các nguyên nhân làm tảo phát triển quá mức:

- Ô nhiễm hữu cơ: Thức ăn dư thừa do không quản lý tốt khâu cho ăn, chất thải từ tôm.

- Thời tiết thay đổi thất thường:

Mưa kéo dài làm giảm độ mặn, phân tầng mặt nước tạo điều kiện cho tảo lam phát triển. Khi thời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước tăng sẽ thúc đẩy quá trình phân hủy bùn bã hữu cơ tạo ra nhiều chất dinh dưỡng giúp cho tảo phát triển mạnh mẽ.

Tác hại

Bên cạnh các loài tảo có lợi cho nuôi tôm, sự phát triển quá mức các loài tảo độc sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp

đến tôm. Các loài tảo này sẽ tiết ra độc tố làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước, gây ảnh hưởng hệ thống gan tụy và hệ tiêu hóa nếu tôm ăn phải.

Tảo lam: Làm tôm mắc bệnh phân trắng do ăn phải tảo lam

nhưng không tiêu hóa được, gây mùi hôi cho tôm, gây nhờn nước, thải chất nhờn làm tắc nghẽn mang tôm gây cản trở hô hấp. Tảo lam

Tảo giáp: Nếu tôm ăn phải sẽ làm cho tôm khó tiêu, ảnh hưởng đến đến hệ tiêu hóa, bị bệnh phân đứt khúc, là nguyên nhân làm tôm nổi đầu về đêm do thiếu Ôxy. Ngoài ra, tảo giáp còn là nguyên nhân gây nên hiện tượng phát sáng trong ao.

Tảo mắt: Là sinh vật chỉ thị môi trường, khi tảo mắt xuất hiện quá mức cho thấy ao bị ô nhiễm hữu cơ, nền đáy ao bẩn.

Tảo đỏ: Sản sinh ra độc tố gây tê liệt, ngộ độc và ngộ độc thần kinh, gây hại hoặc làm tắt nghẽn mang tôm, cá. Tảo đỏ còn làm tôm nổi đầu về đêm và sáng sớm do thiếu Ôxy trong nước, gây ra hiện tượng phát sáng và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tập tính sổng của tôm nuôi.

Cách xử lý

- Vớt xác tảo và thay nước nhằm giảm mật độ tảo, tuy nhiên, giải pháp này rất tốn công và chi phí.

- Quản lý tốt việc cho ăn nhằm kiểm soát lượng thức ăn dư thừa trong ao.

- Xử lý đáy (hút bùn và xi phông) thường xuyên nhằm hạn chế sự tích tụ chất hữu cơ ở đáy ao.

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo trong ao nuôi, với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus lichenifomis, Bacillus amyloliquefaciens

- Cắt tảo bằng vôi đêm với liều

cho phép (dung kèm zeolite, hút bùn và xi phông thường xuyên),

BKC, chất diệt tảo có gốc CuSO 4.

- Đối với tảo lam, có thể áp

dụng biện pháp tăng độ mặn bằng cách cấp thêm nước hoặc

bổ sung muối 10kg/1.000m3 treo ở đầu cánh quạt.

- Thả ghép cá rô phi cùng với tôm trong ao nuôi, do cá rô phi thường sống ở tầng giữa và tầng đáy nên có thể tiêu thụ 30 - 60%

lượng đạm trong tảo, đặc biệt là tảo lam, tảo lục giúp ổn định chất lượng nước.

Bổ sung chế phẩm sinh học:

- Chế phẩm Enzyme: Cellulase, Protease, Amylase… giúp cắt tảo nhanh chóng.

- Chế phẩm vi sinh: Chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả năng phân hủy chất hữu cơ dư thừa, tiết enzyme để cắt tảo. Bổ

PROCOZOLL

dạng tổng hợp của 5 loại enzyme: Protease, Amylase, Cellulase, Lipase, Urease, giúp khống chế tảo độc và bùn bã hữu cơ

và thức ăn có

ổn định mật độ tảo trong ao, giúp cho động vật thủy sản phát triển khỏe mạnh. Đề xuất giải pháp Việc sử dụng các chế phẩm sinh học trong ngành Nuôi trồng Thủy sản hiện nay đang là xu hướng được nhiều người nuôi lựa chọn, các sản phẩm này không chỉ giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, nhanh chóng, an toàn mà còn thân thiện với môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành Thủy sản. Công ty THÁI NAM VIỆT đã phát triển hai dòng sản phẩm sinh học nhằm giải quyết triệt để và an toàn đối với vấn đề tảo độc trong ao nuôi.

Phòng bệnh mềm vỏ cong thân trên TTCT nuôi

Nuôi tôm thẻ chân

trắng (TTCT) trong môi

trường có độ mặn thấp

gặp nhiều thách thức, như chi phí nuôi cao, quá trình chăm sóc

phức tạp, tỷ lệ hao hụt lớn, và đặc biệt, tôm

thường mắc các bệnh như mềm vỏ, cong thân, chậm lớn hoặc nhẹ cân.

Độ kiềm và khoáng thích hợp cho TTCT

Độ kiềm của nước: Là chỉ số chỉ khả năng trung hòa axit của nước, thể hiện tổng số các loại ion có tính bazơ như bicarbonat hoặc hydroxit. TTCT phát triển bình thường trong môi trường có độ kiềm từ 100 - 180 mg CaCO3 /lít, tốt nhất là 120 - 160 mg CaCO3 / lít. Kiềm cao và duy trì ổn định 100 - 180 mg CaCO3 /lít sẽ giúp hệ đệm trong ao ổn định, kéo theo pH nước ổn định (pH sáng và chiều ít dao động), giúp tôm tăng trưởng tốt không bị stress.

Tỷ lệ Canxi:Magie là 1:2 hoặc 1:3 sẽ thích hợp cho tôm tạo vỏ, lột vỏ hoàn chỉnh, tôm không bị cong thân do thiếu khoáng chất.

Nguyên nhân

Các chỉ số khoáng chất có trong môi trường như Canxi (Ca), Magie (Mg), Kali (K), Natri (Na),… khá quan trọng trong việc giúp tôm TTCT tăng trưởng phát triển

ở độ

mặn thấp

cân đối, cũng như trong việc tạo vỏ, lột vỏ,… Nếu các chỉ số môi

trường, hoặc khoáng chất không

đạt ngưỡng thích hợp thì sẻ ảnh

hưởng đến quá trình trao đổi chất

ở tôm, tôm chậm lớn, khó tạo vỏ, lột vỏ, sức khỏe và chất lượng

tôm nuôi bị ảnh hưởng.

Ở môi trường ngọt hóa hoặc

nước có độ mặn thấp thì chỉ số

khoáng chất Mg thấp hơn Ca,

không thích hợp cho TTCT trong

việc hấp thu đủ khoáng để tạo vỏ, lột vỏ. Độ kiềm trong nước thường thấp dưới 100 mg CaCO3 /lít, thậm

chí có nơi nước ngọt hoàn toàn,

độ kiềm < 80 mg CaCO3 /lít.

Do vậy trong nuôi TTCT ở môi

trường độ mặn thấp cần chú trọng

khẩu phần dinh dưỡng của tôm.

Cho tôm ăn phải đảm bảo đầy đủ

dưỡng chất vitamin, axit amin, khoáng chất thiết yếu,… Ngoài ra, người nuôi cần lưu ý bổ sung thêm

khoáng như Ca, Mg, K, N vào môi

trường nước ao nuôi để cân bằng

áp suất thẩm thấu, giúp tôm hấp

thu được khoáng chất thông qua mang và cơ thể, tôm sẽ phát triển cân đối, tạo vỏ chắc, bóng loáng, tôm không bị mềm vỏ, cong thân,…

Giải pháp kiểm soát độ kiềm và khoáng chất

Chuẩn bị ao nuôi: Đối với farm tôm nuôi ở vùng độ mặn thấp thì ngoài diệt khuẩn cần chú ý bổ sung BIO-ALKALINE FOR SHRIMP để nâng độ kiềm trong

nước, liều 40 - 100 kg/1.000 m3

nước, giúp nguồn nước duy trì độ kiềm > 100 mg CaCO3 /lít.

Đồng thời, bổ sung thêm khoáng chất BIO-PREMIX FOR SHRIMP liều 20 - 40 kg/1.000 m3

nước, giúp cân bằng khoáng chất

trong môi trường nước, đảm bảo

tỷ lệ Ca:Mg ở ngưỡng thích hợp

đảm bảo cho tôm sinh trưởng phát

triển, đặc biệt giúp tôm có thể hấp

thu đủ khoáng để tạo vỏ, lột vỏ.

Trong quá trình nuôi: Sau khi chuẩn bị ao và tôm giống đã

được thuần hóa sống ở độ mặn

thấp thì có thể tiến hành thả tôm. Lưu ý, ngoài việc cho tôm ăn đầy đủ, người nuôi nên bổ sung thêm BIO-CALPHOS FOR SHRIMP liều 5 ml/kg trộn vào thức ăn, cho tôm ăn mỗi ngày, nhằm cung cấp khoáng chất thiết yếu cho tôm. Bên cạnh đó, cần kiểm soát yếu tố môi trường nước vì trong nuôi tôm công nghiệp, mật độ cao nên nước ao nuôi cần được thay và cấp bổ sung mỗi ngày. Hơn nữa tôm ở giai đoạn còn nhỏ (1 tháng đầu tiên) sẽ lột xác hàng ngày. Do vậy khi cấp nước cần tạt thêm khoáng chất BIO-PREMIX FOR SHRIMP NEW vào nước ao tôm liều 5 - 10 kg/1.000 m3 nước/ lần/ngày. Tôm sau 1 tháng tuổi: 2 - 3 ngày tạt khoáng 1 lần để bổ sung khoáng chất bị thiếu hụt trong môi trường nước nuôi tôm.

Đặng Hồng Đức Cố vấn kỹ thuật, Công ty liên doanh Bio Pharmachemie

lục 12 con/kg Khẳng định sức mạnh tôm giống sú

C.P Việt Nam

Sau thành tích ấn tượng của hộ nuôi tại Bến Tre với tôm sú đạt 14

con/kg, mới đây, anh Huỳnh Khánh Lượng (Trần Đề, TP. Cần Thơ)

tiếp tục ghi dấu với kích cỡ 12 con/kg, khẳng định sức mạnh của tôm giống sú CPF SUPER MONODON – sản phẩm nghiên cứu và chọn lọc gen bởi Tập đoàn C.P. Group. Đằng sau những con tôm “kỷ lục” ấy là hành trình của sự kiên trì, dám thay đổi và niềm tin vào hướng đi mới trong nghề nuôi tôm.

Từ thất bại đến bứt phá

Sau nhiều vụ nuôi thất bại vì EHP, anh Lượng quyết định thay

đổi hướng đi. Anh chọn tôm giống

sú CPF SUPER MONODON của

C.P. Việt Nam – dòng tôm đã trải qua gần 20 năm nghiên cứu, chọn lọc di truyền, được đánh giá cao nhờ khả năng kháng EHP, cùng các ưu thế chống chịu tốt, lớn nhanh, đồng đều và nuôi

được ở mật độ cao.

Cột mốc 12 con/kg Sau 144 ngày nuôi, anh Lượng đạt kết quả ấn tượng khi tôm đạt cỡ 12 con/kg. Đặc biệt, trong bối cảnh các vùng nuôi lân cận thường xuyên chịu ảnh hưởng của bệnh EHP và phân trắng, đàn tôm

của anh vẫn phát triển ổn định, khỏe mạnh, vỏ cứng bóng, lớn nhanh, đồng đều và thích nghi tốt trong cả mùa nắng lẫn mùa mưa.

Thành tích này không chỉ phản ánh tiềm năng vượt trội của tôm giống sú CPF SUPER MONODON, mà còn thể hiện tinh thần bền bỉ, quyết tâm vượt qua thách thức của người nuôi tôm Việt.

Bí quyết thành công

Chia sẻ về kết quả đạt được, anh Lượng cho biết:

“Tôi chọn CPF SUPER MONODON vì muốn tìm lại niềm tin sau nhiều vụ thất bại. Nhờ con giống tốt, kết hợp thức ăn Lotus và Lexus của C.P. Việt Nam, tôm phát triển ổn định, lớn nhanh và

đạt kích cỡ kỷ lục.”

Đại diện C.P. Việt Nam, anh Phan Quốc Việt nhận định: “CPF SUPER MONODON là thành quả của gần 20 năm nghiên cứu và chọn lọc gen. Thành công của bà con như anh Lượng là minh chứng cho hiệu quả của hướng phát triển tôm giống sạch bệnh, năng suất cao và thích nghi tốt với điều kiện Việt Nam.”

Hướng đi bền vững

Trên khắp các vùng nuôi, những “kỷ lục tôm sú” liên tiếp

được xác lập – minh chứng cho

chất lượng vượt trội của tôm

giống C.P. Việt Nam và tinh thần

đổi mới không ngừng của người

nuôi tôm Việt. Đó không chỉ là những con tôm “kỷ lục”, mà còn

là niềm tin và động lực cho hành

trình phát triển bền vững – hiệu

quả – an toàn của ngành tôm

Việt Nam trong tương lai.

Xin trân trọng cảm ơn anh

Huỳnh Khánh Lượng cùng Quý

khách hàng trên khắp cả nước

đã luôn tin tưởng, đồng hành

cùng C.P. Việt Nam.

Kính chúc anh và Quý khách

hàng có những vụ mùa thành

công, hiệu quả và thắng lợi hơn

nữa trong thời gian tới.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Anh Trần Quý Bảo (xã Bình Minh, Nghệ An) hiện đang sở hữu hơn 80 ao nuôi trên diện tích hơn

3 ha, mỗi năm thu về hàng tỷ đồng từ sản xuất giống và nuôi ốc bươu đen thương phẩm.

Sản phẩm ốc bươu đen của anh Bảo được chứng nhận OCOP 3 sao vào năm 2020 Ảnh: ST

Từ ao nhỏ đến trang trại bạc tỷ

Năm 2018, được người thân giới thiệu về mô hình nuôi ốc bươu đen ở địa phương khác, không một đồng vốn trong tay, anh Bảo quyết định vay mượn 12 triệu đồng để lên đường học hỏi kinh nghiệm. Sau thời gian tìm hiểu kỹ lưỡng, anh Bảo mua 2 vạn ốc giống về nuôi thử nghiệm trong 500 m2 ao đất của gia đình.

Nhờ áp dụng phương pháp nuôi tự nhiên, cho ốc ăn rau củ, lá khoai, lá sắn và trồng thêm dọc mùng, bèo để tạo môi trường sinh trưởng thuận lợi cho ốc, sau 4 tháng, anh Bảo đã thu hoạch

lứa ốc đầu tiên với sản lượng 4 tấn, thu về 280 triệu đồng. Thành công bước đầu này tiếp thêm cho anh niềm tin và động lực với nghề nuôi ốc. Năm 2020, anh

được Hội Nông dân tỉnh Nghệ An hỗ trợ 150 triệu đồng vốn vay ưu

đãi, cùng 20 triệu đồng từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh để làm mô hình điểm. Nguồn hỗ trợ này giúp anh có thêm vốn đầu tư, mua

giống và cải thiện hệ thống ao nuôi. Nhờ đó, anh mở rộng trang trại lên hơn 3,7 ha với 17 ao nuôi, mỗi ao khoảng 500 m². Kết quả

sau năm thứ nhất, anh Bảo thu về

1 tỷ đồng, lợi nhuận sau khi trừ chi phí đạt khoảng 700 triệu đồng.

Đến nay, trên diện tích hơn

3 ha, ngoài nuôi ốc bươu đen thương phẩm, anh Bảo còn nuôi ốc bươu giống cung cấp cho các trang trại trong vùng. Hiện, trang trại anh Bảo xuất ra thị trường khoảng 65 tấn ốc thương phẩm và 4 triệu con giống mỗi năm, mang lại lợi nhuận hơn 3 tỷ đồng.

Sản phẩm ốc bươu đen của anh còn vinh dự được chứng nhận OCOP 3 sao vào năm 2020.

Điểm sáng địa phương

Trong quá trình nuôi, anh Bảo không chỉ chú trọng nguồn giống và thức ăn mà còn đặc biệt quan

tâm đến thiết kế ao nuôi. Anh cho biết, nuôi ốc không quá khó, nhưng điều quan trọng là phải tuân thủ nghiêm ngặt các

nguyên tắc kỹ thuật và tạo môi

trường sống lý tưởng cho ốc. Theo kinh nghiệm của anh Bảo, ao nuôi nên được đào sâu ở giữa, nông dần về hai bên mép

để tạo sự thông thoáng và thuận lợi cho ốc sinh trưởng. Bờ ao có nhiều cỏ rậm rạp giúp ốc dễ dàng lên đẻ trứng. Khi thời tiết lạnh, ốc thường chui xuống lớp bùn sâu để ngủ đông; còn những ngày mát mẻ, chúng bò lên tìm thức ăn, giao phối và sinh sản. Nguồn thức ăn cho ốc hoàn toàn tự nhiên, gồm lá sắn, cây hoa xuyến chi, lá và quả đu đủ, mít xanh,… Tất cả được băm nhỏ và rải đều xuống ao. Bên cạnh đó, việc duy trì mực nước từ 50 - 100 cm và thay khoảng 30% lượng nước mỗi tuần được xem là yếu tố quan trọng giúp ốc phát triển khỏe mạnh. Nhờ chế độ chăm sóc này, thịt ốc nuôi vẫn giữ được vị thơm ngon, giòn dai như ốc tự nhiên.

Hiện, trang trại của anh Bảo tạo việc làm ổn định cho 6 - 8 lao

động địa phương, thu nhập gần 8 triệu đồng/người mỗi tháng. Đặc biệt, anh không ngần ngại chia sẻ kinh nghiệm, tận tình hướng dẫn kỹ thuật và cung cấp con giống cho các hộ dân trong và ngoài xã để cùng nhau phát triển. Nhờ sự giúp đỡ của anh, nhiều gia đình từng bước thoát nghèo và ổn định cuộc sống từ chính mô hình nuôi ốc bươu đen. Ông Vũ Trọng Quang, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Minh cho biết: “Mô hình nuôi ốc bươu đen thương phẩm của anh Trần Quý Bảo là điểm sáng ở địa phương. Ngoài việc phát triển kinh tế gia đình, anh còn hướng dẫn, giúp đỡ cho hàng chục hộ dân địa phương nuôi ốc, nhiều gia đình đã vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, anh còn tích cực đóng góp các hoạt động an sinh, xã hội ở địa phương và chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn”.

Indonesia

Làng cá tra - mô hình cộng đồng

thoát nghèo nhờ nuôi thủy sản

Nhờ mô hình nuôi cá tra cộng đồng, làng Patin ở tỉnh Riau (Indonesia) đã trở thành biểu tượng thịnh

vượng: tạo việc làm trên toàn chuỗi giá trị, tăng thu

nhập gấp đôi mức tối thiểu quốc gia và chứng minh

rằng nuôi cá có thể giúp thoát nghèo bền vững.

Hồi sinh từ mặt nước

Ba thập kỷ trước, sau khi bị di dời để nhường đất cho dự án thủy điện, cư dân Koto Mesjid, huyện XIII Koto Kampar (Riau) gần như rơi vào cảnh trắng tay. Tiền đền bù nhanh chóng cạn kiệt, đồn điền cao su thất bại, và cái nghèo cận kề. Bước ngoặt chỉ đến vào đầu những năm 2000, khi họ được hướng dẫn nuôi cá nước ngọt, và lựa chọn cá tra đã thay đổi số phận cả cộng đồng. Người tiên phong là ông

Suhaimi, khi ấy là cán bộ kỹ thuật của Cơ quan Công nghệ Nông nghiệp địa phương (BPTP). Nhận thấy điều kiện tự nhiên thuận lợi, ông tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm nhiều loài thủy sản khác nhau trước khi chọn cá tra, một loài dễ nuôi, chi phí

thấp, thị trường ổn định và thích

hợp với vùng đất sét pha cát giữ

nước tốt. Suhaimi sau đó bỏ việc

nhà nước để tập trung làm nông

dân toàn thời gian, đồng thời vận

động cả làng cùng tham gia.

“Từ chỗ chỉ có một người nuôi, giờ cả làng đều có ao cá. Sản

lượng đạt 15 tấn mỗi ngày trên

160 ha mặt nước. Nhờ vậy, đời

sống được cải thiện, con cái học hành tốt hơn, và sự thịnh vượng

được chia sẻ công bằng,” ông nói. Nhận thấy tiềm năng lớn,

Suhaimi từ bỏ công việc nhà

nước, về hẳn quê khởi nghiệp

với cá. Ban đầu ông chỉ có một ao nhỏ, nhưng nay, toàn bộ 700

hộ dân trong làng, có tới 600 hộ tham gia chuỗi giá trị cá tra từ

ươm giống, nuôi thương phẩm

đến chế biến, buôn bán. “Giờ

cá tạp, bã hạt cọ. Dù tốc độ tăng trưởng chậm hơn, nhưng chi phí chỉ khoảng 5.600 rupiah/kg, rẻ bằng nửa so với thức ăn thương mại. Tính ra, chi phí sản xuất chỉ 12.000 rupiah/kg, trong khi bán ra được 18.500 rupiah, nhờ đó lợi nhuận cao hơn đáng kể. Không chỉ tiết kiệm, việc tự sản xuất thức ăn còn tạo thêm việc làm và giữ dòng tiền trong làng. “Chúng tôi có 38 cơ sở chế biến cám, sản xuất 35040 tấn mỗi ngày”, Suhaimi chia sẻ.

Tạo giá trị gia tăng

đây, không nhà nào thiếu ao cá,”

Suhaimi nói vui, nhắc đến câu cửa miệng của dân làng

Hiện Kampung Patin (Làng cá tra) sở hữu 160 hecta ao nuôi, sản xuất từ 5.000-6.000 tấn cá mỗi năm, tương đương sản lượng của nhiều trang trại quy mô công nghiệp. Nhờ đó, thu nhập trung bình mỗi hộ đạt 7-10 triệu rupiah/tháng, gấp đôi mức lương tối thiểu của Indonesia.

Bứt phá từ nội lực

Khởi đầu khó khăn, nhưng làng cá đã vượt qua nhờ 3 yếu tố: nguồn

nước ngầm sạch ở độ sâu 90 m, chủ động sản xuất giống và tự chế

biến thức ăn. Ban đầu, cá giống phải nhập từ đảo Java, vừa đắt vừa hao hụt. Để khắc phục, Suhaimi

lập trại giống riêng, mua cá bố mẹ

chất lượng từ trung tâm nhà nước và đầu tư công nghệ ấp nở. Đến nay, làng có tám trại giống, sản xuất 3,5 triệu cá bột mỗi tháng, đủ cung cấp cho toàn vùng. Vấn đề lớn nhất là giá thức ăn chiếm tới 85% chi phí. Thay vì phụ thuộc vào cám công nghiệp, người dân tự phối trộn nguyên liệu địa phương như cám gạo,

Khi nhận ra giá bán cá tươi bị ép tại chợ truyền thống, người dân chuyển sang chế biến. Hiện khoảng 80% sản lượng cá được hun khói, phần còn lại tiêu thụ trong và ngoài địa phương. “Ngành cá tra hun khói xử lý khoảng 12 tấn cá mỗi ngày,” Suhaimi cho biết. Với tỷ lệ thu hồi 28-30%, cá hun khói được bán tới 75.000 rupiah/kg, mang lại giá trị gia tăng lớn. Nhờ thành công này, làng Patin trở thành điểm du lịch –giáo dục thu hút sinh viên, nông dân và chuyên gia trong, ngoài nước đến học tập. Với Suhaimi, thành công của Làng Patin chứng minh rằng chìa khóa của phát triển bền vững nằm ở việc chọn loài nuôi phù hợp, công nghệ dễ áp dụng, thị trường ổn định, và quan trọng nhất là tinh thần cộng đồng cùng người dẫn đường có tâm.

“Chúng tôi không có kế hoạch mở rộng quy mô lớn. Điều quan trọng là giữ vững những gì đã có, tiếp tục cải thiện và sẵn sàng hợp tác với bất kỳ sáng kiến nào giúp làng ngày càng phát triển hơn,” ông Suhaimi nói, nụ cười ánh lên niềm tự hào của một cộng đồng từng vực dậy từ con nước.

Kỹ thuật sản xuất giống

cua biển

Cua biển là đối tượng nuôi mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều vùng ven biển. Tuy nhiên, để có

được đàn cua giống khỏe mạnh, đồng đều và thích nghi tốt, người nuôi cần nắm vững quy trình kỹ thuật sản xuất giống.

Lựa chọn vị trí

Vị trí xây dựng trại sản xuất cua giống phải có nguồn nước có độ mặn tốt nhất là 2832‰. Nước dùng cho trại giống cua biển phải trong, sạch, hạn chế phù sa, chất lượng nước ổn định và độ mặn dao động ít.

Các trại xa biển không có nguồn nước mặn có thể dùng nước ót (độ mặn từ 80 - 120‰) pha với nước ngọt thành nước có độ mặn thích hợp để ương tôm.

Trại cần có vị trí thuận lợi về giao thông đường thủy, đường bộ hay cả hai, để tiện việc vận chuyển vật liệu, con giống, thức ăn hay kinh doanh.

Trại sản xuất giống cua biển cần nguồn điện liên tục. Vì thế, cần lựa chọn vị trí phải có nguồn điện lưới quốc gia.

Nuôi vỗ cua mẹ Bể nuôi vỗ cua mẹ có thể bằng xi măng, composite hay bể nhựa. Thể tích bể có thể là 100 L để nuôi đơn từng cua hay lên đến 5 - 10 m3 để nuôi nhiều cua. Các bể có thể riêng biệt hay lắp đặt theo hệ thống tuần hoàn. Bể nuôi vỗ cua mẹ cần phải có đáy cát khoảng 10 cm để cua có thể đẻ và ôm trứng được, trứng dính tốt vào yếm mà không bị rơi ra ngoài khi đẻ trứng. Cua mẹ chọn nuôi vỗ sinh sản có thể là cua đánh bắt ngoài biển tự nhiên hay cua nuôi ở các ao đầm có độ mặn cao. Cua cái tốt nhất nên có khối lượng 300 - 500 g. Chọn cua gạch đầy, yếm tròn, mai bóng và sạch sẽ để nuôi vỗ sinh sản sẽ có kết quả tốt. Không

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

và giao vỹ với cua đực ngoài tự nhiên. Cua cái trước khi thả nuôi, cần được cắt bỏ một cuống mắt để cua thành thục sớm. Mật độ nuôi vỗ có thể 3 - 5 con/m2, tốt nhất thả nuôi đơn lẻ mỗi con trong bể 50 - 100 L.

Bể nuôi vỗ nên che kín bằng bạt đen trong suốt thời gian nuôi để cua thành thục sớm. Tuy nhiên, một số nơi cũng có thể nuôi ở bể ngoài trời có che mát hay áp dụng chu kỳ chiều sáng 14 giờ sáng/10 giờ tối.

Thức ăn dùng nuôi vỗ cua mẹ hiện nay chủ yếu là sò huyết, mực, nghêu. Thức ăn hai mảnh vỏ tươi sống thường được sử dụng hơn do chất lượng dinh dưỡng cao và hạn chế sự nhiễm bẩn môi trường do thức ăn thừa. Nhiều nghiên cứu cho thấy, cho cua ăn nhiều loại thức ăn luân phiên sẽ giúp trứng có màu sắc vàng sậm hơn so với chỉ cho ăn chỉ đơn thuần là mực.

Trong thời gian nuôi vỗ, có thể định kỳ thay nước 30 - 75% mỗi ngày, hay cho nước chảy tuần hoàn hệ qua thống lọc sinh học với tỷ lệ thay nước đến 200% mỗi ngày. Nước nuôi vỗ cua nên có độ mặn 28 - 32‰.

Cua mẹ sau khi sinh sản thì ôm trứng. Bể nuôi cua mang trứng có kích thước nhỏ (100200 L), không cần đáy cát. Cho cua mang trứng ăn ít trong suốt thời gian mang trứng để tránh làm bẩn nước bể nuôi. Trong trường hợp chọn cua đã mang trứng ngoài tự nhiên để nuôi cho nở thì chọn cua có khối trứng màu cam hoặc xám, chắc và không bị nhiễm bẩn bởi các sinh vật. Cua mang trứng trong quá trình ấp có thể nhiễm nhiều động vật nguyên sinh hoặc các sinh vật khác dẫn đến tỷ lệ nở thấp. Tốt nhất nên xử lý cua mẹ bằng Formaline 100 - 200 mL/m3 trong 30 giây trước khi cho cua nở. Tùy thuộc vào đều kiện môi trường nước, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn mà thời gian ấp trứng khác nhau, trung bình 9 - 10 ngày ở nhiệt độ 29 - 30 0 C, độ mặn 27 - 30‰ (Tran Ngoc Hai, 1997), hay 7 - 10 ngày với nhiệt

độ 23 - 250 C và 34 - 35‰ (Marichamy et al., 1991), hay 16 - 17 ngày với nhiệt độ 23 - 25 0 C (Cowan, 1984).

Trứng thường nở vào buổi sáng. Thời gian từ lúc trứng bắt đầu nở đến khi nở xong cũng tùy thuộc lớn vào nhiệt độ ấp trứng, có thể 12 - 60 giờ nhưng đa số thời gian trứng nở tập trung chỉ khoảng 30 phút.

Ương ấu trùng cua biển

Bể ương ấu trùng cua biển có thể là bể xi măng hay bể composite, dạng tròn hay vuông và thể tích khác nhau tùy quy mô thực nghiệm hay sản xuất đại trà. Các trại cua giống ở ĐBSCL có thể tích bể 1 - 6 m3, mỗi trại có trung bình 20 - 60 m3 bể ương. Có thể ương

ấu trùng cua theo mô hình nước trong hở, tuần hoàn, hay nước xanh. Bể ương cua phải thiết kế phù hợp cho từng giai đoạn của ấu trùng, thường bể ương zoea có thể tích nhỏ từ 0,5 - 1 m3 /bể, bể hình tròn, có đáy chóp; trong khi bể ương megalopa và cua con có dạng hình chữ nhật hay vuông, đáy bằng, thể tích lớn từ 2 - 10 m3 /bể.

Tùy từng phương pháp ương 1 giai đoạn hay 2 giai đoạn mà có thể bố trí ương với các mật độ khác nhau. Nếu ương 1 giai đoạn từ zoea 1 đến cua con thì mật độ ấu trùng thích hợp nhất là 100 - 150 con/L; nếu ương 2 giai đoạn thì giai đoạn zoea 1 đến zoea 4 có thể ương với mật độ trung bình 300 - 400 con/L; và zoea 4 đến cua con với mật độ 50 - 75 con/L. Chọn ấu trùng zoea 1 khỏe, hướng quang mạnh, hoạt động liên tục, trong sáng để bố trí ương. Trong thực tế sản xuất hiện nay tại ĐBSCL, để đơn giản, các trại sử dụng thức ăn chủ yếu cho ương ấu trùng là Artemia cho tất cả các giai đoạn zoea. Giai đoạn zoae 1 và zoae 2 cho ăn Artemia bung dù mà không dùng luân trùng (1 - 3 Artemia/mL/lần, 6 giờ/lần), và giai đoạn zoae 3 trở đi cho ăn bằng ấu trùng Artemia mới

nở hay giàu hóa (1 - 3 Artemia/mL/lần, 6 giờ/ lần) xen kẽ với thức ăn nhân tạo (1 - 3 g/mL, 6 giờ/lần). Thức ăn nhân tạo dùng trong ương ấu trùng cua hiện nay chủ yếu là sử dụng thức ăn nhân tạo dùng ương ấu trùng tôm biển. Trong quá trình ương, cần quản lý tốt các yếu tố môi trường để đảm bảo ấu trùng phát triển nhanh, lột đồng loạt và tỷ lệ sống tốt. Khoảng độ mặn và nhiệt độ thích hợp nhất là 25 - 30‰ và 26 - 30 0 C. Tuy nhiên, đến giai đoạn ấu trùng megalopa thì có thể giảm độ mặn xuống 24‰ để giúp ấu trùng chuyển giai đoạn sớm hơn. Ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bắt mồi, lột xác và phát triển của ấu trùng. Chu kỳ chiếu sáng tốt nhất là 12 - 24 giờ/ngày và cường độ chiếu sáng 4.500 - 50.000 lux (dưới mái che trong suốt) (Hải, 1997). Trong ương nuôi ấu trùng cua, chế độ thay nước cũng rất khác nhau giữa các trại, có thể rất ít thay nước, thay nước mỗi ngày khoảng

25 - 50%, hay tuần hoàn liên tục thông qua bể lọc sinh học. Trong quá trình ương, cần sục khi liên tục và vừa phải cho bể ương. Khi ấu trùng chuyển sang giai đoạn megalopa thì đặt nhiều giá thể như chùm dây nilon, chùm lưới,… để ấu trùng bám, giảm ăn nhau.

Ương cua con Cua con có thể được ương ở bể xi măng hay bể đất lót bạt. Diện tích bể ương 5 - 20 m2 . Bể ương nên đặt nhiều giá thể để cua bám, hạn chế ăn nhau; tốt nhất nên có lóp đáy bùn để cua trú ẩn. Mực nước trong bể 20 - 50 cm và thay nước 100% mỗi ngày. Độ mặn môi trường ương tốt nhất là 18 - 24‰. Cua thả với mật độ 200 - 500 con/m2 và ương trong 2 tuần đạt cỡ 1 cm. Thức ăn dùng cho cua con là cá tạp, ruốc hay bổ sung thức ăn nhân tạo.

Lê Loan

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.