HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GS.TS. Nguyễn Duy Hoan; PGS.TS. Phạm Kim Đăng; PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn; PGS.TS. Ngô Thị Kim Cúc; PGS.TS. Lê Văn Năm; TS. Lê Minh Lịnh; TS. Bạch Quốc Thắng; TS. Hoàng Tuấn Thành
CỘNG TÁC NỘI DUNG
Thu Hồng; Kim Tiến; Thùy Khánh; Anh Thư Nguyễn Hùng; Phan Thanh Cường; Nguyên Anh; Lê Hoàng Vũ; Minh Thanh; Dương Nghĩa; Lê Cung; Sao Mai; Quỳnh Nga; Vũ Mưa...
MỸ THUẬT: Nguyễn Nam Sơn KỸ THUẬT VI TÍNH: Sao Mai
TÒA SOẠN
P906, tầng 9, Tòa nhà CT4, The Pride, KĐT An Hưng, phường La Khê, TP Hà Nội.
Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định Điện thoại: 028.62777616
GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: SỐ 74/GP-BVHTTDL ngày 14/07/2025
Khuôn khổ: 23 x 30cm
Nơi in: Công ty TNHH MTV In Quân đội I và Công ty Cổ phần In Sao Việt
LIÊN HỆ QUẢNG CÁO:
Ngọc Ánh: 0963.555.554 - Bảo Ngọc: 098.999.1977
Vũ Na: 0978.233.492
Email: quangcaoncn@gmail.com
Liên hệ đặt báo: Ms: Ngọc Ánh; DĐ: 0963.555.554
Email: phathanhtggc@gmail.com
SỐ TÀI KHOẢN: 261.10.00.3454936
Tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam (BIDV), Chi nhánh Tràng An Swift code: BIDV VNVX. CITAD: 01202001
Địa chỉ ngân hàng: Số 11 Cửa Bắc, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, TP. Hà Nội
Thưa quý vị bạn đọc!
Trứng gia cầm từ lâu đã được công nhận là một trong những “siêu thực phẩm” toàn diện nhất cho sức khỏe con người, chứa đựng nguồn dinh dưỡng phong phú và giá trị sinh học cao. Đặc biệt, với các loại trứng được bổ sung omega-3, Vitamin E hoặc các vi chất khác thông qua chế độ ăn đặc biệt của gia cầm. Trứng cũng là sản phẩm chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng cao thứ hai toàn cầu, sau gia cầm. Sản lượng ngành trứng toàn cầu dự kiến tăng 21% trong giai đoạn 2019 - 2025, cho tới năm 2035.
Theo Hiệp hội Gia cầm Việt Nam (VPA), trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng sản lượng trứng đạt 7 - 8%/năm, cao nhất trong các sản phẩm chăn nuôi. Năm 2024, cả nước sản xuất hơn 20 tỷ quả trứng, khẳng định vị thế của ngành gia cầm trong đảm bảo an ninh thực phẩm.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, mức tiêu thụ trứng trực tiếp hiện vẫn còn khiêm tốn (185 - 190 quả/người/năm) so với mức trung bình toàn cầu (300 - 350 quả/người/năm), mở ra một dư địa phát triển đầy hứa hẹn và tiềm năng “vàng” cho ngành gia cầm, đặc biệt là các doanh nghiệp đã đầu tư một cách bài bản và chuyên nghiệp.
Tại Diễn đàn Ngày Trứng Thế giới với chủ đề “Trứng cho cuộc sống khỏe mạnh” do VPA tổ chức vừa qua, các nhà khoa học, đại diện một số doanh nghiệp sản xuất trứng lớn ở Việt Nam cùng chia sẻ những thông tin về dự báo triển vọng sản xuất, thị trường trứng trong những năm sắp tới; vai trò dinh dưỡng tuyệt vời của trứng và quy trình sản xuất trứng an toàn, chất lượng cao.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh hội nhập, sản phẩm trứng Việt Nam cần nhanh chóng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm, phúc lợi động vật và phát triển bền vững. Đồng thời, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, củng cố các thị trường truyền thống, khơi thông điểm đến tiềm năng được coi là giải pháp hữu hiệu để duy trì đà tăng trưởng của ngành trứng Việt Nam. Đây cũng chính là những chia sẻ của Chủ tịch VPA Nguyễn Thanh Sơn qua bài viết với tiêu đề “Nâng tầm trứng Việt: Bứt phá thị trường tiềm năng” trên ấn phẩm Tạp chí Thế giới Gia cầm kỳ tháng 11 này, mời quý độc giả đón đọc.
Dự báo 3 tháng cuối năm 2025 và quý I/2026, sản xuất và thương mại gia cầm vẫn duy trì đà tăng trưởng tương tự quý III/2025. Vì vậy, nguồn cung thịt, trứng gia cầm sẽ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, kể cả tổng cầu dịp Tết tăng. Trong đó, giá gà trắng và gà màu vẫn ở mức tương đối cao xấp xỉ quý III, đặc biệt khi thị trường bước vào mùa tiêu thụ lớn nhất vào Tết Nguyên đán. Điều này sẽ mang lại lợi nhuận tốt cho người chăn nuôi.
Với ngành gia cầm thế giới, FAO cũng chia sẻ quan điểm, ngành gia cầm vẫn sẽ tăng trưởng trong năm nay, nhưng đối mặt với nhiều trở ngại. Những nước hưởng lợi chính được dự báo gồm Brazil, Trung Quốc, EU và Mỹ, bên cạnh đó là Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Pakistan, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ với mức tăng sản lượng đáng kể. Theo FAO, tổng thương mại thịt gia cầm toàn cầu năm 2025 có thể đạt 16,9 triệu tấn, tăng 1,9% so với năm 2024. Mức tăng này chủ yếu nhờ các thị trường nhập khẩu lớn, song phần nào bị kìm lại bởi nhu cầu yếu từ Trung Quốc.
Trân trọng!
LỤC
Nhật Bản chuộng gia cầm Việt Nam
Sau 3 năm kể từ khi xuất khẩu lô gà chế biến đầu tiên sang
Nhật Bản, ông Pawalit Ua-Amornwanit, Tổng Giám đốc C.P
Việt Nam cho biết, đến nay đơn vị đã xuất khẩu thành công
10.000 tấn thịt gà chế biến sang thị trường này.
Ông Pawalit Ua-Amornwanit tin rằng điều này cho thấy
Việt Nam ngày càng đủ năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu thực phẩm nghiêm ngặt, đặc biệt tại thị trường cao cấp như Nhật Bản. Cùng đó, gần đây Chính phủ Việt Nam và Nhật
Bản đã tích cực hỗ trợ, thúc đẩy quá trình thiết lập mối quan hệ
giữa hai nước trong lĩnh vực xuất khẩu gia cầm. Điều này giúp Việt Nam có thể chính thức đưa sản phẩm gà sang Nhật Bản, mở ra cơ hội cho cả ngành chăn nuôi Việt Nam.
Được biết, tháng 9/2025, Việt Nam và Nhật Bản đã khởi
động Giai đoạn 3 của Tầm nhìn Trung và Dài hạn về hợp tác nông nghiệp (2025 - 2030), sau nhiều năm hợp tác ổn định trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, với giá trị thương mại tăng
từ 3,02 tỷ USD năm 2015 lên khoảng 4,9 tỷ USD vào năm 2024. VÂN ANH
Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường
Cột mốc 10.000 tấn thịt gà là bước tiến lớn của doanh nghiệp nói riêng và ngành chăn nuôi tỉnh nói chung khi chinh phục thành công thị trường Nhật Bản
ương Đảng khóa XIII. Ông Trần Đức Thắng từng làm Phó Cục
Ngày 12/11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập (1945 - 2025) và Đại hội thi đua yêu nước lần thứ I, với sự tham dự của Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng hơn 1.200 đại biểu. Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định, 80 năm qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã góp phần đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu, đạt kim ngạch hơn 62,5 tỷ USD năm 2024. Trong giai đoạn mới, ngành đặt mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh, tuần hoàn; thúc đẩy chuyển đổi số, bảo vệ tài nguyên và thích ứng biến đổi khí hậu. Nhân dịp này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất, tuyên dương các tập thể, cá nhân điển hình và phát động phong trào thi đua giai đoạn 2025 - 2030 với phương châm “Truyền thống - Đổi mới - Phát triển - Bền vững”.
BÌNH AN
Bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường
Sáng 25/10, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm một số Bộ trưởng nhiệm kỳ 2021 - 2026, trong đó ông Trần Đức Thắng giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ông Trần Đức Thắng, sinh năm 1973, quê tỉnh Vĩnh Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ); là Ủy viên Trung
trưởng rồi Cục trưởng Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính. Từ năm 2018 - 2025, ông Thắng công tác tại Ủy ban Kiểm tra Trung ương, đảm nhiệm các cương vị Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung
ương rồi làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban; Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương nhiệm kỳ 2020 - 2025; Phó Tổng Thanh tra Thường trực Thanh tra Chính phủ từ ngày 1/7/2025. Ngày 17/7, ông được điều động về công tác tại Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giao quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường và nay được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Bộ trưởng.
HẢI LÝ
Quý III/2025, Việt Nam nhập khẩu 282,34 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt
Theo thống kê sơ bộ từ số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, quý III/2025, Việt Nam nhập khẩu 282,34 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 547,49 triệu USD, tăng 19,2% về lượng và tăng 18,2% về trị giá so với quý II/2025, tăng 27,7% về lượng và tăng 15,7% về trị giá so với quý III/2024. Trong quý III/2025, Ấn Độ, Nga, Brazil, Mỹ, Ba Lan, Đức, Hồng Kông là những thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam. Trong đó, nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt từ các thị trường Nga, Brazil, Đức, Hồng Kông tăng trưởng mạnh so với quý II/2025 và so với quý III/2024. Trong thời gian này, Ấn Độ là thị trường lớn nhất cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt cho Việt Nam (tính theo trị giá), đạt 50,1 nghìn tấn, trị giá 182,76 triệu USD, tăng 24,6% về lượng và tăng 28,2% về trị giá so với quý II/2025; So với quý III/2024 giảm 1% về lượng, nhưng tăng 4% về trị giá.
Chủ
quyết liệt phòng chống dịch cúm gia cầm
Theo FAO, từ đầu năm 2025 đến ngày 23/10/2025, thế giới ghi nhận 954 ổ dịch cúm gia cầm (CGC) tại 38 quốc gia, trong đó có 286 ổ dịch do virus A/H5N1. Tại Việt Nam, tính đến cuối tháng 10/2025, 13 tỉnh, thành phố đã xuất hiện 35 ổ dịch cúm A/H5N1 với hơn 63.000 con gia cầm mắc bệnh và 74.000 con bị tiêu hủy. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đánh giá, nguy cơ bùng phát dịch CGC trên diện rộng và lây nhiễm sang người là rất cao nếu không được kiểm soát kịp thời.
Theo đó, đề nghị các địa phương tập trung thực hiện 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trong đó nhấn mạnh: Tăng cường giám sát, phát hiện sớm và xử lý triệt để ổ dịch, không để tái phát, lây lan; rà soát, tiêm phòng vaccine cúm gia cầm đạt trên 80% tổng đàn; hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng nghiêm an toàn sinh học, tổng vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng trại định kỳ; giám sát chặt chẽ việc buôn bán, vận chuyển gia cầm, xử lý nghiêm các trường hợp nhập lậu, không rõ nguồn gốc; tuyên truyền sâu rộng đến người dân về nguy cơ dịch bệnh, không sử dụng gia cầm chưa qua kiểm dịch, không ăn tiết canh, chỉ dùng thịt gia cầm nấu chín; ngành y tế chủ động giám sát, phát hiện sớm và cách ly các trường hợp nghi mắc bệnh cúm A/H5N1 có tiền sử tiếp xúc với gia cầm.
THIÊN BÌNH
Bộ Nông nghiệp và Môi trường làm việc với các tập đoàn Hà Lan
Viện Chăn nuôi tăng cường hợp tác với Đại học
Konkuk (Hàn Quốc)
Chiều 15/10, tại Hà Nội, Viện Chăn nuôi đã có buổi làm việc và trao đổi chuyên môn với Đại học Konkuk (Hàn Quốc). Tại buổi làm việc, hai bên tập trung thảo luận về tiềm năng lai tạo và phát triển giống bò H’Mông của Việt Nam kết hợp với giống bò Hanwoo của Hàn Quốc, đồng thời xem xét khả năng ứng dụng công nghệ cao trong chọn lọc, di truyền, dinh dưỡng và đánh giá chất lượng thịt nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi theo hướng hiện đại và bền vững. Ngoài ra, phía Đại học Konkuk cũng bày tỏ sự quan tâm tới việc đào tạo, chuyển giao công nghệ và xây dựng các chương trình nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ ngành chăn nuôi Việt Nam. Được biết, Đại học Konkuk là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu của Hàn Quốc trong các lĩnh vực khoa học động vật, dinh dưỡng chăn nuôi, sinh thái - môi trường chăn nuôi, di truyền giống gia súc - gia cầm và vi sinh vật môi trường.
Cục Chăn nuôi và Thú y hỗ trợ Thái Nguyên khôi phục chăn nuôi
Ngày 6/11, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng đã chủ trì buổi làm việc với đoàn lãnh đạo cấp cao của các tập đoàn hàng đầu thế giới De Heus, Heineken Việt Nam và Hùng Nhơn. Bộ trưởng Trần Đức Thắng chia sẻ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ghi nhận và đánh giá cao các sáng kiến, đề xuất, cũng như cam kết đầu tư nghiêm túc của các tập đoàn tại Việt Nam; đồng thời khẳng định, sẽ luôn đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ chế, chính sách và thủ tục để các dự án được triển khai hiệu quả. Trong khuôn khổ buổi làm việc, các bên đã trao đổi về kế hoạch đầu tư và phát triển giai đoạn 2025 - 2030, tập trung vào mô hình chuỗi giá trị nông nghiệp, công nghiệp chế biến và xuất khẩu bền vững, chú trọng ứng dụng công nghệ cao và xây dựng vùng nguyên liệu an toàn dịch bệnh. Liên doanh De Heus - Hùng Nhơn trình bày kế hoạch phát triển các khu chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao DHN tại Bắc bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, hướng đến hình thành chuỗi liên kết nông nghiệp khép kín từ sản xuất giống, chăn nuôi, chế biến đến xuất khẩu.
Ngày 13/10, Cục Chăn nuôi và Thú y đã đến làm việc tại tỉnh Thái Nguyên, cùng các nhà tài trợ tặng con giống, thức ăn chăn nuôi và nhu yếu phẩm. Tại buổi làm việc, ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng yêu cầu ngành nông nghiệp tỉnh đặc biệt cần chú ý bảo vệ đàn vật nuôi hiện có để đảm bảo nguồn cung ra thị trường không bị đứt gãy; ngành chuyên môn tỉnh tổng hợp nhu cầu thiết yếu như vaccine, thuốc sát trùng, con giống để Cục phối hợp với các tập đoàn, doanh nghiệp hỗ trợ sớm nhất có thể. Dịp này, Cục Chăn nuôi và Thú y phối hợp với Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam hỗ trợ tỉnh Thái Nguyên 15.000 con gà giống, 7,5 tấn thức ăn chăn nuôi và 300 lít thuốc sát trùng. Công ty CP Nông nghiệp BAF Việt Nam và Gạo sạch A.AN tặng 20 tấn gạo, 400 thùng xúc xích để giúp người dân khắc phục hậu quả thiên tai. THÙY DƯƠNG
Tôn vinh 90 thương hiệu Vàng nông nghiệp Việt Nam năm 2025
Ngày 17/10, tại Hà Nội, Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã tổ chức Lễ tôn vinh “Thương hiệu Vàng Nông nghiệp Việt Nam” năm 2025 lần thứ 11. Chương trình được khởi động từ tháng 4/2025, sau gần 6 tháng triển khai đã bình chọn 90 thương hiệu nông nghiệp uy tín. Các thương hiệu được vinh danh đại diện cho nhiều lĩnh vực quan trọng của ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, chế biến, công nghệ nông nghiệp và sản phẩm OCOP. Nổi bật trong số đó là những thương hiệu, sản phẩm đã khẳng định được uy tín và chất lượng trên thị trường chăn nuôi như: TH true HERBAL (Công ty CP Chuỗi Thực phẩm TH), bộ sản phẩm thức ăn chăn nuôi G.TEK (Công ty CP Greenfeed Việt Nam), thức ăn nuôi tôm tuần hoàn GREEN-TOM (Công ty TNHH De Heus)... HÀ MY
KỶ NIỆM NGÀY TRỨNG THẾ GIỚI
Trứng cho sức khỏe cộng đồng
Tiếp nối chuỗi các hoạt động kỷ niệm 29 năm Ngày Trứng
thế giới (World Egg Day), sáng 9/10/2025, Hiệp hội Gia cầm
Việt Nam phối hợp với một số doanh nghiệp tổ chức Diễn đàn với chủ đề “Trứng vì sức khỏe cộng đồng”.
Diễn đàn tập trung bàn luận về lợi ích dinh dưỡng của trứng
đối với sức khỏe và các giải pháp phát triển ngành trứng bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ trứng ở nước ta;
cùng những thông tin về dự báo triển vọng sản xuất, thị trường trứng trong những năm sắp tới; vai trò dinh dưỡng tuyệt vời của trứng và quy trình sản xuất trứng an toàn, chất lượng cao. Với những giá trị vượt thời gian, “quả trứng kỳ diệu” một lần nữa được tôn vinh không chỉ trên bàn ăn của hàng triệu gia đình, mà còn trong chiến lược dinh dưỡng, an sinh xã hội và kinh tế toàn cầu. Tại Việt Nam, Ngày Trứng thế giới 2025 cũng
chính là dịp để khẳng định tiềm năng, vị thế của ngành trứng,
BẮC NINH
Khẩn trương khôi phục chăn nuôi gia cầm sau bão, lũ
Trận lũ lịch sử sau bão số 11 đã gây thiệt hại nặng nề cho vùng chăn nuôi gia cầm trọng điểm xã Yên Thế (Bắc Ninh), làm hơn 131.000 con gia cầm chết, khoảng 10.000 m² chuồng trại bị hư hỏng, nhiều hộ mất trắng hàng tỷ đồng. Chính quyền địa phương đã huy động lực lượng hỗ trợ người dân thu gom, tiêu hủy gia cầm chết, vệ sinh chuồng trại, phun khử trùng, ngăn ngừa dịch bệnh và thống kê thiệt hại để đề xuất hỗ trợ tái đàn. Cùng với việc giám sát thú y, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, xã Yên Thế đang rà soát, điều chỉnh quy hoạch vùng chăn nuôi, khuyến khích xây dựng chuồng trại cao tầng, nhằm giảm thiểu rủi ro, sớm ổn định sản xuất và đời sống người dân.
MINH VÂN
đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về một thực phẩm giàu dưỡng chất, an toàn, gắn liền với sức khỏe và hạnh phúc của con người.
HẢI PHÒNG
Hiệu quả mô hình nuôi gà đẻ trứng bằng thảo dược
Tại xã Chấn Hưng (TP Hải Phòng), mô hình “Chăn nuôi gà đẻ trứng bằng thảo dược, dược liệu gắn với liên kết doanh nghiệp, HTX theo chuỗi giá trị” do HTX Chiêu Viên triển khai mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Với 10.000 con gà đẻ nuôi bằng thức ăn bổ sung thảo dược, tỷ lệ đẻ đạt 90%, giảm 31% chi phí kháng sinh, hiệu quả kinh tế tăng hơn 22%. Trứng gà thơm ngon, giá bán cao gấp đôi so với trứng thường, giúp hộ nuôi lãi hơn 900 triệu đồng/năm. Mô hình được đánh giá góp phần xây dựng thương hiệu nông sản sạch, giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao sức khỏe cộng đồng, là hướng đi bền vững cho chăn nuôi nông hộ tại địa phương.
HÀ PHƯƠNG
HƯNG YÊN
PHÚ THỌ
Phát triển thương hiệu “Gà Lạc Sơn”
Giống gà ri bản địa “Gà Lạc Sơn” - sản phẩm đặc trưng của vùng Nam Phú Thọ đang được địa phương tập trung bảo tồn và phát triển theo hướng hàng hóa. Với đặc điểm nuôi thả tự nhiên trên đồi, sử dụng thức ăn dân dã và thảo dược phòng bệnh, gà Lạc Sơn có thịt săn chắc, thơm ngon, được người tiêu dùng ưa chuộng. Từ khi
được cấp nhãn hiệu tập thể năm 2019, các HTX trong vùng đã mở rộng quy mô sản xuất, liên kết tiêu thụ qua chuỗi cửa hàng nông sản sạch, siêu thị và sàn thương mại điện tử. Việc phát triển thương hiệu
“Gà Lạc Sơn” không chỉ nâng cao giá trị kinh tế mà còn góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững cho người dân miền núi Phú Thọ.
MINH KHUÊ
Nuôi gà lai Đông Tảo an toàn sinh học
Hội Chữ thập đỏ tỉnh Hưng Yên phối hợp với Sở Khoa học và
Công nghệ triển khai mô hình nuôi gà lai Đông Tảo an toàn sinh học, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sau gần 5 tháng thực
hiện tại 4 hộ dân với 3.000 con, tỷ lệ nuôi sống đạt 93,3%, gà trống đạt 2,5 - 2,7 kg, mỗi hộ thu lãi gần 400 triệu đồng/năm. Mô hình giúp khắc phục nhược điểm giống thuần, giảm ô nhiễm nhờ sử dụng đệm lót sinh học, tạo phân hữu cơ cho cây trồng. Việc áp dụng quy trình kỹ thuật, tiêm phòng và xử lý môi trường nghiêm ngặt góp phần nâng cao chất lượng, hướng tới nhân rộng mô hình, xây dựng vùng chăn nuôi hàng hóa đặc trưng, phát triển nông nghiệp bền vững của Hưng Yên.
THÙY KHÁNH
KHÁNH HÒA
Khống chế ổ dịch cúm gia cầm
H5N1 tại hai địa phương
Cuối tháng 9/2025, tại xã Bắc Ninh Hòa và xã Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa) xuất hiện các ổ dịch cúm gia cầm H5N1 trên đàn gà của bốn hộ chăn nuôi, với hàng trăm con mắc bệnh và chết. Ngay sau khi phát hiện, chính quyền và cơ quan thú y đã tiêu hủy toàn bộ gia cầm bệnh, phun tiêu độc, khoanh vùng ổ dịch, ký cam kết không bán chạy, giết mổ gia cầm nghi nhiễm. Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh yêu cầu các địa phương khẩn trương tiêm phòng đạt trên 80% tổng đàn, giám sát chặt dịch bệnh, không để lây lan diện rộng.KHÁNH NGUYỄN
ĐỒNG THÁP
Đẩy mạnh chăn nuôi gà theo hướng liên kết chuỗi
Đồng Tháp hiện có đàn gia cầm khoảng 25 triệu con, trong đó chăn nuôi gà phát triển mạnh theo hướng an toàn sinh học, ứng dụng công nghệ và sản xuất theo chuỗi liên kết; Người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã chuyển dần từ hình thức nhỏ lẻ sang quy mô trang trại, chú trọng kiểm soát dịch bệnh, sử dụng chế phẩm sinh học thay thế kháng sinh. Tỉnh khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ chăn nuôi xây dựng chuỗi liên kết khép kín từ con giống, thức ăn, vaccine đến tiêu thụ sản phẩm; nhiều mô hình đạt chứng nhận VietGAP, OCOP, đảm bảo an toàn thực phẩm.
VĨNH LONG
Liên kết sản xuất, tiêu thụ trứng vịt sạch
Trong giai đoạn đầu, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã triển khai 37 mô hình với 18.500 con vịt giống, hỗ trợ 50% con giống và 55 tấn thức ăn. Hiệu quả mô hình giúp hơn 120 hộ tăng thu nhập bình quân 16 triệu đồng/năm, tổng lợi nhuận hơn 1,1 tỷ đồng. Năm 2025, tỉnh dự kiến mở rộng 56 mô hình tại 6 huyện với kinh phí gần 1,5 tỷ đồng. Trứng vịt sạch từ mô hình được doanh nghiệp bao tiêu cao hơn thị trường, giúp nông dân yên tâm sản xuất theo hướng an toàn sinh học, bền vững.
NAM LINH
Kỷ
GÓC NHÌN
nguyên thông minh
☐ JAN HENRIKSEN
Giám đốc điều hành Aviagen
Từ cảm biến thông minh đến trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ đang định hình lại toàn bộ ngành chăn nuôi gia cầm, giúp các trang trại vận hành hiệu quả hơn, bền vững hơn và quan tâm sâu hơn đến phúc lợi vật nuôi.
AI vẫn còn khá mới trong ngành gia cầm, nhưng đang phát triển nhanh chóng. Đó là những thuật toán có khả năng phân tích dữ liệu, học hỏi từ thực tế và đưa ra dự đoán hoặc quyết định. AI có thể “đọc hiểu” dữ liệu từ camera, cảm biến, micro để cung cấp thông tin hành động: từ việc phát hiện dấu hiệu stress, tối ưu khẩu phần ăn, cho đến tự động đếm gà hay giám sát hoạt động của máng ăn. Nhờ đó, người nuôi có thể cải thiện năng suất thông qua công nghệ mục tiêu hóa cao. Các hệ thống giám sát thông minh tích hợp cảm biến và camera giúp theo dõi điều kiện chuồng trại, độ ẩm, nhiệt độ, nồng độ CO₂ và amoniac, cùng hành vi, trọng lượng, chuyển động và âm thanh của đàn. Từ đó, người nuôi có thể điều chỉnh để tạo môi trường khỏe mạnh, thoải mái hơn cho vật nuôi. Với phúc lợi động vật, có một nguyên tắc đơn giản nhưng quan trọng: nếu đàn gà cảm thấy tốt hơn, người chăn nuôi cũng sẽ thấy rõ hiệu quả. Phúc lợi tốt chính là nền tảng của kinh doanh bền vững.
Tại Đại học Dalhousie (Canada), các nhà nghiên cứu đã tiến xa hơn một bước. Ứng dụng Cluckify của họ sử dụng AI kết hợp xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) để phân tích tiếng kêu của gà và liên hệ với trạng thái hành vi. Theo tạp chí Canadian Poultry Magazine, thông qua bảng điều khiển, người nuôi có thể “nghe hiểu” những gì đàn gà đang “nói”, từ tín hiệu căng thẳng cho đến tiếng kêu giao phối. Giám sát âm thanh đang ngày càng phổ biến, giúp phát hiện sớm những âm thanh bất thường báo hiệu đàn gà đang khó chịu, từ đó người nuôi có thể can thiệp kịp thời. Các trại ấp cũng đang bước vào cuộc cách mạng số. Bảng điều khiển AI giúp theo dõi thời gian thực, trong khi các công cụ hình ảnh và MRI phát hiện trứng nứt, trứng bị đảo ngược hoặc trứng không thụ tinh trước khi đưa vào máy ấp. Nhờ đó, tỷ lệ nở được cải thiện, giảm đáng kể hao phí. Tự động hóa còn hỗ trợ quá trình soi trứng, chuyển trứng, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm, giúp công việc chính xác hơn, nhẹ nhàng hơn và giảm phụ thuộc vào lao động tay chân. Tự động hóa giúp máy móc hoặc phần mềm đảm nhiệm các công việc thay con người, tăng hiệu suất, đảm bảo an toàn sinh học và tính nhất quán, đồng thời giảm gánh nặng lao động.
Trong chuồng gà, robot tự hành ngày càng phổ biến. Chúng hỗ trợ thu trứng, kích thích gà vận động để cải thiện chất lượng nền chuồng, thậm chí có thể phân loại, đánh dấu và lưu trữ trứng. Làm việc liên tục, những “nhân viên robot” này không chỉ giảm tải cho người nuôi mà còn đảm bảo quản lý đàn ổn định, chính xác. Giữa bối cảnh thiếu hụt lao động kéo dài, tự động hóa càng trở nên quý giá, nâng cao chất lượng, năng suất và an toàn nơi làm việc. Những đổi mới ấy không thay thế con người, mà trao thêm sức mạnh cho họ. Cùng nhau, chúng ta đang kiến tạo một ngành gia cầm hiệu quả, bền vững và đặt phúc lợi vật nuôi ở vị trí trung tâm. ☐
Cấp bách gỡ khó về thuế VAT cho ngành hàng chủ lực
Mới đây, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã có văn bản gửi Chính phủ, kiến nghị nhiều nội dung
hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với doanh nghiệp và những vướng mắc cần nhanh
Gánh nặng chi phí
Sau hơn ba tháng Luật Thuế GTGT 2024 có hiệu lực, hàng loạt doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đang phải oằn mình trước những vướng mắc lớn.
VCCI cho biết, thách thức lớn nhất hiện nay nằm ở chính sách thuế suất 5% đang áp dụng với nông sản sơ chế. Theo quy định tại Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15, các sản phẩm “chưa chế biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường” đều thuộc diện chịu thuế. Điều này khiến nhiều mặt hàng như tôm, cá, cà phê, tiêu, điều, gỗ nguyên liệu… phải gánh khoản thuế, không phản ánh đúng bản chất của thuế GTGTvốn chỉ nên áp trên phần giá trị tăng thêm. Một vấn đề khác là sự thiếu thống nhất trong cách áp thuế đối với nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Mặc dù, Luật Thuế GTGT quy định thức ăn chăn nuôi là đối tượng không chịu thuế, song ở nhiều địa phương, cơ quan thuế vẫn áp mức 5% đối
với các nguyên liệu như ngô, bã bia, cám gạo, bột cá... Điều này khiến chi phí đầu vào tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước so với hàng nhập khẩu.
Chia sẻ tại Hội thảo “Tháo gỡ vướng mắc về chính sách thuế GTGT với ngành nông, lâm, thủy sản” do VCCI phối hợp với 8 hiệp hội ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp tổ chức mới đây; Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cũng chỉ ra nghịch lý: nguyên liệu trong nước chịu thuế 5% trong khi nhập khẩu 0%, khiến giá thành sản phẩm nội địa tăng, giảm sức cạnh tranh.
Ghi nhận thực tế cho thấy, dù không chịu thuế GTGT, nhiều cục thuế địa phương lại áp thuế 5% cho nguyên liệu đầu vào như ngô, cám gạo, bột cá ở khâu thương mại. Cách hiểu này chưa đồng bộ với Luật Chăn nuôi và Thông tư 21/2019/TT-BNNPTNT, làm tăng chi phí sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước, tạo bất lợi cạnh tranh so với hàng nhập khẩu (không chịu thuế GTGT),
đồng thời làm giảm tiêu thụ nguyên liệu nông sản nội địa. Đối với doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi bị tăng chi phí do thuế GTGT 5% đầu vào không được khấu trừ, phải đưa vào chi phí sẽ phải tăng giá bán, theo đó sẽ ảnh hưởng đến người chăn nuôi. Quy định này chưa công bằng và giảm khả năng cạnh tranh với sản phẩm thức ăn chăn nuôi nhập khẩu do thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không chịu thuế GTGT.
Cấp bách gỡ khó
Để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật, đồng thời bảo đảm chính sách thuế phát huy đúng tinh thần hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu nông sản và ổn định chuỗi cung ứng trong nước, VCCI đề xuất Thủ tướng Chính phủ: Thứ nhất, khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định liên quan đến phạm vi chịu thuế GTGT đối với các sản phẩm nông, lâm,
thủy sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường. VCCI đề nghị xem xét khôi phục (hoặc khôi phục có thời hạn) quy định “không phải kê khai, tính thuế” đối với các sản phẩm nông nghiệp sơ chế như đã từng được áp dụng tại Nghị định 209/2013/NĐ-CP. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành danh mục cụ thể các loại “sản phẩm sơ chế thông thường” cho từng ngành hàng, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách hiểu và áp dụng giữa các địa phương.
Thứ hai, có giải pháp đồng bộ nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hoàn thuế GTGT, hướng tới đơn giản hóa quy trình, tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp.
Thứ ba, điều chỉnh quy định liên quan đến điều kiện hoàn thuế theo hướng loại bỏ yêu cầu doanh nghiệp chỉ được hoàn thuế khi nhà cung cấp đã kê khai, nộp thuế.
Thứ tư, VCCI đề nghị cho phép doanh nghiệp sử dụng bảng kê mua hàng không hóa đơn (theo mẫu quy định tại Thông tư 78/2021/TT-BTC) như một loại chứng từ thay thế để làm căn cứ khấu trừ và hoàn thuế. Có hướng dẫn rõ ràng về các trường hợp miễn thuế GTGT đối với hộ nông dân nhỏ lẻ, bảo đảm không tạo ra các rào cản hành chính gây khó khăn cho quá trình thu mua nguyên liệu trong nước. Thứ năm, VCCI kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính nghiên cứu và ban hành quy định cho phép sử dụng chứng từ điện tử, dữ liệu giao dịch số làm căn cứ xác minh trong hoàn thuế xuất khẩu. Đây là giải pháp không chỉ phù hợp với thực tiễn mà còn giúp Việt Nam bắt kịp xu hướng thương mại toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu.
Thứ sáu, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế theo hướng phân loại mức độ vi phạm và áp dụng hình thức xử lý hợp lý, nhân văn, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh mới chuyển đổi. Mức xử phạt hiện nay từ 5 đến 8 triệu đồng cho các sai sót mang tính kỹ thuật, hành chính như chậm kê khai, sai mã hợp đồng là quá cao và tạo áp lực không đáng có.
VÂN ANH
VĂN BẢN MỚI
☐ Ngày 16/10/2025, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền ký ban hành Công văn số 5611/UBND-NNMT yêu cầu chủ động phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi, đặc biệt tại xã, phường bị ngập úng. Theo đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi vệ sinh chuồng trại, xử lý chất thải. Người chăn nuôi cung cấp dinh dưỡng đầy đủ, bổ sung vitamin, khoáng chất cho vật nuôi nhằm nâng cao sức đề kháng. Các địa phương cũng được yêu cầu rà soát, tổ chức tiêm phòng đầy đủ vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm, đặc biệt tại những nơi từng xảy ra dịch bệnh, nơi có nguy cơ cao hoặc bị ngập úng. Đồng thời, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các ổ dịch, ngăn chặn tình trạng buôn bán, giết mổ động vật mắc bệnh, chết do bệnh, nhằm đảm bảo an toàn dịch tễ và vệ sinh môi trường. Các địa phương tập trung phòng chống bệnh nguy hiểm như: Dịch tả heo châu Phi, cúm gia cầm, lở mồm long móng, viêm da nổi cục ở trâu bò, bệnh dại và bệnh tai xanh trên heo. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vaccine, hóa chất và vật tư phòng chống dịch bệnh do thành phố cấp phát cần quản lý chặt chẽ, tránh lãng phí, hư hỏng.
☐ Ngày 21/10/2025, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Công văn số 7107/ UBND-NN10 về việc tăng cường kiểm tra công tác quản lý hoạt động giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm. Theo đó, với nhiệm vụ Quản lý, quy hoạch và phát triển cơ sở giết mổ tập trung, UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức quản lý hoạt động giết mổ, sơ chế, chế biến, vận chuyển và kinh doanh sản phẩm động vật đảm bảo đúng quy định pháp luật. Đồng thời, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Xây dựng và các cơ quan liên quan rà soát quy hoạch, bố trí quỹ đất thu hút đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung, đề xuất chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển chuỗi giết mổ tập trung khép kín đảm bảo các điều kiện về vệ sinh thú y, an toàn dịch bệnh, vệ sinh môi trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc sản phẩm động vật, Sở Công thương, Sở Y tế, Công an tỉnh tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện quyết liệt việc kiểm soát, buôn bán và tiêu thụ sản phẩm động vật tại các chợ, các bếp ăn tập thể. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động giết mổ, kiểm soát giết mổ, vệ sinh thú y, an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
☐ Ngày 21/10/2025, UBND tỉnh Sơn La ban hành Kế hoạch số 211/KHUBND về phòng, chống dịch bệnh động vật trên địa bàn tỉnh năm 2026. Mục đích: Triển khai thực hiện hiệu quả sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về công tác phòng, chống dịch bệnh động vật; Chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật với phương châm phòng bệnh là chính, kết hợp thực hiện đồng bộ biện pháp quản lý, giám sát dịch bệnh đến tận tổ, bản, hộ gia đình; phát hiện sớm, khoanh vùng khống chế, xử lý kịp thời, triệt để các dịch bệnh nguy hiểm phát sinh ở động vật; đảm bảo sản xuất chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản phát triển ổn định, bền vững, bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân. Yêu cầu: Việc tổ chức thực hiện phòng, chống dịch bệnh động vật cần được sự chỉ đạo thống nhất và phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở, huy động được hệ thống chính trị và toàn dân tích cực tham gia thực hiện; Các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật tuân theo các quy định của pháp luật và sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương và của tỉnh; Tổ chức phòng, chống dịch bệnh động vật kịp thời, phù hợp và hiệu quả, tránh gây lãng phí nguồn lực.
CHĂN NUÔI GIA CẦM “ĐÓN TẾT”
Những tháng cuối năm 2025, khi thị trường thực phẩm trong nước bước vào giai đoạn cao điểm chuẩn bị
2026, ngành chăn nuôi gia cầm tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực.
Tiếp tục là điểm sáng
Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi và Thú y, tính đến tháng 8/2025, tổng đàn gia cầm cả nước đạt hơn 587 triệu con, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt hơn 1,56 triệu tấn, trong đó thịt gà chiếm trên 85%. Sản lượng trứng đạt gần 12 tỷ quả, tăng 6,5% so với cùng kỳ, đạt mức cao nhất trong 3 năm qua.
Thời gian qua, thị trường thịt và trứng tiếp tục duy trì ổn định ở mức cao. Cụ thể, giá gà lông màu dao động 59.000 - 63.000 đồng/kg, trứng gà từ 2.500 - 2.800 đồng/ quả, trứng vịt khoảng 2.800 - 3.000 đồng/ quả. Mức giá này giúp người chăn nuôi có lãi, đồng thời khuyến khích mở rộng đàn. Cùng với đó, sản xuất gà thịt lông trắng ghi nhận mức tăng trưởng trên 20% trong quý III/2025.
Bên cạnh việc phục hồi sản xuất trong nước, hoạt động xuất khẩu gia cầm thương phẩm và trứng tiếp tục đạt kết quả tích cực. 9 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 15 triệu con gà giống hướng thịt, 4 triệu con gà trắng thương phẩm, gần 2 triệu con gà màu sang Campuchia, đồng thời xuất sang Singapore và Trung Quốc các sản phẩm thịt,
phụ phẩm chế biến đạt tổng giá trị 150,9 triệu USD, tăng 27% so với năm 2024.
Những tháng cuối năm 2025, ngành chăn nuôi gia cầm tiếp tục là điểm sáng của nông nghiệp Việt Nam, đóng vai trò chủ lực trong việc cung cấp nguồn thực phẩm thiết yếu, đặc biệt là thịt và trứng, phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Chủ tịch Hiệp hội Gia cầm Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn cho biết, 9 tháng đầu năm, ngành gia cầm đạt tốc độ tăng trưởng sản lượng 6 - 6,5%, khẳng định vai trò trụ cột trong chuỗi cung ứng thực phẩm quốc gia. “Nếu quản lý tốt chất lượng giống, kiểm soát dịch bệnh và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, ngành gia cầm Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mốc 1 tỷ USD xuất khẩu trong vài năm tới”, ông Sơn nhấn mạnh.
Chung tay khắc phục khó khăn
Mặc dù đạt nhiều kết quả khả quan, song ngành chăn nuôi gia cầm vẫn đang đối mặt với hàng loạt thách thức, đặc biệt trong giai đoạn cuối năm, khi nhu cầu tăng cao nhưng điều kiện thời tiết và thị trường biến động mạnh.
Về dịch bệnh, các chủng cúm gia cầm A/ H5N1, A/H5N6 vẫn được ghi nhận rải rác ở
Tết Nguyên
nhiều địa phương. Bên cạnh đó, ảnh hưởng dây chuyền từ dịch tả heo châu Phi khiến việc tiêu thụ thịt gia cầm cũng bị tác động do thay đổi khẩu phần thực phẩm. Thêm vào đó, thiên tai và thời tiết cực đoan thời gian qua đã gây thiệt hại đáng kể với ngành chăn nuôi nước ta. Trong đó, hai cơn bão Ragasa và Bualoi đã làm cuốn
ÔNG PHÙNG ĐỨC TIẾN
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường “Các địa phương sớm kiện toàn lực lượng thú y cơ sở, tăng cường liên kết giữa người chăn nuôi và doanh nghiệp sản xuất vaccine. Mục tiêu đặt ra là vừa bảo đảm đủ nguồn thực phẩm an toàn dịp Tết, vừa tạo nền tảng phát triển bền vững cho giai đoạn 2026 - 2030”.
trôi hơn 400.000 con gia cầm. Tổng cộng, 10 tháng đầu năm, thiệt hại toàn ngành chăn nuôi lên tới hơn 1,1 triệu con vật nuôi, trong đó gia cầm chiếm trên 70%. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sản lượng cung ứng cho thị trường, mà còn khiến hàng nghìn hộ chăn nuôi lâm cảnh trắng tay, khó khăn trong việc tái đàn.
Chưa kể, giá thức ăn chăn nuôi vẫn neo ở mức cao do giá ngũ cốc tăng và khan hiếm nguyên liệu nhập khẩu, trong khi đây là yếu tố then chốt trong kiểm soát giá thành sản xuất.
Mặt khác, sức ép từ hàng hóa nhập khẩu vẫn rất lớn. Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, 8 tháng đầu năm, nước ta đã chi hơn 2,9 tỷ USD nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi, tăng 20% so với cùng kỳ. Trong đó, thịt gà đông lạnh hơn 241 triệu USD, chủ yếu từ Mỹ, Brazil, Nga và Hàn Quốc, tạo áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, tình trạng buôn lậu gia cầm qua biên giới diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh và phá vỡ thị trường, đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ hơn từ lực lượng chức năng.
Tháo gỡ vướng mắc, đảm bảo nguồn cung
Thời điểm cuối năm, nhu cầu tiêu thụ thịt và trứng dự báo tiếp tục tăng trưởng, đặc biệt ở các đô thị lớn. Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, với sự chủ động của doanh nghiệp, người nuôi và công tác điều hành của cơ quan quản lý, nguy cơ thiếu hụt thực phẩm được loại trừ. Ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam, cho biết: “Nhu cầu dịp Tết bao giờ cũng tăng khoảng 10 - 15%. Chính vì vậy các cơ sở chăn nuôi kể cả trang trại, nông hộ cũng hoàn toàn chủ động được việc này. Đối với gà màu, người ta đã tái đàn ngay từ bây giờ để phục vụ cho Tết Nguyên đán. Còn đối với gà công nghiệp thời gian nuôi rất ngắn, khoảng độ 35 - 40 ngày nên hoàn toàn có thể tự chủ động được”.
Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi và Thú y, hiện tổng đàn gia cầm trên cả nước đạt gần 590 triệu con. Dự kiến sản lượng thịt cả năm sẽ đạt 2,6 triệu tấn. Riêng tháng cuối năm, dự kiến sẽ cung ứng ra thị trường khoảng 240.000 tấn thịt gia cầm và gần 22 tỷ quả trứng, cơ bản đáp ứng được nguồn cung cho cuối năm và Tết Nguyên đán.
Nhằm bảo đảm nguồn cung thịt, trứng
▶ Theo Hiệp hội Gia cầm Việt Nam dự báo, thời gian 3 tháng cuối năm 2025 và quý I/2026, sản xuất và thương mại gia cầm sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ổn định. Nên với nguồn cung thịt, trứng hoàn toàn đáp ứng nhu cầu trong nước, kể cả thời điểm tiêu thụ cao nhất vào dịp Tết… Đồng thời, kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương thực hiện nhiều giải pháp trọng tâm, để vừa bảo đảm nguồn cung, vừa hỗ trợ sản xuất bền vững.
Cụ thể: Thứ nhất, tăng cường kiểm soát buôn lậu gia cầm và sản phẩm gia cầm qua biên giới vào những tháng cuối năm. Thứ hai, cho phép nhập khẩu chính ngạch giống gà lông màu chất lượng cao từ Trung Quốc, cùng đó kiểm soát chặt chất lượng giống trong nước. Thứ ba, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực chăn nuôi, rút ngắn thời gian cấp phép lưu hành thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi. Thứ tư, áp dụng các biện pháp phi thuế quan, nhằm hạn chế nhập khẩu các sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được (như thịt gà đông lạnh, thuốc thú y)…
phục vụ tiêu dùng Tết, ngành nông nghiệp đã và đang triển khai hàng loạt giải pháp trọng tâm, tập trung vào kiểm soát dịch bệnh, chủ động nguồn giống và tăng cường liên kết chuỗi sản xuất - tiêu thụ.
Hiện nay, việc tiêm phòng, giám sát dịch bệnh và thiết lập hệ thống cảnh báo sớm tiếp tục được ngành chăn nuôi chú trọng, đồng thời, củng cố đội ngũ thú y cơ sở, xây dựng chuồng trại kiên cố, tiết kiệm năng lượng, điều hòa vi khí hậu nhằm giảm thiểu rủi ro trong mùa mưa bão.
Ngành cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và phát triển chăn nuôi xanh. Áp dụng chăn nuôi tuần hoàn, số hóa quản lý trại, truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang được mở rộng tại Đồng Nai, Bắc Ninh, Tây Ninh, Hưng Yên… Hướng đi này không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn giảm phát thải, phù hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững.
Ông Đinh Việt Tú, đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường khu vực Nam bộ, nhấn mạnh: Giải pháp then chốt giúp ổn định giá và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chăn nuôi là kiểm soát tốt dịch bệnh, đảm bảo nguồn cung ổn định, đồng thời đẩy mạnh liên kết sản xuất - tiêu thụ.
Ngoài ra, các địa phương cũng chủ động thống kê đàn gia cầm, dự báo nhu cầu tiêu dùng, hướng dẫn cơ sở giết mổ, chế biến bảo đảm an toàn thực phẩm. Theo dự báo của Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, nguồn cung thịt và trứng hoàn toàn đủ cho nhu cầu trong nước, kể cả giai đoạn tiêu thụ cao điểm dịp Tết, không để xảy ra tình trạng khan hiếm hay tăng giá đột biến.
Sau những mất mát nặng nề do bão lũ và dịch bệnh, ngành chăn nuôi gia cầm
Việt Nam đang nỗ lực phục hồi, đảm bảo đủ nguồn cung thịt, trứng gia cầm cho Tết Nguyên đán 2026, ổn định giá cả, đồng thời khẳng định vị thế của ngành gia cầm Việt Nam trong phát triển bền vững.
Để đảm bảo nguồn cung cuối năm và Tết Nguyên đán, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tập trung ba nhóm giải pháp: giống - dinh dưỡng và an toàn sinh học. Trong đó, nguồn giống chất lượng cao được ưu tiên để kịp tái đàn trước Tết; giá thức ăn chăn nuôi giảm giúp hạ chi phí sản xuất; công tác kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt dịch cúm gia cầm cũng sẽ được siết chặt.
NGÀNH TRỨNG BẮT
Trứng gia cầm từ lâu đã được công nhận là một trong những 'siêu thực phẩm' toàn diện nhất cho sức khỏe
Thế giới
NHỊP XU THẾ MỚI
Việt Nam
Việt Nam hiện đứng thứ hai ASEAN về sản lượng trứng, đạt 20,1 tỷ quả/năm, chỉ sau Indonesia 112 tỷ quả. Tiêu thụ bình quân đầu người tăng mạnh từ 108 quả năm 2017 lên 185 quả năm 2024, gần gấp đôi sau 7 năm. Với đà tăng trưởng này, ngành trứng Việt Nam có thể đạt 3 tỷ USD, trở thành một trong những trụ cột mới của ngành chăn nuôi hiện đại và an ninh dinh dưỡng quốc gia. Sản lượng trứng sản xuất hàng năm không ngừng gia tăng, tốc độ tăng trưởng về chỉ tiêu sản lượng trứng trong 10 năm trở lại đây đạt 7 - 8%, tăng cao nhất trong toàn bộ các loại sản phẩm sản xuất của ngành chăn nuôi. Năm 2024 cả nước sản
BỨT PHÁ THỊ TRƯỜNG TIỀM NĂNG
Mở rộng và đa dạng hóa thị trường, đồng thời củng cố các thị trường truyền thống, khơi thông điểm đến tiềm năng được coi là giải pháp hữu hiệu để duy trì đà tăng trưởng của ngành trứng Việt Nam.
Tiêu thụ trứng trong nước thấp
Các nhà khoa học đã chứng minh trứng là một trong những thực phẩm giàu dinh dưỡng nhất. Trứng không chỉ là nguồn protein hoàn chỉnh, cung cấp đầy đủ các axit amin thiết yếu mà cơ thể không thể tự tổng hợp, mang lại nhiều lợi ích sức khỏe vượt trội.
Trứng giàu choline - dưỡng chất quan trọng cho sức khỏe não bộ, đặc biệt hỗ trợ cải thiện trí nhớ ở người cao tuổi. Lutein và zeaxanthin trong trứng giúp bảo vệ mắt khỏi thoái hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể. Lòng đỏ trứng là một trong số ít thực phẩm tự nhiên chứa Vitamin D, hỗ trợ hấp thu canxi, giúp xương chắc khỏe.
Với phụ nữ mang thai, trứng là nguồn cung cấp axit folic và sắt, cần thiết cho sự phát triển ống thần kinh và hồng cầu của thai nhi. Chính vì thế, không ngạc nhiên khi trứng luôn hiện diện trong bữa ăn của mọi quốc gia, từ Á sang Âu, từ truyền thống đến hiện đại.
Theo Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, trong một thập kỷ qua, ngành trứng gia cầm Việt
Nam đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng ấn tượng, đạt 7 - 8% mỗi năm. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong số các sản phẩm chăn nuôi, khẳng định vị thế vững chắc của ngành trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Năm 2024, ước tính sản lượng trứng của nước ta đã cán mốc trên 20 tỷ quả, vượt kế hoạch so với chiến lược phát triển ngành chăn nuôi trước hai năm. Trong đó, trứng gà chiếm khoảng 70%, còn lại 30% là trứng vịt và trứng chim cút.
Điểm nổi bật thứ hai là cùng với sự gia tăng mạnh về sản lượng, những năm gần đây ghi nhận sự đóng góp đáng kể của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào chăn nuôi với công nghệ hiện đại và quy mô lớn. Nhờ đó, sản lượng trứng của nước ta đã tăng nhanh trong thời gian qua, bảo đảm nguồn cung dồi dào, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu thụ của người dân.
Với công suất hiện có của các doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất trứng tại Việt Nam, dự kiến trong vài năm tới, sản lượng trứng có thể tăng lên mức 25 - 26 tỷ quả.
Tuy nhiên, mức tiêu thụ trứng trực tiếp ở Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 185 quả/ người/năm. Con số này thấp hơn đáng kể so với mức trung bình thế giới, vốn dao động 300 - 350 quả/người/năm.
Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ trứng trong nước, đặc biệt là về giá cả, vẫn còn nhiều biến động và thay đổi theo chu kỳ rất
ÔNG NGUYỄN THANH SƠN
Chủ tịch Hiệp hội Gia cầm Việt Nam
“Khi người tiêu dùng nâng niu một quả trứng Việt, đó không chỉ là nguồn dinh dưỡng quý giá, mà còn là kết tinh từ mồ hôi, tâm huyết, trí tuệ của người nông dân và doanh nghiệp - những người đang góp phần làm nên niềm tự hào của nông nghiệp Việt Nam”.
nhanh. Nếu như trước đây giá trứng thường biến động theo chu kỳ 3 - 6 tháng, thì thời gian gần đây, giá có thể thay đổi theo tháng, thậm chí theo tuần.
Một trong những nguyên nhân chính là do mức tiêu thụ trứng của người dân còn thấp, bắt nguồn từ nhận thức chưa đúng, cho rằng ăn nhiều trứng có thể gây hại cho sức khỏe, làm tăng mỡ máu hoặc ảnh hưởng đến tim mạch.
Điều thứ ba, trong bức tranh tổng thể của ngành trứng hiện nay, có thể thấy tiêu thụ nội địa vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu và phần
lớn là trứng tươi. Các sản phẩm trứng chế biến sâu vẫn còn ít. Đáng chú ý, sản lượng trứng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây còn khá khiêm tốn, mới chỉ đạt khoảng 1% so với tổng sản lượng hàng năm.
Đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng
Để nâng tầm giá trị trứng Việt, chất lượng sản phẩm là yếu tố then chốt. Bên cạnh việc giảm giá thành sản xuất, các doanh nghiệp cần đảm bảo tiêu chuẩn cao về chất lượng trứng và sản phẩm chế biến từ trứng. Người tiêu dùng, cả trong nước lẫn quốc tế, đều đòi hỏi khắt khe về màu vỏ, lòng đỏ, lòng trắng, cũng như giá trị dinh dưỡng và độ an toàn thực phẩm.
Ngoài ra, kiểm soát nghiêm ngặt vi sinh, tồn dư kháng sinh và chất cấm là yêu cầu bắt buộc để đáp ứng quy chuẩn quốc tế, giúp trứng Việt đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Theo đó, trước tiên, các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quy trình sản xuất từ đầu vào đến đầu ra.
Thứ hai, cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và tiêu chuẩn của những thị trường nhập khẩu truyền thống và tiềm năng, nhằm bảo đảm mỗi quả trứng Việt Nam đáp ứng đầy đủ yêu cầu về chất lượng và an toàn thực phẩm. Đặc biệt, đầu tư vào công nghệ chế
biến sâu là yếu tố then chốt giúp nâng cao giá
trị sản phẩm
và mở rộng
cơ hội xuất khẩu.
Thứ
ba, cần đa dạng hóa sản phẩm. Chẳng hạn, ngoài trứng
tươi hiện đang chiếm
tỷ trọng chủ yếu, chúng ta cần phát triển các dòng sản phẩm chế biến như: Trứng lỏng thanh trùng, trứng ăn liền, bột trứng, trứng bắc thảo...
Thứ tư, phải đảm bảo được cái yếu tố để đảm bảo thân thiện với môi trường, từ vỉ đựng trứng cho đến vấn đề xử lý vỏ trứng, xử lý nước thải…
Nếu áp dụng đồng bộ các giải pháp trên, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng tỷ lệ xuất khẩu trứng sẽ tăng từ mức 1% hiện nay lên 5 - 7% trong tương lai gần, mở ra hướng phát triển bền vững hơn cho ngành.
Bên cạnh nỗ lực của các doanh nghiệp trong đổi mới công nghệ, đầu tư theo hướng xanh - sạch - an toàn, Nhà nước cũng cần cụ thể hóa và triển khai các chính sách hỗ trợ mang tính khả thi hơn cho những đơn vị tiên phong trong sản xuất thân thiện môi trường. Các chính sách này có thể bao gồm ưu đãi tín dụng, đầu tư hạ tầng, giảm thuế, xúc tiến thương mại và khuyến khích chuyển đổi xanh trong chăn nuôi.
Một giải pháp rất quan trọng nữa để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm trứng là các cơ quan
quản lý Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với hiệp hội ngành hàng trong việc đàm phán và xúc tiến thương mại với các đối tác quốc tế.
Bởi lẽ, để đáp ứng được những tiêu chuẩn
khắt khe của các thị trường toàn cầu, vai trò của cơ quan quản lý là không thể thiếu.
Tất nhiên, hiệp hội ngành hàng sẽ luôn
đồng hành cùng doanh nghiệp, tích cực xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ quốc tế và quảng bá sản phẩm trứng Việt Nam, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng tầm thương hiệu “Made in Vietnam”. Thay
quan trọng. Với quy mô dân số khoảng 100 triệu người, chỉ cần mức tiêu thụ bình quân đầu người tăng thêm khoảng 50 - 100 quả mỗi năm thì sản lượng trứng của nước ta hoàn toàn có thể đạt 30 - 35 tỷ quả/năm trong những năm tới. Điều quan trọng là cần thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về giá trị dinh dưỡng của trứng. Thực tế, nhiều nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy, việc ăn trứng thường xuyên trong tuần, ở các độ tuổi khác nhau, không gây ra sự khác biệt đáng kể về các chỉ số máu so với những người chỉ ăn 1 - 2 quả trứng mỗi tuần.
Điều thứ hai, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền về giá trị tích cực của trứng, cũng cần thường xuyên đấu tranh, phản bác những thông tin sai lệch. Điển hình như câu chuyện “trứng giả”, “trứng nhân tạo” từng gây hoang mang dư luận.
Hiện nay, Hiệp hội Gia cầm Việt Nam đang xây dựng Chương trình “Trứng học đường”, phối hợp cùng các doanh nghiệp triển khai theo mô hình tương tự Chương trình “Sữa học đường” đã rất thành công. VPA kỳ vọng, các cơ quan truyền thông báo chí, doanh nghiệp trong thời gian tới, góp phần lan tỏa và hiện thực hóa chương trình ý nghĩa này.
BAN TRUYỀN THÔNG VPA
▶ Vừa qua, Mebi Farm và San Hà ký kết hợp tác phân phối trứng gà hồng Pinky Egg - dòng sản phẩm thuần chay, không kháng sinh, không hormone vào hệ thống San Hà Foodstore. Theo thỏa thuận, sản phẩm trứng gà hồng Pinky Egg của Mebi Farm sẽ chính thức được phân phối trong hệ thống San Hà Foodstore, mở rộng kênh tiêu thụ cho dòng sản phẩm trứng thuần chay không kháng sinh, không hormone, được sản xuất theo chuỗi khép kín chuẩn Nhật Bản, đạt chứng nhận ISO 22000 và HACCP. Việc hợp tác giữa hai bên nhằm mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm trứng an toàn, có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Nâng
cao năng lực cạnh tranh của gia cầm Việt
Ngành gia cầm Việt Nam đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh là một nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi sự chung tay của toàn ngành, từ quản lý, nghiên cứu
sản
và tiêu dùng.
Phát triển mạnh mẽ, tăng trưởng ổn định
Phát biểu tại Hội thảo nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành gia cầm Việt Nam mới đây, ông Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch
VPA cho biết, trong những năm qua, ngành chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh mẽ so với các nước trong khu vực và thế giới. Công nghệ trong chăn nuôi gia cầm Việt Nam đứng trong top đầu các nước ASEAN. Chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh mẽ ở
Việt Nam nhờ nhu cầu thực phẩm cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, và xuất khẩu. Sự tăng trưởng này tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và đóng góp vào an ninh lương thực.
TS Nguyễn Quý Khiêm, Tổng Thư ký
VPA cho biết, trong bối cảnh ngành ngành nông nghiệp Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững, chăn nuôi gia cầm đã và đang khẳng
định vị trí là một trong những lĩnh vực năng
động và có tốc độ tăng trưởng ổn định nhất.
Với ưu thế về vòng đời ngắn, khả năng quay vòng vốn nhanh, chi phí đầu tư không quá lớn và sản phẩm phù hợp với khẩu phần dinh dưỡng của người dân, chăn nuôi gia cầm không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn từng bước mở rộng tiềm năng xuất khẩu.
Tổng đàn gia cầm của cả nước tại thời điểm cuối năm 2024 ước đạt trên 575,1 triệu con, tăng khoảng 2,8% so với năm 2023. Trong đó, đàn gà chiếm khoảng 72,5%, đàn vịt và ngan chiếm 27,5%. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng năm 2024 đạt 2,43 triệu tấn (tăng 3,4%), sản lượng trứng đạt 20,2 tỷ quả (tăng 5,4%) so với năm 2023.
Chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ tuy chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 55 - 65%), nhưng đã có xu hướng giảm dần cả về quy mô và số
lượng cơ sở, nhường chỗ cho các trang trại và doanh nghiệp chăn nuôi quy mô lớn, khép kín, áp dụng công nghệ cao.
Những “điểm nghẽn” của sự phát triển
Tổng Thư ký VPA Nguyễn Quý Khiêm đã phân tích những tồn tại, hạn chế và điểm nghẽn của ngành gia cầm Việt Nam, đó là công tác quản lý sản xuất giống gia cầm theo quy định chưa được thực hiện nghiêm túc, triệt để, các cơ sở chăn nuôi tự phát tăng, giảm đàn theo phong trào, cộng thêm việc nhập khẩu không kiểm soát hạn ngạch gây mất cân đối cung - cầu và quy mô đầu con không ổn định.
Chi phí sản xuất tăng cao do nguyên liệu đầu vào sản xuất thức ăn chăn nuôi phụ thuộc nhập khẩu (trên 65% nguyên liệu thô, trên 90% thức ăn bổ sung). Các dịch bệnh như: Newcastle, Gumboro, Marek… vẫn luôn là mối đe dọa cho ngành chăn nuôi gia cầm. Việc kiểm soát dịch bệnh còn gặp nhiều khó khăn do quy mô chăn nuôi nông hộ chiếm tỷ lệ lớn, thiếu hạ tầng và trang thiết bị thú y.
Chưa kể đến là thói quen của người tiêu dùng. Bởi phần lớn sản phẩm gia cầm tiêu thụ ở dạng tươi sống, chưa qua chế biến
hoặc giết mổ công nghiệp, dẫn tới lãng phí tài nguyên, giảm khả năng cạnh tranh và hạn chế khả năng xuất khẩu.
Hướng đến một ngành gia cầm bền vững, hiện đại
Theo Chủ tịch VPA Nguyễn Thanh Sơn, để tiếp tục phát triển, ngành gia cầm cần tái cấu trúc, liên kết chặt chẽ theo chuỗi giá trị, và tập trung vào các mô hình hiện đại, bền vững, phù hợp với yêu cầu thị trường. Đây là xu thế phát triển nổi bật của ngành chăn nuôi gia cầm.
Chuyển dịch quy mô sản xuất từ nhỏ lẻ sang tổ chức chăn nuôi tập trung quy mô lớn, khép kín, ứng dụng công nghệ tự động hóa (computerized feeding, khí hậu chuồng nuôi, hệ thống nước uống, giám sát dịch bệnh…).
Điển hình các doanh nghiệp lớn chi phối chuỗi giá trị như CP Group, Dabaco, Mavin, CJ Vina, GreenFeed, Minh Dư…
Chia sẻ giải pháp phát triển ngành gia cầm bền vững, ông Adam Lohniskys, Giám
đốc Dinh dưỡng gia cầm De Heus Việt
▶ Chăn nuôi gia cầm Việt Nam
đang ở ngưỡng cửa chuyển mình lớn, từ sản xuất truyền thống sang hiện đại hóa, đáp ứng đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng
trong nước và quốc tế. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức về dịch bệnh, giá nguyên liệu, cạnh tranh nhập khẩu, ngành vẫn đứng trước nhiều cơ hội phát triển bền vững trong thập kỷ mới, với điều kiện duy trì được tiến trình hiện đại hóa, mở rộng chuỗi liên kết, chủ động thích ứng linh hoạt với biến động toàn cầu.
Nam, nhấn mạnh về việc tối ưu hóa chuỗi giá trị protein động vật tương lai. Điều này cần phải chú ý đến phát thải CO₂ từ nguyên liệu, thức ăn và sản xuất vật nuôi. Giảm đầu vào bằng thức ăn protein thấp nhưng cân bằng acid amin. Cải thiện hiệu quả phốt pho bằng phytase. Đồng thời, cần quan tâm nhu cầu người tiêu dùng như sử dụng thực phẩm không kháng sinh, kiểm soát rủi ro Salmonella và nâng cao phúc lợi động vật.
Trong bối cảnh ngành chăn nuôi đang đối mặt với nhiều thách thức về dịch bệnh và chi phí đầu vào, sự xuất hiện của một giải pháp toàn diện, vừa nâng cao sức khỏe đàn vật nuôi, vừa giúp giảm chi phí sản xuất, mang ý nghĩa hết sức thiết thực. Trong đó, Olmix Asialand Việt Nam đưa ra giải pháp vaccine phòng ngừa các bệnh nguy hiểm trên đàn gia cầm nuôi như Marek, Gumboro… Nhờ vậy, người chăn nuôi gia cầm giờ đây có thể yên tâm hơn trong việc chủ động bảo vệ đàn vật nuôi, hướng tới hiệu quả và bền vững trong sản xuất.
Còn ông Pieter Anton Frederick Buijs, Tổng giám đốc Big Dutchman Việt Nam thông tin về những hiểu biết về công nghệ tiên tiến được sử dụng trong sản xuất đem lợi ích nổi bật cho người chăn nuôi gia cầm như: tăng năng suất và lợi nhuận; Giảm chi phí vận hành và nhân công; Tăng doanh thu từ phân bón hữu cơ; Tăng nguồn thu từ chứng chỉ CO₂; Giảm thiểu chất thải và khí thải; Nâng cao phúc lợi vật nuôi và an toàn sinh học; Đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và mục tiêu phát triển bền vững…
BAN TRUYỀN THÔNG VPA
Triển vọng chăn nuôi gà quý IV/2025
Theo thông tin từ AgroMonitor, giá gà trắng và gà màu hơi đang ở mức cao, mang lại lợi nhuận tốt cho người chăn nuôi và các công ty chăn nuôi, dự kiến sẽ tiếp tục thúc đẩy tái đàn, đặc biệt khi thị trường bước vào mùa tiêu thụ lớn cuối năm. Hoạt động xuất khẩu gà giống và gà thịt sang Campuchia sẽ tiếp tục trong quý IV/2025, nhưng lượng có thể giảm lại với gà thịt do Campuchia đã khôi phục đàn trong nước sau khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu giống.
Nhiều công ty đã chốt bán xong lượng giống cho tới cuối năm 2025, thậm chí cả năm 2026. Ngay cả khi các cửa khẩu biên giới của Campuchia và Thái Lan được nối lại, phía Campuchia cũng sẽ xoay trục mua hàng từ Việt Nam nhiều hơn do niềm tin đã bị đổ vỡ và để tránh việc đứt đoạn nguồn cung như giai đoạn vừa qua.
Tác động của Nghị định 70/2025/NĐCP về hóa đơn chứng từ có hiệu lực từ 01/6 và Luật Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực từ 01/7 tới thị trường bán lẻ. Tác động của cuộc chiến thuế quan tới thịt gà nhập khẩu.
Lượng DOC gà trắng và gà màu thịt dự kiến cung ứng ra thị trường trong quý IV/2025 tiếp tục tăng 4 - 5% so với quý trước và tăng trên 20% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2025, tổng lượng DOC gà trắng tăng gần 20%, trong khi gà màu tăng 7%. Tổng nguồn cung gà hơi sản xuất dự kiến tăng khoảng 10%. Hoạt động xuất khẩu gà giống và gà thịt nhộn nhịp trong quý III
và có thể cả quý IV giúp thị trường không bị dư cung. Về giá trứng, ghi nhận tại các trại chăn nuôi khu vực Đông Nam bộ cho thấy, giá trứng gà đã tăng trở lại trong vài tuần gần đây, mức tăng dao động từ 500 - 700 đồng/ quả, lên 2.500 - 2.900 đồng/quả. Trong khi chi phí chăn nuôi gà đẻ rơi vào khoảng 1.600 - 1.800 đồng/quả, người chăn nuôi đang có mức lãi hơn 1.000 đồng mỗi quả. Trên thị trường bán lẻ, giá trứng gà dao động từ 3.000 - 3.500 đồng/quả, một số loại tăng lên 3.800 đồng/quả. Thương lái cho hay các khu vực giáp ranh giữa Việt Nam và Campuchia gần đây xuất hiện nhiều vựa thu gom trứng gà từ các nơi rồi xuất sang Campuchia. Ước tính mỗi ngày, khoảng một triệu quả trứng được tập kết về các vựa, chủ yếu ở Tây Ninh, An Giang và Đồng Tháp. Tình trạng xuất khẩu này dẫn đến khan hàng cục bộ, khiến giá trứng gà trong nước bị đẩy lên cao. Theo Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, trong quý III/2025, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 15 triệu con gà giống và gần 4 triệu con gà thịt sang Campuchia. Đây là tín hiệu khả quan, cho thấy tiềm năng lớn của ngành chăn nuôi gia cầm Việt Nam trên thị trường khu vực. Nhiều doanh nghiệp đã ký đơn hàng xuất khẩu trứng, gà thịt sang nước bạn đến hết quý I/2026.
H.C (Tổng hợp)
Ngành gia cầm toàn cầu tái cấu trúc mạnh mẽ
Các “ông lớn” chăn nuôi ở châu Mỹ vẫn giữ vị thế áp đảo trong ngành thịt gà và trứng thế giới năm 2025, dù tỷ trọng trong mảng trứng có phần suy giảm. Trong khi đó, các doanh nghiệp châu Á ngày càng nổi lên mạnh mẽ trong danh sách 10 nhà sản xuất hàng
Vượt xa ngành thịt heo
Từng bị thịt heo “qua mặt” suốt nhiều thập kỷ, thịt gà nay đã trở thành loại thịt
được tiêu thụ nhiều nhất thế giới, và khoảng cách giữa hai loại thịt này được dự báo sẽ
còn nới rộng trong những năm tới.
Theo báo cáo Triển vọng Nông nghiệp OECD-FAO 2025 - 2034 công bố tháng 7 vừa qua, tiêu thụ thịt gia cầm toàn cầu sẽ là động lực tăng trưởng chính của ngành thịt trong thập niên tới. Tổng tiêu thụ dự kiến đạt 173 triệu tấn vào năm 2033, chiếm gần
45% lượng protein thịt tiêu thụ toàn cầu.
Giới chuyên gia nhận định, sức hút của thịt gà và trứng đến từ nhiều yếu tố: tốt cho sức khỏe, giá thành hợp lý, dễ tiếp cận và có dấu chân môi trường nhỏ hơn so với các loại thịt khác.
JBS độc chiếm ngôi vương
Theo bảng xếp hạng Top 10 nhà sản xuất
thịt gà toàn cầu năm 2025, Tập đoàn JBS (Brazil) tiếp tục dẫn đầu với sản lượng đạt 4,269 tỷ con gà/năm, vượt xa các đối thủ. Đứng thứ hai là Tyson Foods (Mỹ), sản xuất 1,92 tỷ con và BRF (Brazil) xếp thứ ba với 1,67 tỷ con. Ba “đại gia” này cộng lại còn sản xuất nhiều hơn tổng sản lượng của bảy công ty còn lại trong top 10. Ở vị trí thứ 10 là Koch Foods (Mỹ), đạt 670 triệu con/năm,
tương đương khoảng 16% sản lượng của JBS, minh chứng cho quy mô vượt trội của tập đoàn Brazil.
Một nửa trong số 10 doanh nghiệp dẫn đầu ngành thịt gà thế giới có trụ sở tại châu Mỹ, bao gồm cả Wayne-Sanderson Farms (Mỹ) với sản lượng 1,07 tỷ con/năm. Năm công ty còn lại đến từ châu Á và Trung Đông, gồm ba doanh nghiệp Trung Quốc, một của Singapore và một của Ả Rập Saudi.
Tại châu Âu, MHP (Ukraine) là đại diện xếp hạng cao nhất, đứng thứ 18 với 528 triệu con/năm. Astral Foods (Nam Phi) dẫn đầu châu Phi với 280,8 triệu con, xếp thứ 39, còn Inghams Enterprises (Australia) là đại diện hàng đầu châu Đại Dương với 235,4 triệu con/năm.
Cal-Maine dẫn đầu ngành
trứng
Trong lĩnh vực sản xuất trứng, CalMaine Foods (Mỹ) tiếp tục giữ ngôi đầu với 50,6 triệu con gà đẻ, dù sự thống trị của châu Mỹ đã giảm nhẹ từ bảy công ty trong top 10 năm ngoái còn năm năm nay.
Global Eggs, doanh nghiệp mới thành lập năm 2024 và có trụ sở tại Luxembourg, bất ngờ vươn lên vị trí thứ hai với 43 triệu con gà đẻ. Dù đặt trụ sở tại châu Âu, song 90% sản lượng của công ty lại đến từ châu Mỹ, càng củng cố vai trò thống lĩnh của khu vực này.
Sự xuất hiện của Global Eggs đã đẩy Proteína Animal (PROAN - Mexico) xuống vị trí thứ ba, với 41 triệu con gà đẻ. Giới phân tích cho rằng, Global Eggs có khả năng
cao sẽ vượt Cal-Maine trong tương lai gần nếu tiếp tục mở rộng quy mô.
Ngoài ra, ba công ty châu Á, trong đó có hai doanh nghiệp Trung Quốc, cũng lọt top 10, phản ánh xu hướng mở rộng nhanh chóng của ngành chăn nuôi trứng tại khu vực này.
Tái cấu trúc và sáp nhập
Bảng xếp hạng năm nay cho thấy bức tranh ngành chăn nuôi gia cầm toàn cầu đang biến chuyển mạnh mẽ. Nhiều công ty tăng hạng nhờ mở rộng quy mô, trong khi không ít doanh nghiệp tụt hạng hoặc bị loại khỏi bảng do dịch bệnh, biến động thương mại hoặc sáp nhập.
Các chuyên gia dự báo, trong những năm tới, sự tái cấu trúc và hợp nhất trong ngành trứng và thịt gà sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, tạo nên cuộc đua khốc liệt giữa các tập đoàn khu vực và đa quốc gia.
Mặc dù không lọt top toàn cầu, hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp nguồn protein lành mạnh, giá rẻ cho người tiêu dùng, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và nuôi sống thế giới.
TUẤN MINH (Theo WorldPoultry)
THỊ TRƯỜNG GIA CẦM CUỐI NĂM
Triển vọng sáng nhưng nhiều rủi ro
Dù nhu cầu và chi phí đầu vào vẫn ở mức thuận lợi, ngành gia cầm toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều rủi ro trong nửa cuối năm 2025 từ dịch bệnh, biến động địa chính trị đến căng thẳng thương mại quốc tế.
Sau một nửa đầu năm khởi sắc, triển vọng của thị trường gia cầm toàn cầu đang dần kém rõ ràng hơn khi bước sang những tháng cuối năm. Các yếu tố nền tảng của thị trường vẫn tích cực như giá thức ăn chăn nuôi ổn định, giá các loại protein cạnh tranh còn cao, nhưng bất ổn chính trị và căng thẳng thương mại đang tạo sức ép lên tăng trưởng của toàn ngành.
Theo báo cáo mới nhất của Rabobank, công bố cuối tháng 6, thị trường gia cầm thế giới đã xuất hiện những dấu hiệu biến động rõ rệt trong quý II/2025. Trước đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm xuống còn 2,8%, từ mức 3,3% trước đó. Cùng với xu hướng đó, Rabobank điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng ngành gia cầm toàn cầu
từ 2,5 - 3% xuống 2 - 2,5%, phản ánh triển vọng ngày càng thận trọng. Ngân hàng nhận
định thị trường vẫn duy trì sức mạnh tương
đối, song sự khác biệt giữa các khu vực sẽ ngày càng rõ nét.
Địa chính trị và dịch bệnh
Rabobank cảnh báo rằng dù thị trường toàn cầu vẫn ở trạng thái ổn định, các rủi ro mới, đặc biệt từ chính trị và dịch cúm gia
cầm (AI) đang ngày càng hiện hữu. Việc Mỹ công bố rồi hoãn áp thuế nhập khẩu khiến niềm tin thương mại lung lay, làm dấy lên lo ngại về một cuộc chiến thương mại mới. Nếu các thỏa thuận thương mại được ký kết, ngành gia cầm Mỹ có thể mở rộng xuất khẩu. Nhưng trong kịch bản ngược lại, Mỹ có thể bị hạn chế tiếp cận thị trường quốc tế, tạo cơ hội cho Brazil, Thái Lan, Nga và EU gia tăng thị phần. Thị trường nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cũng phụ thuộc vào một số quốc gia cung ứng chủ chốt, khiến giá cả dễ biến động khi căng thẳng thương mại leo thang.
Bên cạnh đó, xung đột ở Trung Đông, đặc biệt giữa Iran và Israel, đang đe dọa gây ra tác động lan tỏa đến toàn ngành. Khu vực
này hiện chiếm khoảng 20% thương mại gia cầm toàn cầu, nên bất kỳ bất ổn nào cũng có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng.
Khởi sắc xen lẫn u ám
Sản lượng gia cầm Mỹ trong năm tăng 3,2% so với cùng kỳ, nhờ nhu cầu mạnh từ lĩnh vực dịch vụ ăn uống và chi phí thức ăn thấp. Tuy nhiên, tổng đàn giống ở mức thấp lịch sử, hạn chế khả năng mở rộng. Rabobank dự báo sản lượng cả năm 2025 tăng khoảng 1,06%, trong khi xuất khẩu có thể giảm 1,6% do nguồn cung toàn cầu thắt chặt.
Thị trường châu Âu vẫn giữ xu hướng tích cực với nhu cầu tiêu thụ mạnh, nhưng nguồn cung hạn chế vì cúm gia cầm bùng phát tại nhiều nước. Giá trứng ấp đã đạt mức cao kỷ lục, kéo theo giá gà con và gà thịt tiếp tục ở mức cao trong nửa cuối năm, do EU tạm ngừng nhập khẩu từ Brazil và khôi phục hạn ngạch nhập khẩu đối với Ukraine.
Thị trường Trung Quốc chịu áp lực do nhu cầu yếu và sản lượng nội địa tăng trong 5 tháng đầu năm. Việc cấm nhập khẩu gà từ Brazil chỉ làm giá cánh và chân gà tăng tạm thời, còn nhìn chung giá thịt gia cầm vẫn ổn định. Nhập khẩu dự kiến giảm, trong khi xuất khẩu tiếp tục tăng.
Sự cố cúm gia cầm độc lực cao (HPAI)
tại một trang trại thương mại ở Brazil khiến khoảng 70 thị trường tạm ngừng nhập khẩu, kéo giá nội địa xuống thấp. Tuy nhiên, khi các thị trường dần mở cửa trở lại, nguồn cung trong nước sẽ giảm, tạo cơ hội cho Brazil tận dụng xu hướng tái định hướng thương mại.
Ngành gia cầm Thái Lan được hưởng lợi từ nhu cầu mạnh trong và ngoài nước. Giá thịt gà cải thiện đáng kể trong quý II, trong bối cảnh sản phẩm Brazil bị hạn chế xuất khẩu. Ngành cũng được hỗ trợ bởi giá thức ăn giảm, dù nguồn cung gà giống bố mẹ vẫn eo hẹp. Xuất khẩu, đặc biệt sang châu Âu, dự kiến tiếp tục tăng trưởng tốt.
▶ Tổ chức FAO cũng chia sẻ quan điểm: ngành gia cầm vẫn sẽ tăng trưởng trong năm nay, nhưng đối mặt với nhiều trở ngại. Những nước hưởng lợi chính được dự báo gồm Brazil, Trung Quốc, EU và Mỹ, bên cạnh đó là Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Pakistan, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ với mức tăng sản lượng đáng kể.
Thương mại tăng nhưng nhiều rủi ro Quý I/2025 ghi nhận thương mại thịt gia cầm đạt mức cao lịch sử, với đà tăng kéo dài suốt nửa đầu năm. Trong nửa cuối năm, Brazil dự kiến sẽ khôi phục dần các thị trường xuất khẩu sau khi khống chế ổ dịch cúm gia cầm. Tuy nhiên, nếu căng thẳng ở Trung Đông leo thang, đặc biệt trong trường hợp eo biển Gibraltar bị phong tỏa - quốc gia này có thể chịu tác động nặng nề, do là nhà cung cấp chính của khu vực.
Theo FAO, tổng thương mại thịt gia cầm toàn cầu năm 2025 có thể đạt 16,9 triệu tấn, tăng 1,9% so với năm 2024. Mức tăng này chủ yếu nhờ các thị trường nhập khẩu lớn, song phần nào bị kìm lại bởi nhu cầu yếu từ Trung Quốc. DŨNG NGUYÊN (Theo Thepoultrysite)
Sản xuất chăn nuôi vẫn duy trì đà phục hồi
Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dù chịu tác động nặng nề của mưa bão và thời tiết cực đoan trong tháng 10/2025, ngành chăn nuôi cả nước vẫn duy trì được đà phục hồi. Các địa phương đang nỗ lực khắc phục thiệt hại, khôi phục sản xuất, bảo đảm nguồn cung thực phẩm ổn định cho thị trường dịp cuối năm. Trong đó, đàn gia cầm tiếp tục tăng trưởng ổn định nhờ kiểm soát dịch bệnh hiệu quả và nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng mạnh. Các địa phương cũng đẩy mạnh hướng dẫn kỹ thuật, đảm bảo vệ sinh chuồng trại, an toàn thức ăn và nguồn nước nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi. Tính đến ngày 29/10/2025, cả nước không còn dịch tai xanh và dịch lở mồm long móng; dịch cúm gia cầm còn ở Ninh Bình, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Khánh Hòa; dịch tả lợn châu Phi còn ở 30/34 địa phương chưa qua 21 ngày. Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 10 tháng đầu năm đạt 512,9 triệu USD, tăng 19% so cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô trên 2,06 tỷ USD trong 9 tháng năm 2025
Theo thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 9 tháng năm 2025 đạt gần 8,19 triệu tấn, trị giá trên 2,06 tỷ USD, giá trung bình 252,1 USD/tấn, tăng 1,3% về lượng, tăng 4,1% kim ngạch và tăng 2,7% về giá so với 9 tháng năm 2024. Trong đó, riêng tháng 9/2025 đạt 1,45 triệu tấn, tương đương 338,41 triệu USD, giá trung bình 233,6 USD/tấn, tăng 13,3% về lượng và tăng 7,4% kim ngạch nhưng giảm 5,2% về giá so với tháng 8/2025; so với tháng 9/2024 cũng tăng 25,7% về lượng, tăng 26,1% về kim ngạch và tăng 0,3% về giá. Argentina là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025, chiếm 54,8% trong tổng lượng và chiếm 54,6% tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt gần 4,49 triệu tấn, tương đương trên 1,13 tỷ USD. Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, 9 tháng năm 2025 đạt 2,09 triệu tấn, tương đương 510,8 triệu USD, giá 244,4 USD/tấn, chiếm 25,5% trong tổng lượng và chiếm 24,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm 11,1% về lượng, giảm 12,6% về kim ngạch và giá giảm 1,7% so với 9 tháng năm 2024.
9 tháng, Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp đậu
tương cho Việt Nam
Theo đó, chiếm 56,6% trong tổng lượng và chiếm 57,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, đạt 1,11 triệu tấn, tương đương gần 518,47 triệu USD, giá trung bình 469 USD/tấn, tăng 17,6% về lượng, tăng 10,4% về kim ngạch nhưng giảm 6,1% về giá so với 9 tháng năm 2024; riêng tháng 9/2025 đạt 70.054 tấn, tương đương 34,78 triệu USD, giá 496,5 USD/ tấn, giảm 69,8% về lượng, giảm 68,6% kim ngạch nhưng giá tăng 3,9% so với tháng 8/2025; so với tháng 9/2024 cũng giảm 20,2% về lượng, giảm 14,3% kim ngạch nhưng tăng 7,3% về giá. Nhập khẩu đậu tương trong 9 tháng năm 2025 đạt 1,95 triệu tấn, trị giá trên 904,89 triệu USD, giá trung bình 463,7USD/tấn, tăng 22,5% về lượng, tăng 9,6% kim ngạch nhưng giảm 10,5% về giá so với 9 tháng năm 2024.
Gà thịt tăng giá
Khoảng một tháng nay, tại khu vực Đông Nam bộ, giá gà công nghiệp dao động từ 36.000 - 38.000 đồng/kg. Gà ta nuôi kiểu công nghiệp có giá 55.000 - 65.000 đồng/kg. Gà ta thả vườn đạt mức 100.000 - 110.000 đồng/kg. Gà lông trắng đạt 40.000 - 45.000 đồng/ kg, gà lông màu đạt 55.000 - 60.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, giá gà giống hiện cũng tăng mạnh, dao động từ 16.000 - 18.000 đồng/con, cao hơn khoảng 4.000 đồng so với tháng 9 vừa qua. Nhiều hộ vẫn tiếp tục mở rộng đàn để kịp nguồn cung dịp Tết Nguyên đán 2026.
Giá trứng gà bất ngờ tăng vọt
Theo thông tin từ các trại chăn nuôi khu vực Đông Nam bộ, giá trứng gà đã tăng trở lại trong vài tuần gân đây, mức tăng dao động từ 500 - 700 đồng và hiện đạt 2.500 - 2.900 đồng/quả. Trong khi chi phí chăn nuôi gà đẻ rơi vào khoảng 1.600 - 1.800 đồng/trứng, người chăn nuôi đang có mức lãi hơn 1.000 đồng mỗi quả. Trên thị trường bán lẻ, giá trứng gà hiện dao động 3.000 - 3.500 đồng/quả, một số loại tăng lên 3.800 đồng/quả. Theo thông tin từ thương lái, các khu vực giáp ranh giữa Việt Nam và Campuchia gần đây xuất hiện nhiều vựa thu gom trứng gà từ các nơi rồi xuất sang Campuchia. Ước tính mỗi ngày có khoảng một triệu quả trứng được tập kết về các vựa, chủ yếu ở Tây Ninh, An Giang và Đồng Tháp. Tình trạng xuất khẩu này dẫn đến khan hàng cục bộ, khiến giá trứng gà trong nước bị đẩy lên cao.
NGHỆ AN Hiệu quả mô hình nuôi gà bản địa
Nhờ nuôi gà bản địa, anh Quang Văn Trung (dân tộc Thái) đã vươn lên trở thành người làm kinh tế giỏi nhất bản Pục, xã Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Năm 2019, anh quyết tâm khởi nghiệp lần hai với mô hình nuôi gà bản địa. Đến năm 2023, anh Trung xuất bán hơn 2.000 con gà với giá trung bình 130.000 đồng/kg. Năm 2024 và những tháng đầu năm 2025, anh duy trì đàn lên đến hơn 3.000 con gà bản địa. Hiện nay toàn bộ mô hình nuôi gà bản địa của 17 hộ dân tộc Thái ở bản Pục xuất bán khoảng 15 - 16 tấn gà thương phẩm mỗi năm, mỗi hộ có lãi từ 80 - 100 triệu đồng/năm.
HÀ TĨNH
“Thủ phủ” nuôi gà nỗ lực tái đàn cuối năm
Sau bão số 5 và bão số 10, hoạt động chăn nuôi của người dân xã Yên Hòa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo thống kê từ UBND xã, tính đến tháng 10/2025, tổng đàn gà trên địa bàn hiện còn khoảng 150.000 con, giảm khoảng 25% so với cùng kỳ năm 2024. Thời điểm này, tại các thôn chăn nuôi gà tập trung như: Bắc Hòa, Phú Hòa... người dân đang tích cực tiếp cận các nguồn vốn tín dụng để sửa chữa chuồng trại và đầu tư mua con giống, thức ăn... Theo người chăn nuôi xã Yên Hòa, thời điểm này, gà thương phẩm được thương lái thu mua với giá dao động từ 70.000 - 76.000 đồng/kg, tăng khoảng 20.000 đồng/kg so với đầu năm. Đây là mức giá cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây, mở ra cơ hội để người chăn nuôi bù đắp phần nào thiệt hại do bão lũ gây ra.
ANH VŨ
(Tổng hợp)
Thống
MỸ
◆ Quảng bá thịt heo giữa lúc giá bò và gia cầm leo thang
Giữa bối cảnh giá thịt bò tăng cao và thịt gia cầm biến động, ngành thịt heo Mỹ tung ra chiến dịch quảng bá toàn quốc, nhằm thu hút người tiêu dùng mới và khơi dậy niềm hứng thú với thịt heo. Đây là chiến dịch đầu tiên sau gần bảy năm, do Pork Checkoff khởi xướng từ tháng 5/2024, với mục tiêu nhấn mạnh sự phong phú về hương vị của thịt heo. Theo ông Patrick Fleming, Phó Chủ tịch phụ trách thị trường nội địa, chiến dịch hướng đến ba nhóm khách hàng tiềm năng gồm “nhà phiêu lưu ẩm thực”, “người sành thịt” và “người tiêu dùng có ý thức sức khỏe”. Cách tiếp cận mới này tận dụng xu hướng tiêu thụ thịt heo chế biến sẵn của thế hệ trẻ để khuyến khích họ chuyển sang thịt tươi. Trong khi giá thịt bò tăng hơn 12% và gà tăng 3%, giá heo chỉ nhích 2,2%. Dù chưa thấy sự thay thế rõ rệt giữa các loại thịt, giới chuyên gia nhận định đây là thời điểm thuận lợi để ngành heo Mỹ củng cố lại thị phần.
dự báo tiếp tục tăng
Các chuyên gia cảnh báo giá trứng tại Mỹ sẽ còn leo thang trong thời gian tới, khi dịch cúm gia cầm độc lực cao (H5N1) vẫn tiếp tục gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi. Từ khi virus này xuất hiện năm 2022, hơn 175 triệu con gia cầm ở Mỹ đã bị tiêu hủy hoặc chết, trong khi dịch cũng lan sang nhiều loài động vật có vú, gồm cả bò sữa và cừu. Theo Giáo sư Patrick Penfield (Đại học Syracuse), giá trứng Mỹ nay đã có tính “mùa vụ” theo chu kỳ di cư của chim hoang dã: tăng mạnh vào cuối thu và mùa đông do bùng phát dịch, rồi hạ nhiệt dần vào mùa hè. Ông dự báo giá trứng năm 2026 có thể tăng thêm khoảng 24%. Đầu năm nay, khi 23 triệu con gia cầm bị tiêu hủy, giá trứng đã vọt lên 6 USD mỗi tá. Dù tháng 10 vừa qua, giá trứng giảm còn dưới 1,2 USD mỗi tá nhờ nguồn cung dồi dào, giới chuyên gia cho rằng xu hướng tăng trở lại là khó tránh khỏi khi các đợt dịch mới đang xuất hiện sớm hơn dự kiến.
HÀN QUỐC
Giá thịt bò và heo tăng, trong khi trứng và gà vẫn
ổn định
Giá thịt bò và heo tại Hàn Quốc đang leo thang do lượng giết mổ và nhập khẩu giảm, trong khi thịt gà và trứng giữ mức ổn
định. Theo Viện Đánh giá Chất lượng Sản phẩm Chăn nuôi Hàn
Quốc, tính đến ngày 18/10, giá bán lẻ trung bình thịt bò thăn loại
1 đạt 10.187 won (7,17 USD)/100 g, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm ngoái, còn thăn nội tăng 10,7%. Thịt heo ba rọi đạt 2.872 won (2,02 USD)/100 g, cao hơn 6,9% so với năm ngoái; sườn và chân trước đều tăng hơn 12%. Nguyên nhân được cho là do nguồn cung nội
địa giảm, giá nhập khẩu tăng và chi phí quốc tế cao khiến người tiêu dùng ngại mua hàng ngoại. Ngược lại, giá thịt gà và trứng gần như không đổi: gà thịt trung bình 5.685 won/kg (tương đương năm trước) và khay 30 trứng cỡ lớn ở mức 6.968 won (4,91 USD).
Bộ Nông nghiệp Hàn Quốc cho biết, sẽ triển khai chương trình giảm giá và ứng dụng giao hàng công để giảm gánh nặng lạm phát cho người dân.
ẤN ĐỘ
Ngành gia cầm chuyển hướng nội địa do chi phí tăng cao
Dù đứng thứ hai thế giới về sản lượng trứng, Ấn Độ chỉ xếp hạng 25 - 26 về xuất khẩu. Theo cựu Thứ trưởng Bộ Chăn nuôi Tarun Sridhar, Ấn Độ nằm trong nhóm 5 nước sản xuất thịt lớn nhất thế giới, song mức tiêu thụ bình quân chỉ khoảng 3 kg/người/năm, thấp hơn cả Bangladesh. Mỗi người Ấn Độ hiện ăn khoảng 6 - 7 kg thịt gà và 103 quả trứng mỗi năm. Ngành gia cầm đang chịu bất lợi lớn về chi phí: giá bắp và khô đậu trong nước cao hơn 30%, khiến chi phí sản xuất gà thịt cao hơn 25 - 30 rupee/kg so với các nước xuất khẩu. Một phần nguyên nhân là do Ấn Độ cấm cây trồng biến đổi gen. Giới chuyên môn cho rằng, nếu không cải thiện hạ tầng chế biến và bảo quản lạnh, gia cầm Ấn Độ khó cạnh tranh quốc tế, trong khi
Mỹ và nhiều nước khác đang xem Ấn Độ là thị trường tiềm năng.
PHILIPPINES
Tăng sản lượng gia cầm đáp ứng nhu cầu thị trường bùng nổ
Tập đoàn Bounty, một trong những nhà sản xuất gia cầm hàng đầu Philippines đã kêu gọi ngành chăn nuôi trong nước tăng công suất để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn. Năm 2024, sản lượng ngành đạt 362 tỷ peso (6,21 tỷ USD), theo Cơ quan Thống kê Philippines. Chủ tịch kiêm CEO Kenneth Cheng dẫn số liệu Girafood cho biết, nhu cầu thịt gia cầm dự kiến tăng thêm 500.000 tấn mỗi 5 năm, đạt khoảng 4,5 triệu tấn vào năm 2050, gấp đôi hiện nay. Ông cảnh báo: “Người dân sẽ vẫn ăn thịt gà dù nông dân có sản xuất hay không, nếu ta không làm, hàng nhập sẽ tràn vào”.
Ông Cheng nhấn mạnh, ngành cần mở rộng trang trại theo hướng bền vững, chú trọng phúc lợi động vật, kiểm soát dịch bệnh và giảm lạm dụng kháng sinh. Ông hoan nghênh việc cơ quan chức năng vừa phê duyệt vaccine cúm gia cầm H5N1 đầu tiên của nước này - bước tiến quan trọng giúp bảo vệ đàn gà và sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, thích ứng biến đổi khí hậu bằng cải thiện chuồng trại và thông gió cũng là yếu tố sống còn cho ngành gia cầm Philippines.
THÁI LAN
Giá trứng giảm do Lễ hội Ăn chay
Giá trứng tại Thái Lan đang duy trì ở mức ổn định và phù hợp với xu hướng mùa vụ, nhờ kỳ nghỉ học và Lễ hội Ăn chay diễn ra trong tháng 10, theo ông Manot Chuthapthim, Chủ tịch Hiệp hội nuôi gà đẻ Thái Lan. Từ ngày 14/10, giá trứng khuyến nghị tại trại giảm xuống còn 1,05 USD/10 quả, song vẫn cao hơn chi phí sản xuất hiện ở mức 0,98 USD/10 quả. Ông Manot cho biết, giá giảm chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ chững lại trong khi nguồn cung vẫn ổn định, phản ánh quy luật cung cầu theo mùa, không có tình trạng dư thừa. Hiện Thái Lan có hơn 50 triệu gà mái, sản xuất khoảng 42 triệu quả trứng mỗi ngày. Ông Manot cho hay, nước này đang mở rộng xuất khẩu sang UAE và tìm thêm thị trường mới, dù thừa nhận việc xuất khẩu gặp khó vì giá thấp và cạnh tranh gay gắt.
TUẤN MINH
(Tổng hợp)
Bứt phá năng suất với máy phân loại trứng công suất “LỚN” - 60.000 trứng/giờ!
Trong bối cảnh ngành chăn nuôi và chế biến nông sản đang bước vào giai đoạn chuyển đổi số và tự động hóa mạnh mẽ, nhu cầu về các thiết bị thông minh, có khả năng xử lý khối lượng lớn với độ chính xác cao ngày càng gia tăng. Nổi bật trong xu thế này là máy phân loại trứng
công suất lớn - lên tới 60.000 trứng mỗi giờ, một giải pháp tối ưu giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm và giảm chi phí nhân công.
Công nghệ phân loại trứng thông minh
Sạch - Nhanh - Chuẩn - An toàn
Không còn cảnh phân loại thủ công tốn thời gian, tốn nhân lực, dễ sai sót - giờ đây, chỉ cần một nút khởi động, toàn bộ quy trình kiểm tra - phân loại - làm sạch - sấy khô - khử trùng trứng đều được thực hiện hoàn toàn tự động, chính xác và siêu tốc độ.
Máy phân loại trứng hiện đại được thiết kế với hệ thống tự động hóa hoàn toàn, tích hợp nhiều công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của quy trình sản xuất trứng thương phẩm. Điểm nổi bật đầu tiên chính là khả năng kiểm tra và phát hiện trứng nứt, trứng máu. Nhờ đó, sản phẩm đầu ra luôn
đạt tiêu chuẩn đồng đều về chất lượng, hạn
chế tối đa rủi ro hàng lỗi khi xuất xưởng.
Bên cạnh chức năng phân loại, máy còn
được trang bị công nghệ rửa - sấy trứng tự
động kết hợp khử trùng bằng tia UV, giúp
loại bỏ bụi bẩn, vi khuẩn và mầm bệnh bám
trên vỏ trứng. Quy trình khép kín này không
chỉ đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm mà
còn kéo dài thời gian bảo quản, đáp ứng tiêu
chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính.
Một quả trứng đẹp là thành quả của công nghệ thông minh
Điểm mạnh đáng chú ý của dòng máy công suất 60.000 trứng/giờ là tốc độ xử lý vượt trội nhưng vẫn duy trì độ chính xác gần như tuyệt đối. Hệ thống băng tải thông minh vận hành ổn định, hạn chế va đập, giúp trứng được di chuyển nhẹ nhàng qua từng công đoạn. Giao diện điều khiển thân thiện, mang lại sự tiện lợi và đa dạng trong ứng dụng.
Không chỉ mang lại hiệu quả sản xuất cao, việc đầu tư vào máy phân loại trứng tự động còn giúp doanh nghiệp tối ưu chi phí vận hành. Nhờ giảm đáng kể số lượng lao động thủ công và sai sót do con người gây ra, doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí nhân
công, đồng thời tăng năng suất và lợi nhuận. Với thiết kế chắc chắn, cấu trúc inox chống gỉ và hệ thống bảo trì đơn giản, máy đảm bảo độ bền cao, hoạt động ổn định trong thời gian dài. Có thể nói, máy phân loại trứng công suất 60.000 trứng/giờ không chỉ là thiết bị kỹ thuật, mà còn là một bước tiến quan trọng trong quá trình hiện đại hóa ngành chăn nuôi. Với hiệu suất mạnh mẽ, tính năng thông minh và chất lượng vượt trội, đây chính là giải pháp tối ưu cho các trang trại quy mô lớn, nhà máy chế biến trứng, và doanh nghiệp nông nghiệp đang hướng tới mô hình sản xuất công nghiệp 4.0.
Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N
Điện thoại: 028.668.101.95~96
Web: bhnenc.com - Email: bhnenc@gmail.com
Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh
Nhịp cầu kết nối
Nông nghiệp xanh
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đặt trọng tâm vào chiến lược phát triển xanh, coi đây là chìa khóa cho tăng trưởng bền vững.
VÂN HI ☐
Chiến lược phát triển xanh
Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu gay gắt, tài nguyên suy giảm và áp lực tăng trưởng xanh, các mô hình sản xuất truyền thống không còn phù hợp. Do đó, để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và bảo vệ môi trường sống, toàn ngành cần đổi mới tư duy, lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.
Thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện cơ cấu lại ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh. Nông nghiệp xanh sử dụng các phương pháp canh tác thông minh, sử dụng phân bón hữu cơ, giảm sử dụng hóa chất và thuốc trừ sâu, áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước, ứng dụng công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải, nâng cao hiệu quả sản xuất, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển nông nghiệp bền vững.
Cùng chung với xu thế này, ngành thủy sản đặc biệt là với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đã chú trọng phát triển các vùng, mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao (đặc biệt là nuôi tôm siêu thâm canh), công nghệ thân thiện với môi trường. Vùng ĐBSCL đã áp dụng mô hình lúa - tôm, lúa - cá khá thành công đảm bảo hiệu quả sản xuất, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong chăn nuôi, việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp sản xuất thành thức ăn chăn nuôi; xử lý chất thải thành khí sinh học, nuôi trùn quế, áp dụng công nghệ vi sinh, đệm sinh học, chế biến phân vi sinh, phân bón hữu cơ, đã hạn chế tác hại đến môi trường. Chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao trong chăn nuôi được thúc đẩy; mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ đang dần được nhân rộng. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp xanh mới đạt được những kết quả ban đầu, thực tế vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần được khắc phục. Quy mô sản xuất nông nghiệp Việt Nam còn chủ yếu là các nông hộ sản xuất có quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết đang là “rào cản” cho việc ứng dụng khoa học công nghệ, sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến, thương mại
nông sản, nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng nông nghiệp xanh, sinh thái. Hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh thiếu đồng bộ, thủ tục xây dựng dự án, tiếp nhận cơ chế hỗ trợ còn rườm rà, phức tạp, khó tiếp cận, nhiều rủi ro. Việc lồng ghép thực hiện trong các chương trình, dự án khác như: chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hỗ trợ liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng… còn gặp nhiều khó khăn.
VietAgros 2026 hướng tới nền nông nghiệp xanh, bền vững
Để vượt qua khó khăn, thách thức, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đặt trọng tâm vào chiến lược phát triển xanh, coi đây là chìa khóa cho tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên sản phẩm thân thiện với môi trường, việc chuyển đổi sang chuỗi nuôi trồng xanh và kinh tế tuần hoàn không chỉ giảm giá thành mà còn nâng cao sức cạnh tranh.
Hội chợ triển lãm Quốc tế Công nghệ Nông nghiệp và Môi trường - VietAgros 2026 ra đời với mục tiêu trở thành cầu nối quan trọng giữa nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và người nông dân, cùng hướng tới một nền nông nghiệp xanh, bền vững.
➢ VietAgros 2026 sẽ diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 26 đến 28/3/2026
tại Công viên Sông Hậu, phường Cái Khế, TP Cần Thơ. Với quy mô 250 gian hàng cùng 4 phiên Hội thảo và chương trình “Tôn vinh doanh nghiệp uy tín, cam kết hành động vì cộng
đồng”, Hội chợ dự kiến sẽ thu hút trên 10.000 lượt khách trong nước và quốc tế tới tham dự.
Hội chợ sẽ trưng bày, giới thiệu nhiều sản phẩm, dịch vụ, công nghệ trong lĩnh vực thủy sản, chăn nuôi và trồng trọt. Bên cạnh đó, những ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, kết quả nghiên cứu mới nhất trong và ngoài nước cũng sẽ xuất hiện tại VietAgros 2026, giúp khách tham quan có thể tiếp cận và lựa chọn những sản phẩm phù hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng những tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường.
VietAgros 2026 được kỳ vọng mở ra cơ hội thúc đẩy, mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu kinh tế, quảng bá thương hiệu, giới thiệu, tôn vinh những sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế; trên cơ sở đó, củng cố vững chắc vị thế, khai thác hiệu quả thị trường nội địa và xuất khẩu. ☐
EGGSCARGOSYSTEM®
Cuộc cách mạng vận chuyển trứng của
Giordano Global
Trong chăn nuôi gia cầm, mỗi quả trứng là cam kết về chất lượng, nhưng rủi ro lớn nhất luôn
là trứng vỡ, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và hiệu quả chuỗi sản xuất. Giordano Global ra mắt EggsCargoSystem®, hệ thống vận chuyển trứng đột phá, bảo vệ tối đa, tối ưu logistics và hướng đến sự bền vững.
Giảm thiểu rủi ro từ trang trại đến bàn ăn
EggsCargoSystem® gồm ba thành phần chính: pallet, ngăn chia và khay trứng, tất cả làm từ nhựa chất lượng cao, chống tia UV. Các thành phần này được thiết kế đồng bộ, tạo nên một hệ thống mô-đun vừa bền bỉ, vừa vệ sinh, đảm bảo ổn định ngay cả khi sử dụng liên tục. Pallet tạo nền chắc chắn, có phiên bản tiêu chuẩn hoặc gia cố để sử dụng trong giá, giúp các tầng xếp thẳng hàng và chịu lực cơ học tốt. Ngăn chia giữ khay tách biệt, duy trì cấu trúc thẳng đứng của tải, đồng thời tương thích với hệ thống tự động và robot - ưu thế quyết định trong các nhà máy chế biến trứng hiện đại.
Bảo vệ tối đa, vận hành dễ dàng
Trung tâm của hệ thống là khay trứng, gồm ba phiên bản: Standard Tray cho trứng nhỏ, Jumbo 1.0 cho trứng vừa và Jumbo 2.0 cho trứng lớn. Mỗi khay giữ trứng riêng lẻ, ngăn tiếp xúc và hạn chế rung lắc - những nguyên nhân chính gây nứt vỡ. Thiết kế ô khay tinh tế cùng độ đàn hồi của nhựa đảm bảo khả năng hấp thụ va chạm tối ưu, đồng thời ổn định khi xếp chồng, tránh ép lực lên các lớp trứng bên dưới. Kết quả là trứng được bảo vệ đồng nhất, từ trang trại đến trung tâm phân loại và phương tiện vận chuyển.
Độ bền và vệ sinh là nguyên tắc cốt lõi của ECS. Bề mặt nhẵn, không xốp của từng chi tiết dễ vệ sinh, sát trùng, đáp ứng nghiêm ngặt các quy trình an toàn sinh học. Khác với vật liệu dùng một lần hay nhanh hư hỏng, các chi tiết ECS thiết kế cho sử dụng lâu dài khi nhiều nhà vận hành báo cáo sử dụng nhiều năm mà không biến dạng hay hỏng hóc cơ học. Tuổi thọ dài này mang lại hiệu quả chi
phí và tính bền vững: ít phải thay thế, giảm lãng phí, giảm tác động môi trường. Khi kết thúc vòng đời, mọi chi tiết đều có thể tái chế hoàn toàn, thể hiện cam kết của Giordano Global về chu trình sản xuất bền vững và quản lý tài nguyên có trách nhiệm.
Hiệu quả vượt trội và đầu tư thông minh
EggsCargoSystem® không chỉ bảo vệ trứng. Bằng cách giảm thiểu hư hỏng trong vận chuyển và xử lý, hệ thống nâng cao hiệu quả toàn chuỗi cung ứng. Nhà sản xuất có thể vận chuyển số lượng lớn hơn an toàn, duy trì chất lượng sản phẩm cao, đồng thời tối ưu hóa vận hành logistics. Thiết kế đồng nhất và chính xác của ECS còn giúp hệ thống tương thích hoàn toàn với mọi thiết bị xử lý và phân loại trứng hiện đại, tích hợp dễ dàng vào dây chuyền tự động, trở thành khoản đầu tư “đón đầu” công nghệ và mở rộng kinh doanh bền vững.
Với Giordano Global, chất lượng không phải là lựa chọn, mà là chiến lược. Trong thị trường đòi hỏi năng suất và bền vững song hành, tiết kiệm thiết bị quan trọng
đồng nghĩa với tăng chi phí ẩn. Trứng vỡ, khay hỏng, thất bại vệ sinh hay gián đoạn vận chuyển đều ảnh hưởng kinh tế trực tiếp và xói mòn hiệu quả vận hành. Đầu tư vào hệ thống bền bỉ, thiết kế tinh tế như
EggsCargoSystem® chính là đầu tư cho hiệu suất lâu dài, uy tín thương hiệu và sự ổn định trong kinh doanh.
EggsCargoSystem® trở thành hệ thống vận chuyển trứng phổ biến nhất thế giới, được tin cậy bởi các nhà sản xuất và phân phối ở mọi khu vực chăn nuôi lớn. Thành công của EggsCargoSystem® nằm
ở sự cân bằng giữa đổi mới kỹ thuật và tính thực tiễn. Hệ thống mang độ bền công nghiệp, thông minh trong thiết kế mô-đun và linh hoạt trong vận hành. Bằng cách bảo vệ trứng an toàn, sạch và nguyên vẹn trong suốt hành trình, ECS không chỉ ngăn tổn thất kinh tế mà còn nâng cao niềm tin toàn chuỗi giá trị, từ nông dân đến người tiêu dùng.
Những khách hàng coi trọng chất lượng và sự đồng nhất trong vận hành luôn lựa chọn EggsCargoSystem®. Giordano Global chứng minh rằng, đầu tư cho chất lượng hôm nay là bảo đảm thành công bền vững cho ngày mai.
GIORDANO GLOBAL
➢ Kể từ lần ra mắt đầu tiên vào năm 2000, EggsCargoSystem® đã
được hơn 1.750 khách hàng tại 176 quốc gia sử dụng. Tính đến nay, hơn 350 triệu khay cùng ngăn chia và pallet tương ứng đã được bán ra.
GAPICO - Giải pháp kiểm soát và điều trị bệnh tiêu chảy ở heo
GAPICO - sản phẩm đến từ Công ty Cổ phần TVOne Việt Nam được coi là giải pháp thay thế kháng sinh từ những chất chiết thực vật và peptide kháng khuẩn để khắc phục bệnh tiêu chảy trên heo con.
Trong chăn nuôi heo hiện nay, giai đoạn từ khi heo con mới sinh đến cai sữa, và đặc biệt là những ngày đầu sau cai sữa, luôn được xem là thời điểm nhạy cảm và nhiều rủi ro nhất. Đây là giai đoạn heo con dễ bị tổn thương bởi sức đề kháng còn yếu, hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện, dễ mắc phải các bệnh đường ruột - trong đó bệnh tiêu chảy là phổ biến và gây thiệt hại nặng nề nhất cho người chăn nuôi.
Nguyên nhân chủ yếu là trong giai đoạn này heo con rất dễ mắc bệnh tiêu chảy do một số loài vi khuẩn (E. coli, Salmonella, Lawsonia intracellularis, Brachyspira…), virus (Rotavirus, Coronavirus) và cầu trùng (Isospora, Eimeria) gây ra, trong đó phổ biến nhất là do E. coli / Escherichia coli xâm nhập, bám vào niêm mạc ruột non, tiết ra độc tố, làm rối loạn chức năng hàng rào ruột, gây viêm, tiêu chảy, giảm tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ còi cọc cao, là thách thức lớn nhất đối với người chăn nuôi.
Kháng sinh còn nhiều hệ lụy
Trước đây, các loại kháng sinh như Bacitracine, Virginiamycin, Colistin, Neomycin… thường được sử dụng để điều trị tiêu chảy trên heo con. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh đã bộc lộ nhiều mặt trái: làm mất cân bằng hệ vi sinh đường ruột, giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng, gây hiện tượng kháng thuốc, làm giảm hiệu quả điều trị và ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm. Trong bối cảnh ngành chăn nuôi toàn cầu đang hướng đến “không kháng sinh, an toàn, bền vững”, nhu cầu về những giải pháp thay thế tự nhiên, hiệu quả và thân thiện với vật nuôi đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hiểu rõ những thách thức đó, Công ty TVOne đã nghiên cứu và cho ra đời
GAPICO - một giải pháp sinh học toàn diện, kết hợp hài hòa giữa tinh dầu thực vật, phytogenic, peptide kháng khuẩn và probiotic. Sản phẩm không chỉ là giải pháp
an toàn để điều trị có hiệu quả bệnh tiêu chảy trên heo con, khắc phục những nhược điểm của kháng sinh mà còn nâng cao năng suất và sức khỏe vật nuôi.
Tinh dầu thực vật trong GAPICO (Thymol, Carvacrol) tác động chọn lọc đối với các vi khuẩn gây bệnh như E. coli, Salmonella, Lawsonia intracellularis, Brachyspira… bằng cách thu gom và bao bọc chúng trong lớp vỏ tinh dầu và thải ra ngoài theo phân. Tinh dầu và các phytogenic trong GAPICO còn ngăn cản sự hình thành màng biofilm của các vi khuẩn gây bệnh, một thành trì vững chãi chống lại kháng sinh để các hoạt chất phytogenic, peptide kháng khuẩn phát huy tác dụng.
Các peptide kháng khuẩn, do có ái lực cao với các thành phần tích điện âm trên màng tế bào, nên có khả năng vô hoạt vi khuẩn gây bệnh bằng cách chèn vào lớp màng lipid kép, hình thành các kênh vận chuyển tự do, làm dung giải màng, tạo thành những lỗ trên
màng, làm thay đổi tính thấm của màng và xâm nhập vào tế bào chất, gây rối loạn trao đổi chất của vi khuẩn. Các chủng probiotic mạnh trong GAPICO giúp cân bằng hệ vi sinh vật ruột, tăng cường sức khỏe hệ tiêu hóa, tăng năng lực hấp thu dưỡng chất, giúp heo con phục hồi nhanh, khỏe mạnh.
GAPICO - Hướng đến chăn nuôi không kháng sinh
Với sự kết hợp giữa công nghệ sinh học hiện đại và nguồn nguyên liệu tự nhiên, GAPICO mang đến một hướng đi mới: “Phòng trị tiêu chảy bằng giải pháp sinh học toàn diện - không kháng sinh, không tác dụng phụ”.
Sản phẩm không chỉ giúp người chăn nuôi giảm rủi ro bệnh đường ruột, mà còn tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, cải thiện tốc độ tăng trưởng và nâng cao năng suất toàn đàn.
OLMIX ASIALAND VIỆT NAM VÀ DOPHARMA
Đồng hành cùng người chăn nuôi kiểm soát
toàn diện bệnh hô hấp trên gia cầm
Sáng 21/10 tại Hà Nội và ngày 23/10 tại TP. Hồ Chí Minh, Công ty TNHH Olmix Asialand Việt Nam phối hợp cùng Tập đoàn Dopharma (Hà Lan) tổ chức hội thảo chuyên đề “Bí quyết kiểm soát bệnh đường hô hấp trên gia cầm”.
Bệnh hô hấp - mối đe dọa âm thầm trong ngành gia cầm
Sự kiện quy tụ đông đảo chuyên gia, doanh nghiệp, kỹ sư và bác sĩ thú y trong cả nước, cùng chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận về các giải pháp chủ động phòng, trị bệnh hô hấp, nhóm bệnh đang gây thiệt hại lớn nhưng thường bị xem nhẹ trong chăn nuôi gia cầm.
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trịnh Quang Thanh, Tổng giám đốc Công ty Olmix Asialand Việt Nam (ảnh 4) và bà Đào Thị Hương Giang, Giám đốc ngành hàng gia cầm Olmix Asialand Việt Nam, nhấn mạnh: Bệnh hô hấp hiện là một trong những nguyên nhân chính làm sụt giảm năng suất, tăng chi phí và gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho người chăn nuôi.
Với kim chỉ nam “Giải pháp toàn diện
cho nhà chăn nuôi” Olmix Asialand Việt Nam mong muốn đồng hành cùng bà con bằng kiến thức và giải pháp khoa học, giúp quản lý sức khỏe đàn vật nuôi tốt hơn, hướng tới phát triển bền vững, ông Thanh chia sẻ. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thịt và trứng tại châu Á không ngừng tăng, ngành chăn nuôi đang đối mặt với hàng loạt thách thức: khí hậu nóng ẩm, mật độ nuôi cao, môi trường chuồng trại chưa đạt chuẩn, trong khi các bệnh hô hấp do Mycoplasma, IB (viêm phế quản truyền nhiễm), ND (dịch tả gà) hay E. coli kế phát ngày càng phức tạp. Ông Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Gia cầm Việt Nam cho rằng, công tác phòng, chống dịch bệnh là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả và sự phát triển bền vững của ngành. Ông cảnh báo nguy cơ dịch bệnh trên gia cầm đang gia tăng, nhất
➢ Thông qua hoạt động này, hai doanh nghiệp mong muốn xây dựng mạng lưới kết nối giữa doanh nghiệp - chuyên gia - nhà chăn nuôi, cùng chia sẻ kinh nghiệm và lan tỏa giải pháp thực tiễn, góp phần xây dựng ngành chăn nuôi Việt
Nam hiện đại, an toàn và phát triển bền vững.
là trong thời điểm thời tiết chuyển mùa, bão lũ và ô nhiễm môi trường.
“Hiệp hội đánh giá cao sự chủ động của các doanh nghiệp như Olmix Asialand Việt Nam và Dopharma trong việc cập nhật tiến bộ khoa học, chuyển giao công nghệ cho người chăn nuôi, giúp họ chủ động hơn trong kiểm soát dịch bệnh” - ông Sơn nói.
Tại phần chuyên đề kỹ thuật, Dr. Amanda Lim, Chuyên gia tư vấn sức khỏe động vật của Dopharma (ảnh 3) chia sẻ, hơn 60% vấn đề sức khỏe trên đàn gà giống và gà thịt tại châu Á liên quan đến bệnh đường hô hấp. Trong đó, Mycoplasma gallisepticum (MG) và Mycoplasma synoviae (MS) là hai tác nhân phổ biến nhất, gây viêm mãn tính, giảm sản lượng trứng từ 5 - 25 quả/mái đẻ, kéo dài thời gian nuôi và tăng chi phí thuốc.
“Các bệnh hô hấp là kẻ thù thầm lặngkhông ồn ào nhưng âm thầm bào mòn sức khỏe đàn vật nuôi, khiến người chăn nuôi thiệt hại lớn mà đôi khi không nhận ra”, Dr. Amanda nói.
Bà cảnh báo, mỗi đợt bùng phát bệnh hô hấp không chỉ khiến gà kém ăn, chậm lớn, mà còn gây ra “hiệu ứng domino” kéo theo nhiều bệnh kế phát khác, làm bệnh lý trở nên phức tạp, khó điều trị và tốn kém hơn.
Các nghiên cứu trình bày tại hội thảo cũng cho thấy, điều kiện môi trường là yếu tố quyết định trong kiểm soát bệnh hô hấp. Chuồng nuôi kém thông thoáng, độ ẩm cao, bụi nhiều, hay chất độn chuồng có pH từ 7.8 - 8.2 là môi trường lý tưởng cho vi khuẩn, nấm và mầm bệnh phát triển.
Do đó, việc kiểm soát khí hậu chuồng trại, cải thiện thông gió, giảm bụi, cùng với chẩn đoán chính xác và lựa chọn kháng sinh phù hợp, đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phòng, trị bệnh toàn diện.
Giải pháp toàn diện từ Olmix Asialand
Việt Nam và Dopharma
Theo Dr. Tomislav Dumanovsky (ảnh 1), Quản lý khách hàng chiến lược toàn cầu, Tập
đoàn Dopharma, việc kiểm soát bệnh hô hấp
cần được tiếp cận từ hai hướng: phòng bệnh
chủ động và điều trị hiệu quả. Dopharma
hiện phối hợp chặt chẽ với Olmix Asialand
Việt Nam không chỉ trong việc phân phối
sản phẩm thuốc thú y, mà còn cung cấp dịch
vụ chẩn đoán thực địa, đào tạo kỹ thuật và
hỗ trợ sử dụng kháng sinh có trách nhiệm cho người chăn nuôi. Trong nhóm giải pháp điều trị, Pulmovet® 250 mg/ml (Tilmicosin phosphate) được giới thiệu là kháng sinh thế hệ mới có tác dụng mạnh trên Mycoplasma spp. và nhiều vi khuẩn gây bệnh hô hấp khác.
Theo kết quả nghiên cứu, nồng độ Pulmovet tại túi khí cao gấp 25 lần và tại mô phổi cao gấp 16 lần so với nồng độ trong huyết tương - giúp tiêu diệt vi khuẩn nhanh và hiệu quả hơn. “Pulmovet được xem là lựa chọn thông minh cho đàn gà khỏe mạnh an toàn, dễ sử dụng và đạt hiệu quả cao trong điều trị các bệnh hô hấp phức hợp”, Dr. Tomislav khẳng định.
Cùng với Pulmovet, Trisulmix Liquid (kết hợp Sulfadimethoxine và Trimethopri)
được xem là giải pháp hỗ trợ kiểm soát E. coli và các nhiễm trùng kế phát trong giai
đoạn đầu điều trị. Phác đồ kết hợp Trisulmix
- Pulmovet đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong
việc giảm tỷ lệ chết, cải thiện tăng trưởng và rút ngắn thời gian điều trị. Không chỉ dừng
ở việc giới thiệu sản phẩm, các chuyên gia Dopharma còn gửi đi thông điệp về chăn nuôi có trách nhiệm, lấy sức khỏe tổng thể của vật nuôi làm trung tâm.
Theo Dr. Marnix Weeda (ảnh 2), Quản lý xuất khẩu của Dopharma, việc duy trì sức khỏe gan và thận đóng vai trò then chốt trong việc tăng sức đề kháng, giúp gia cầm
thích nghi tốt hơn trước áp lực môi trường và dịch bệnh. Ông giới thiệu hai sản phẩm bổ trợ: Heparenol giúp bảo vệ, phục hồi chức năng gan và tăng khả năng thải độc; cùng
Phosretic hỗ trợ hoạt động thận, thúc đẩy bài tiết và tái tạo tế bào. “Khi sử dụng đúng giai đoạn, hai sản phẩm này giúp đàn gia cầm khỏe mạnh, giảm stress nhiệt, hạn chế tác động từ kháng sinh và độc tố,” ông Marnix chia sẻ.
Bác sĩ Nguyễn Minh Đức, Trưởng nhóm sản phẩm Dopharma của Olmix Asialand Việt Nam cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng kháng sinh có mục tiêu, đúng liều và đúng thời gian ngưng thuốc, nhằm tránh nguy cơ kháng kháng sinh và tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi. “Olmix
Asialand Việt Nam không chỉ mang đến giải pháp điều trị, mà còn đồng hành cùng người chăn nuôi trong việc thay đổi tư duy, hướng tới một nền chăn nuôi an toàn sinh học, hiệu quả và bền vững”, ông Đức nói. Kết thúc hội thảo, đại diện Olmix
Asialand Việt Nam cho biết, doanh nghiệp sẽ tiếp tục phối hợp cùng Dopharma tổ chức chuỗi hội thảo đào tạo chuyên sâu tại nhiều tỉnh thành, giúp kỹ sư và bác sĩ thú y cập nhật kiến thức mới về chẩn đoán, phòng bệnh và sử dụng kháng sinh có trách nhiệm. THÙY KHÁNH
Ảnh
Ảnh
NGÀNH TRỨNG VIỆT NAM
Khát vọng vươn mình
Bên cạnh việc mở rộng kênh tiêu thụ trong nước, ngành trứng gia cầm Việt Nam đang từng bước hướng tới thị
xuất
Nhân dịp kỷ niệm Ngày Trứng Thế giới (10/10), đồng thời tôn vinh lợi ích dinh dưỡng của trứng đối với sức khỏe và các giải pháp phát triển ngành trứng bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ trứng ở nước ta; PV Tạp chí Thế giới Gia cầm đã có cuộc trò chuyện với bà Chu Thị Hồng Thủy, Phó Chủ tịch và CEO Công ty Cổ phần Tập đoàn Tafa Việt.
Bà đánh giá như thế nào về nhu cầu tiêu thụ trứng tại thị trường nội địa hiện nay, thưa bà?
Trứng đang trở thành nguồn protein vàng của người Việt. Nếu như năm 2017, Việt Nam mới tiêu thụ khoảng 108 quả/ người/năm, thì đến năm 2024 con số này đã tăng lên 185 quả, tức tăng hơn 70% chỉ sau 7 năm. Điều đó cho thấy sự thay đổi lớn trong nhận thức dinh dưỡng, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng thực phẩm tự nhiên, sạch và tốt cho sức khỏe.
Tuy nhiên, so với các nước như Nhật Bản (340 quả) hay Mexico (392 quả), mức tiêu thụ của Việt Nam vẫn chỉ bằng 6065%. Chính khoảng cách đó lại là cơ hội tăng trưởng khổng lồ cho ngành trứng trong thập kỷ tới. Khi thu nhập tăng và nhận
thức dinh dưỡng cải thiện, tôi tin Việt Nam có thể đạt 250 - 300 trứng/người/năm vào năm 2030, tương đương các quốc gia phát triển trong khu vực và giá trị ngành trứng Việt có thể đạt mức 3 tỷ USD/năm.
Có thể thấy, giá cả luôn là vấn đề được người chăn nuôi, nhà kinh doanh quan tâm. Vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến giá trứng trong nước, thưa bà?
Giá trứng phụ thuộc vào bốn nhóm yếu tố chính:
- Chi phí thức ăn chăn nuôi, chiếm đến 65 - 70% giá thành, mà phần lớn nguyên liệu (ngô, đậu nành) vẫn phải nhập khẩu.
- Cung - cầu theo mùa vụ, đặc biệt tăng
BÀ CHU THỊ HỒNG THỦY
Phó Chủ tịch và CEO Công ty Cổ
phần Tập đoàn Tafa Việt Triển vọng
mạnh trong các dịp lễ, Tết, hay khi có biến động dịch bệnh.
- Chất lượng và quy mô đàn gà đẻ, trang trại áp dụng công nghệ hiện đại sẽ có năng suất ổn định, giảm rủi ro.
- Hệ thống liên kết chuỗi, doanh nghiệp có mô hình khép kín “Feed - Farm - FoodFertilizer” sẽ chủ động hơn, giảm biến động giá. Chính vì vậy, muốn giá trứng ổn định, theo tôi Việt Nam cần giảm phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu, tăng sản xuất trong nước và công nghệ quản trị chi phí.
Theo bà, với những lợi thế mà ngành hàng trứng của Việt Nam đang sở hữu, các thị trường xuất khẩu trứng tiềm năng của Việt Nam hiện nay?
Hiện có ba nhóm thị trường tiềm năng rõ rệt:
- Khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương: như Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc, nơi có nhu cầu cao và ưu tiên trứng an toàn sinh học.
- Trung Đông và châu Phi: dân số trẻ, tốc độ đô thị hóa nhanh, nhu cầu protein giá hợp lý tăng mạnh.
- Thị trường cao cấp như Nhật Bản, EU: tuy khó, nhưng nếu đáp ứng được tiêu chuẩn truy xuất và chứng nhận quốc tế (ISO, HALAL, HACCP), trứng Việt hoàn toàn có thể
tham gia.
Việt Nam có lợi thế về giá thành, chất lượng tươi, và vị ngon tự nhiên, đây là điểm mạnh nếu biết đầu tư đúng hướng.
Vậy, khi ra sân chơi toàn cầu, doanh nghiệp ngành hàng trứng Việt Nam sẽ gặp khó khăn nào, thưa bà?
Thách thức lớn nhất với các doanh nghiệp nhóm hàng này hiện nay là chuẩn hóa và quy mô. Một số trang trại Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế, nhưng số lượng chưa đủ lớn để tạo nguồn cung ổn định và liên tục cho xuất khẩu. Ngoài ra, hệ thống chứng nhận quốc tế, logistics lạnh và thương hiệu trứng quốc gia vẫn đang trong giai đoạn xây dựng.
Tuy nhiên, ưu điểm của trứng Việt là: Chất lượng cao, tươi ngon, giá cạnh tranh; độ linh hoạt sản xuất tốt, có thể đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường; và đặc biệt, nông dân Việt Nam rất nhanh nhạy trong ứng dụng công nghệ mới. Nhược điểm là thiếu thương hiệu mạnh và câu chuyện xuất khẩu có tầm toàn cầu - nhưng đó cũng chính là sứ mệnh của các doanh nghiệp tiên phong như Tafa.
Theo bà, cần đầu tư vào khâu nào để tăng khả năng xuất khẩu trứng và cần phải làm gì để nâng cao giá trị gia tăng khi xuất khẩu trứng?
Muốn đi xa, phải đầu tư đồng bộ từ chuỗi đến thương hiệu. Cụ thể:
- Chăn nuôi sạch - công nghệ cao: Ứng dụng IoT, AI, tự động hóa để quản lý đàn gà, tối ưu năng suất, và truy xuất từng quả trứng.
- Đóng gói và bảo quản tiêu chuẩn quốc tế: Đầu tư nhà máy đạt chuẩn HACCP, ISO, HALAL, để “trứng Việt có hộ chiếu toàn cầu”.
- Thương hiệu và câu chuyện cảm xúc: Biến quả trứng thành biểu tượng của sức khỏe và niềm tin, như cách sữa từng làm được.
- Mô hình ESG & tuần hoàn xanh: “Feed - Farm - Food - Fertilizer - Future” giảm phát thải, tái tạo tài nguyên, tạo hình ảnh trứng Việt Nam sạch và xanh.
Khi giá trị mỗi quả trứng không chỉ nằm ở dinh dưỡng mà còn ở niềm tin, câu chuyện và cảm xúc, thì giá trị xuất khẩu có thể tăng gấp 2 - 3 lần.
Trân trọng cảm ơn bà!
Kinh nghiệm trên hành trình đưa trứng
Việt ra thị trường quốc tế
Theo nghiên cứu của một ngân hàng lớn tại Hà Lan, ngành trứng toàn cầu sẽ tăng trưởng khoảng 21% vào năm 2035, nâng tổng giá trị thị trường từ 250 tỷ USD hiện nay lên khoảng 300 tỷ USD. Đây là con số ấn tượng, đồng thời mở ra cơ hội lớn cho ngành trứng Việt Nam.
Bên cạnh đó, một báo cáo tại hội nghị ở Philippines cho thấy, Việt Nam hiện đứng thứ hai Đông Nam Á về sản xuất và tiêu thụ trứng, với sản lượng hơn 20 tỷ quả mỗi năm - một tín hiệu rất đáng mừng cho ngành chăn nuôi và sản xuất trong nước.
Kinh nghiệm trên hành trình đưa trứng Việt ra thị trường quốc tế, bài học đầu tiên là phải phân tích và nghiên cứu kỹ thị trường. Tafa đã đi đến nhiều quốc gia để tìm hiểu, đánh giá nhu cầu và đặc điểm tiêu dùng của từng thị trường mục tiêu.
Trước hết là thị trường Singapore và Hồng Kông - nơi Việt Nam từng có đơn hàng xuất khẩu nhưng với số lượng còn hạn chế. Hai thị trường này đều có quy mô dân số khoảng 6 - 7 triệu người, song tiềm năng tiêu thụ trứng vẫn rất lớn. Hiện, Tafa Group đang xúc tiến đầu tư, mở rộng hợp tác với thị trường Singapore và Hồng Kông - những thị trường có yêu cầu khắt khe hơn về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
Tiếp đến là thị trường láng giềng như: Lào, Campuchia, hai quốc gia có tổng dân số gần 30 triệu người, song mức tiêu thụ trứng bình quân mới chỉ khoảng 50 quả/người/năm. Rõ ràng, đây là dư địa rất lớn cho ngành hàng trứng Việt Nam. Hiện, Tafa Group đã có các đơn hàng ổn định suốt hơn một năm qua tại hai thị trường này.
Tại các thị trường như Lào và Campuchia, Tafa chủ yếu cung cấp trứng tươi, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng tại đây. Tuy nhiên, với Singapore và Hồng Kông, doanh nghiệp phải đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn, hướng tới sản phẩm chế biến sâu như trứng ăn liền. Tafa hiện có trứng được nướng trong 100 giờ và có thể bảo quản tới 30 ngày, rất tiện lợi cho người sử dụng.
Bài học thứ hai là tập trung tuyệt đối vào chất lượng sản phẩm. Tafa Group đã đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại nhập khẩu từ Cộng hòa Liên bang Đức và các nước châu Âu, đồng thời 100% bao bì, nhãn mác đều sử dụng chất liệu giấy thân thiện môi trường.
Hơn nữa, một quả trứng ngon phải bắt đầu từ những con gà khỏe mạnh. Tafa Group áp dụng chế độ nuôi thuần chay, cho gà uống nước lọc RO tinh khiết, đảm bảo chất lượng trứng tối ưu. Mỗi quả trứng đều có biểu tượng mặt cười và mã truy xuất nguồn gốc, giúp người tiêu dùng biết rõ nguồn gốc.
VŨ MƯA
(Thực hiện)
Chọn và thu gom trứng ấp
Chất lượng trứng quyết định đến 80%
kết quả ấp nở. Trứng ấp phải được chọn từ
đàn bố mẹ khỏe mạnh, không mang mầm bệnh, được nuôi dưỡng bằng khẩu phần cân
đối Vitamin A, E, khoáng và axit amin thiết yếu. Trứng dùng để ấp nên có hình bầu dục cân đối, vỏ dày đều, không nứt, không bẩn, khối lượng phù hợp tiêu chuẩn từng loài (gà 50 - 60 g, vịt 65 - 75 g, cút 10 - 12 g...).
Thời gian thu trứng nên tiến hành 3 - 4 lần/ngày để hạn chế nứt vỏ, tránh để trứng tiếp xúc với nhiệt độ môi trường quá cao làm phát triển phôi sớm. Sau khi thu, trứng cần
được bảo quản trong phòng sạch, thoáng, nhiệt độ 18 - 220C, ẩm độ 70 - 80%, và nên
đưa vào ấp trong vòng 5 - 7 ngày để đạt tỷ lệ nở cao nhất.
Bảo quản và xử lý trứng trước khi ấp
Trong quá trình bảo quản, trứng cần
được xếp đầu to lên trên, nghiêng định kỳ 12 lần/ngày để tránh dính phôi vào vỏ. Trước khi đưa vào máy ấp, nên kiểm tra lại ngoại quan, khử trùng trứng bằng hơi formol (tỷ lệ 40 ml formol + 20 g KMnO₄/m³ trong 20 phút) hoặc phun dung dịch sát khuẩn nhẹ. Khâu khử trùng buồng ấp và máy ấp cũng đặc biệt quan trọng. Nhiều cơ sở bỏ qua bước này khiến mầm bệnh như
E. coli, Salmonella hay Staphylococcus tồn dư, xâm nhập vào phôi qua lỗ khí,
CÁC BIỆN PHÁP TĂNG
làm giảm tỷ lệ nở và tăng tỷ lệ viêm rốn ở con non.
Quản lý kỹ thuật ấp
Nhiệt độ và độ ẩm là hai yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển của phôi.
Gà: Giai đoạn đầu (1 - 10 ngày) ấp ở 37,8 - 380C, ẩm độ 60%; giai đoạn giữa (11 - 17 ngày) giảm còn 37,50C, ẩm độ 55%; giai đoạn cuối (18 - 21 ngày) duy trì 37,20C và ẩm độ 65 - 70%.
Vịt: Ấp ở 37,50C, ẩm độ 65 - 70%, đến ngày 25 tăng lên 70 - 75% để hỗ trợ nở.
Chim cút: Ấp 37,7 - 380C, ẩm độ 5560% trong 14 ngày đầu, sau đó tăng 65% đến khi nở.
Trứng phải được đảo đều 6 - 8 lần/ngày trong 2/3 thời gian đầu ấp để tránh dính phôi. Không đảo trứng trong 3 ngày cuối để phôi định vị và nở thuận lợi. Bên cạnh đó, phải đảm bảo thông khí tốt, tránh nồng độ CO₂ vượt quá 0,5% vì sẽ làm phôi ngạt và chết non.
Soi trứng và loại thải
Việc soi trứng giúp đánh giá sự phát triển của phôi và kịp thời loại bỏ trứng hỏng. Lần soi thứ nhất (ngày 6 - 7 đối với gà) để phát
hiện trứng không có phôi hoặc phôi chết sớm; lần thứ hai (ngày 14 - 16) nhằm xác định phôi chết giữa kỳ; và lần thứ ba trước khi chuyển nở để loại phôi yếu. Trứng soi
đúng kỹ thuật giúp giảm nguy cơ nứt vỏ, nhiễm khuẩn và tiết kiệm năng lượng ấp.
Giai đoạn nở và chăm sóc con non Khi phôi mổ vỏ, cần giữ ổn định nhiệt độ và ẩm độ, tránh mở máy nhiều lần làm hạ nhiệt đột ngột. Sau khi nở, con non được để khô lông trong máy ấp khoảng 2 - 3 giờ rồi chuyển sang chuồng úm đã được sưởi ấm sẵn (32 - 340C).
Cần kiểm tra và loại bỏ con non bị dị tật, hở rốn, dính lòng đỏ hoặc yếu ớt. Việc cho uống nước pha điện giải, Vitamin C và men tiêu hóa trong 24 giờ đầu giúp phục hồi sức nhanh, giảm chết non.
Phòng ngừa bệnh trong ấp
Nguồn bệnh chủ yếu đến từ trứng bẩn, máy ấp không được khử trùng kỹ hoặc nhân viên thao tác không đảm bảo vệ sinh. Do đó, cần duy trì quy trình khử trùng định kỳ, trang bị găng tay, khẩu trang khi xử lý trứng và vệ sinh máy ấp bằng dung dịch sát khuẩn sau mỗi đợt ấp. Định kỳ kiểm tra nguồn nước làm mát và không khí trong phòng ấp, đảm bảo không chứa hơi độc hay bụi bẩn. Việc duy trì môi trường sạch giúp hạn chế tối đa các bệnh như viêm rốn, viêm túi noãn hoàng và nhiễm trùng huyết ở con non.
PHƯƠNG ĐÔNG
CÔNG NGHỆ ẤP TRỨNG GIA CẦM HIỆN ĐẠI
Nâng cao hiệu quả sản xuất giống
Công nghệ ấp tự động toàn phần
Đây là dạng máy ấp phổ biến và nền tảng cho các công nghệ tiên tiến sau này.
Máy được trang bị bộ điều khiển vi xử lý (microcontroller) hoặc PLC, có khả năng tự động điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm và đảo trứng theo chương trình lập sẵn.
Ưu điểm nổi bật là tính ổn định và độ chính xác cao. Nhiệt độ trong buồng ấp luôn
được duy trì đồng nhất nhờ hệ thống quạt
đối lưu cưỡng bức, trong khi khay trứng
được đảo 450C mỗi 2 giờ để tránh phôi dính
vỏ. Một số dòng máy cao cấp tích hợp cảm biến CO₂ và hệ thống báo động khi vượt
ngưỡng cho phép. Công nghệ này đặc biệt
phù hợp với các cơ sở ấp quy mô vừa và nhỏ, vì dễ vận hành, tiết kiệm nhân công mà vẫn
đạt tỷ lệ nở từ 90 - 94% nếu trứng đạt chuẩn.
Công nghệ ấp đa giai đoạn
Ấp đa giai đoạn (multi-stage incubation)
là giải pháp truyền thống nhưng vẫn được duy trì ở các trại giống lớn vì hiệu quả tiết kiệm năng lượng. Trong cùng một buồng ấp có thể chứa trứng ở nhiều độ tuổi phôi khác nhau. Nhiệt lượng tỏa ra từ phôi lớn tuổi được tận dụng để sưởi cho phôi nhỏ tuổi, giúp giảm chi phí điện 15 -20%.
Hệ thống này duy trì được nhiệt độ trung bình ổn định, đặc biệt hữu ích với các nhà máy ấp quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của nó là khó điều chỉnh tối ưu riêng biệt cho từng giai đoạn phát triển phôi. Vì vậy, cần kỹ sư ấp có kinh nghiệm và hệ thống cảm biến chính xác để đảm bảo không gây sốc nhiệt cho phôi mới.
Công nghệ ấp đơn giai đoạn
Trái ngược với phương pháp trên, ấp đơn giai đoạn (single-stage incubation) cho phép ấp toàn bộ trứng cùng độ tuổi phôi trong một buồng. Công nghệ này đang là tiêu chuẩn của các nhà máy giống hiện đại tại châu Âu, Mỹ và Việt Nam.
Ưu điểm lớn nhất là khả năng tối ưu môi trường riêng cho từng giai đoạn phát triển phôi. Giai đoạn đầu, máy duy trì nhiệt độ cao (37,80C) để kích thích phân chia tế bào;
giữa kỳ, giảm nhẹ để ổn
định trao đổi chất; cuối kỳ, tăng ẩm và thông khí
mạnh để hỗ trợ mổ vỏ. Nhờ kiểm soát độc
lập từng mẻ ấp, phôi phát triển đồng đều, tỷ lệ nở đạt tới 95 - 97%, con non khỏe mạnh, lông mịn, ít dị tật và đồng đều về khối lượng. Một số hệ thống tiêu biểu như
Petersime BioStreamer, HatchTech, Chick Master hiện đang được áp dụng trong các nhà máy ấp lớn tại Việt Nam như Dabaco, De Heus và Japfa.
Công nghệ ấp trứng thông minh (Smart Incubation - IoT & AI)
Máy ấp thông minh sử dụng mạng cảm biến IoT để đo và ghi dữ liệu liên tục về nhiệt độ, độ ẩm, CO₂, tốc độ gió và thậm chí cả nhịp tim phôi. Người vận hành có thể giám sát và điều chỉnh từ xa qua điện thoại, máy tính bảng hoặc phần mềm trung tâm, đồng thời lưu trữ dữ liệu hàng chục mẻ ấp để phân tích xu hướng, điều chỉnh công thức ấp phù hợp từng dòng giống.
Một số hệ thống tiên tiến ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích hành vi phát triển của phôi theo thời gian thực, từ đó tự động điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm và thông khí mà không cần can thiệp thủ công. Điển hình là công nghệ SmartStart (HatchTechHà Lan), có khả năng cung cấp ánh sáng, khí tươi và thức ăn sớm cho gà con ngay trong buồng nở, giúp con non phát triển khỏe mạnh hơn, giảm stress sau nở và tăng khả năng sống trong 72 giờ đầu.
Công nghệ khử trùng và xử lý trứng bằng tia UV - Ozone Để kiểm soát mầm bệnh như E. coli, Salmonella và nấm mốc, nhiều hệ thống ấp hiện đại tích hợp bộ
UV-C hoặc ozone. Không khí và bề mặt trứng được khử trùng liên tục trong quá trình ấp, giúp loại bỏ đến 95% vi khuẩn mà không để lại dư lượng hóa chất. Nhờ đó, giảm đáng kể các bệnh viêm rốn, viêm túi noãn hoàng và nhiễm trùng huyết ở gà con. Một số nhà máy giống sử dụng hệ thống lọc khí HEPA kết hợp ozone để đảm bảo môi trường ấp đạt tiêu chuẩn SPF phục vụ cho sản xuất giống cao cấp hoặc vaccine gia cầm.
Phần mềm điều khiển và quản lý dữ liệu ấp
Song song với phần cứng, các hãng sản xuất máy ấp hiện nay phát triển phần mềm quản lý dữ liệu ấp trứng chuyên dụng. Mỗi mẻ ấp được gán mã định danh riêng, ghi nhận biểu đồ nhiệt - ẩm, số lần đảo trứng, thời điểm mổ vỏ và tỷ lệ nở.
Phần mềm có thể tự động cảnh báo sự cố, dự báo xu hướng lệch nhiệt, thậm chí gợi ý thay đổi chế độ ấp cho các giống trứng khác nhau (gà, vịt, ngan, cút…). Một số hệ thống còn kết nối dữ liệu giữa nhiều nhà máy ấp, giúp quản lý tập trung, giảm sai sót trong vận hành và truy xuất nguồn gốc giống.
HOÀNG NGÂN
YÊU CẦU TRONG CHĂN NUÔI VỊT
THEO HƯỚNG HỮU CƠ
Chăn nuôi vịt đẻ trứng theo hướng hữu cơ đang được nhiều bà con lựa chọn nhờ sản phẩm an toàn và thân thiện môi trường. Để đạt hiệu quả, cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về địa điểm, thức ăn hữu cơ và phòng bệnh cho đàn vịt.
Địa điểm
- Khu vực chăn nuôi phải cách xa đường giao thông, khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp và cộng đồng dân cư, trường học, bệnh viện, chợ, nguồn nước sinh hoạt.
- Khu vực chăn nuôi hữu cơ phải được khoanh vùng, có hàng rào vật lý tách biệt với khu vực không sản xuất hữu cơ, cách xa khu vực môi trường bị ô nhiễm hoặc khu tập kết, xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, bệnh viện.
Chuồng trại
Phải đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông, chuồng không bị mưa hắt,
nắng không chiếu vào ổ đẻ. Các ô chuồng không nên làm quá rộng, ngăn thành ô tối đa 200 con vịt. Sân chơi bằng phẳng, không đọng nước. Có thể lát gạch hoặc bê tông.
Đối với nuôi thả trên vườn cây, nuôi trên ao, nuôi ở bãi chăn thả... phải có vây để quây vịt cho cố định, không nên thả rông.
Diện tích chuồng tối thiểu: 6 con/m2; Diện tích tối thiểu ngoài trời (m2 tính theo chu kỳ/vật nuôi): 1 con/4 m2 và lượng nitơ (N) tối đa 170 kg/ha/năm. Mật độ tối đa cho vật nuôi chăn thả ngoài trời: 580 con/mỗi ha, tương đương với lượng nito (N) tối đa 170 kg/ha/năm.
Vịt phải nuôi trong không gian mở, thích hợp cho việc vận động, không được nuôi nhốt trong lồng.
Chuẩn bị đầy đủ máng ăn máng uống cho vịt. Độn chuồng bằng trấu hoặc phôi bào hoặc rơm rạ băm nhỏ nhưng không bị hôi mốc.
Con giống - Vịt giống phải được ấp nở từ các trại chăn nuôi theo tiêu chuẩn hữu cơ hoặc phải là con của các đàn bố mẹ được nuôi dưỡng theo các điều kiện của tiêu chuẩn hữu cơ. Nếu vịt giống từ các nguồn không nuôi theo phương pháp hữu cơ có thể đưa vào nuôi phải ít hơn 3 ngày sau khi ấp nở. - Thích nghi với điều kiện địa phương, ưu tiên sử dụng các nguồn gốc giống vịt hướng trứng: Vịt Triết Giang, vịt Đại Xuyên, vịt cỏ…
- Nên sử dụng các phương pháp sinh sản tự nhiên, không dùng kỹ thuật ghép phôi và biện pháp xử lý sinh sản bằng hormone; không được dùng kỹ thuật gen trong việc nhân giống.
Thức ăn
Thức ăn nuôi vịt hữu cơ phải được làm từ nguyên liệu hữu cơ 100% (trong đó cơ sở phải tự cung cấp tối thiểu 50% lượng thức ăn bao gồm cả thức ăn được liên kết sản xuất với cở sở sản xuất hữu cơ trong khu vực), sử dụng các nguyên liệu như cám gạo, ngô nghiền, bột đậu tương... được trồng theo phương pháp hữu cơ có thể bổ sung thêm bột cá nhưng phải đảm bảo về nguồn gốc. Việc phối trộn thức ăn phải phù hợp với từng giai đoạn của vịt.
- Trong thời gian chuyển đổi, phải sử dụng tỷ lệ thức ăn hữu cơ không ít hơn 65% (tính theo khối lượng chất khô).
- Thức ăn không chứa các vi sinh vật biến đổi gen và sản phẩm của chúng; Không có thuốc kháng sinh hóa học tổng hợp, không có chất kích thích tăng trưởng hoặc chất kích thích sinh sản; Chủ yếu có nguồn gốc từ thực vật, khoáng chất hoặc động vật trừ thủy sản, các sản phẩm từ thủy sản; Có thể sử dụng các loại Probiotic, enzyme và vi sinh vật, muối biển, muối mỏ, nấm men, đường
và các sản phẩm từ đường, mật ong làm phụ gia và chế biến hỗ trợ
ủ chua, các chất này không được có nguồn gốc từ các sinh vật biến
đổi gen; Khuyến cáo nên sử dụng nguyên liệu và phụ gia chế biến đảm bảo yêu cầu.
- Khi sử dụng các loại thức ăn phải lưu ý không được mốc và ôi chua. Khi sử dụng bất kỳ loại thức ăn nào đều phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng/kg phù hợp cho từng giống vịt và từng giai đoạn vịt.
Nước uống
Vật nuôi cần phải được uống đủ nước, đảm bảo theo QCVN 0139:2011/BNNPTNT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh nước dùng trong chăn nuôi.
Phòng bệnh
Sử dụng một số loại cây thuốc nam, cây thảo dược như khổ sâm cho lá, nhọ nồi, phèn đen, búp ổi, rau ngót, rau khoai lang.
Sử dụng kháng sinh tự nhiên (tỏi) để phòng bệnh: 1 tháng sử dụng 3 đợt, mỗi đợt 4 - 5 ngày liên tục (trộn vào thức ăn, nước uống).
Có thể sử dụng các loại kháng sinh thảo dược, hiện có bán rộng rãi trên thị trường (kháng sinh thảo dược ALLICIN, HN thảo dược…) để phòng, trị bệnh.
Nếu vật nuôi bị ốm hay bị thương cần phải điều trị và cách ly ở nơi thích hợp. Cơ sở chăn nuôi phải sử dụng thuốc điều trị cho vật nuôi để tránh làm vật nuôi đau đớn không cần thiết, mặc dù việc dùng thuốc làm mất trạng thái hữu cơ. Ưu tiên sử dụng các sản phẩm thảo dược, các nguyên tố vi lượng, các chất khoáng và các phụ gia với mục đích dinh dưỡng.
SÁCH
Nghề nuôi chim yến
Cuốn sách “Nghề nuôi chim yến” là tài liệu hữu ích dành cho những ai quan tâm, đang tìm hiểu hoặc muốn đầu tư vào lĩnh vực đầy triển vọng này. Sách cung cấp kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về kỹ thuật nuôi yến trong nhà - một mô hình đặc thù đòi hỏi sự am hiểu và đầu tư bài bản. Tác giả trình bày chi tiết
về tập tính sinh học của chim yến, cách xây dựng nhà yến phù hợp, kỹ thuật dẫn dụ và chăm sóc đàn yến, cùng những yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng tổ. Bên cạnh đó, sách cũng đưa ra những phân tích
về hiệu quả kinh tế, rủi ro tiềm ẩn và các kinh nghiệm thực tiễn từ người nuôi yến thành công. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành!
Nếu sử dụng sản phẩm trên không đạt hiệu quả thì có thể dùng thuốc kháng sinh, thuốc thú y tổng hợp do cán bộ thú y chỉ định với thời gian đào thải gấp đôi hướng dẫn của nhà sản xuất và trong trường hợp tối thiểu là 48h. Trừ trường hợp tiêm và điều trị ký sinh trùng.
Quản lý chất thải
Đối với việc thu gom, xử lý các chất thải chăn nuôi được xử lý theo quy định tại Thông tư số 12/2021/TT-BNNPTNT ngày 26/10/2021 của Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về Hướng dẫn việc thu gom, xử lý chất thải chăn nuôi, phụ phẩm nông nghiệp tái sử dụng cho mục đích khác.
Xung quanh chuồng trại trồng nhiều cây xanh để tạo hàng rào sinh thái trong chăn nuôi hướng hữu cơ.
Ghi chép, lưu giữ hồ sơ, truy xuất nguồn gốc và
Tổ chức và cá nhân chăn nuôi vịt phải ghi chép đầy đủ nhật ký sản xuất: số lượng vịt nhập vào, bán ra; giấy chứng nhận nguồn gốc vịt; tình trạng sức khỏe, dịch bệnh trên đàn vịt và nguyên nhân; tất cả các kết quả kiểm tra, xét nghiệm của phòng thí nghiệm; tình hình sử dụng thức ăn chăn nuôi, hóa chất, vaccine và sử dụng thuốc điều trị bệnh, thuốc thú y đã dùng và thời gian đào thải thuốc. Sổ ghi chép phải được lưu lại ít nhất 1 năm kể từ ngày đàn vịt được bán hay chuyển đi nơi khác hoặc lâu hơn nếu có yêu cầu của khách hàng hoặc cơ quan quản lý. Khi xuất chuồng, ghi chép rõ thời gian, người mua, nơi vịt chuyển đến và lưu giữ hồ sơ cho từng lứa vịt của từng chuồng để dễ dàng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
BÁCH KHOA THƯ
Bồ câu Nicoba
Thuộc loài Nicobarica, chi
Caloenas, họ Columbiformes, bộ bồ câu Columbidae. Chúng được tìm thấy tại các hòn đảo nhỏ yên tĩnh và vùng biển tại quần đảo Nicobar tới đảo Mã Lai, Solomon và cả Palau. Tại Việt Nam, chúng được gọi với những cái tên dễ nhớ hơn như bồ câu lông cổ, bồ câu kền kền hay bồ câu đuôi trắng. Chúng chỉ được tìm thấy ở Côn Đảo, TP Hồ Chí Minh. Điểm đáng chú ý ở loài bồ câu Nicoba là bộ lông đặc biệt. Màu xanh kim loại pha ánh đồng bí ẩn của bộ lông khiến chúng nhận được sự quan tâm của nhiều người. Khi trưởng thành, loài bồ câu này có chiều dài khoảng 34 cm. Thức ăn chủ yếu của chúng là những trái cây rừng, đặc biệt là những hạt rất cứng và một vài động vật không xương sống ở mặt đất. Hiện, bồ câu Nicoba là loài chim quý hiếm được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam và quốc tế. HUYỀN THƯƠNG
Phòng bệnh Leucosis ở gà
Bệnh Leucosis ở gà là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Việc chủ động phòng bệnh bằng các biện pháp an toàn sinh học và kiểm soát nguồn giống
là yếu tố then chốt giúp bảo vệ đàn gà hiệu quả.
Nguyên nhân
Virus gây bệnh Leucosis trên gà (Avian Leucosis Virus - ALV) là tác nhân gây bệnh nghiêm trọng trên gà, virus lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ năm 1989. Vius thuộc chi Alpharetrovirus, nhóm Retroviridae.
Bệnh đã được báo cáo ở rất nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Trong khi ở Việt Nam các nghiên cứu về tỷ lệ phát hiện bệnh, đặc tính sinh học phân tử chủng virus ALV gây bệnh lưu hành còn hạn chế. Kết quả nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ sinh học thú y từ 2019 đến 2022, đã xác
định được 86 mẫu dương tính với virus ALV trong số 105 ca bệnh từ gà được thu thập tại 12 tỉnh phía Bắc dương tính với ALV bằng phương pháp RT-PCR chiếm tỷ lệ 81,9%.
Đặc điểm dịch tễ
Đối tượng nhiễm bệnh: Chủ yếu là gà và gà Tây. Trong các loại gà thì gà Leghorn thường bị nhiễm nặng hơn. Ngoài ra một số báo cáo cho rằng chim cút cũng mẫn cảm với bệnh này. Tỷ lệ chết từ 5 - 15%. Bệnh có hầu hết ở các nước trên thế giới có chăn nuôi gà, nhất là gà công nghiệp.
Đường lây truyền: Bệnh chủ yếu lây truyền qua trứng (virus từ gà mẹ truyền qua trứng cho gà con); Truyền ngang từng đàn giữa con bệnh với con khỏe, do mầm bệnh có trong môi trường vào cơ thể con khỏe; Lây truyền từ các loại vaccine nhược độc (dịch tả, đậu Marek) được chế từ phôi gà đã nhiễm bệnh từ gà mẹ truyền vào trứng; Lây truyền qua các dụng cụ chăn nuôi, chuồng trại đã bị nhiễm bệnh.
Cơ chế gây bệnh: Virus xâm nhập vào cơ thể hoặc có sẵn trong cơ thể gà sẽ nhân lên nhanh chóng, tấn công vào các tế bào Lympho đồng thời tấn công vào túi Fabricius, gây giảm miễn dịch và hình thành các khối u. Một số trường hợp, gà mắc bệnh không xuất hiện khối u và không gây chết
nhưng giảm khả năng sinh trưởng và phát triển, đồng thời rất nguy hiểm vì là vật mang trùng, truyền bệnh qua trứng sang gà con và bài thải mầm bệnh ra môi trường làm lây lan dịch bệnh.
Triệu chứng
Bệnh tích của gà mắc bệnh Leucosis (A: Gan sưng to, quan sát thấy u trên bề mặt; B: Lách sưng; C: Buồng trứng có nhiều u cục; D: Thận có nhiều u hạt).
Thời gian ủ bệnh tùy thuộc vào chủng, số lương virus, đường xâm nhập, tuổi và đặc tính di truyền của vật chủ. Trong phòng thí nghiệm, thời gian ủ bệnh trong vòng 5 - 7 tuần, nhưng trong thực tế thời gian ủ bệnh từ 10 - 20 tuần hoặc dài hơn. Sau khi nhiễm bệnh dù bằng con đường nào (gà mẹ truyền qua trứng, từ môi trường ngoài...), mầm bệnh cũng xâm nhập vào túi Fabricius cho đến khi gà lớn phát triệu chứng. Lúc này túi Fabricius to gấp 2 lần (4 tháng tuổi trở lên), đồng thời virus mới gây khối u ở trong các cơ quan nội tạng. Nhưng có một số con có các biểu hiện như kém ăn, gầy nhanh, ủ rũ, tiêu chảy, mào tích nhợt nhạt, tỷ lệ gà chết cao. Có thể kế phát các bệnh truyền nhiễm khác. Ở gà đẻ, tỷ lệ đẻ giảm rõ rệt.
Bệnh tích
Thể trạng gà bệnh gầy, nhợt nhạt. Hiện tượng tăng sinh tế bào tạo u cục ở nhiều cơ quan nội tạng của gà bệnh, đầu tiên xuất hiện ở túi Fabricius sau đó ở gan, lách, thận, màng treo ruột, tim và buồng trứng.
Xuất huyết nội do vỡ các khối u trên cơ quan nội tạng như gan, lách, thận… hoặc xuất huyết ngoài da, có thể rụng lông ống, do máu khó đông dẫn đến mất máu rất nhiều và gây chết gà.
Xương bị dày lên nhưng xoang tủy xương không thay đổi.
Nguồn: Khoa Công nghệ sinh học - Học Viện Nông nghiệp Việt Nam
Chẩn đoán
Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình ở gà bệnh như: kém ăn, gầy nhanh, ủ rũ, tiêu chảy, mào tích nhợt nhạt; máu loãng khó đông; khi mổ khám thấy u cục ở túi Fabricius, gan, lách, thận, màng treo ruột, tim và buồng trứng…
Cần chẩn đoán phân biệt bệnh với các bệnh khác như: Bệnh ký sinh trùng đường máu và bệnh Marek.
Để chẩn đoán chính xác, cần xét nghiệm tế bào: Tìm các tế bào ung thư ở túi Fabricius, gan, lách, thận, tim, màng treo ruột và buồng trứng.
Phòng bệnh
Bệnh do virus gây ra nên hiện chưa có biện pháp chữa trị. Điều quan trọng là nâng cao nhận thức về bệnh Leucosis và thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm và bảo vệ sức khỏe cho đàn gà.
Tại các trại ấp, đảm bảo kiểm tra kháng thể ở đàn gà bố mẹ để loại bỏ những đàn dương tính với virus. Điều này giúp giảm nguy cơ lây nhiễm từ mẹ sang con và đảm bảo đàn gà thương phẩm an toàn và sạch bệnh.
Tăng cường vệ sinh trong ấp nở trứng gà, đặc biệt là không ấp nở trứng của đàn gà bị nhiễm bệnh. Khử trùng máy ấp nở và các
▶ Bệnh Leuco ở gà không thể điều trị, do đó người chăn nuôi cần thường xuyên theo dõi và kiểm tra đàn gà để phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh, từ đó giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và đảm bảo sức khỏe cho đàn gà.
dụng cụ ấp nở để ngăn ngừa sự lây lan virus.
Chọn những dòng gà có khả năng đề kháng với bệnh hoặc ít nhiễm bệnh để nuôi là tốt nhất. Mua gà giống từ cơ sở chăn nuôi an toàn với các bệnh truyền nhiễm trong đó có bệnh Leuco.
Tất cả vaccine sản xuất từ phôi gà phải lấy từ gà không nhiễm bệnh Leuco.
Đảm bảo vệ sinh trong chăn nuôi, thực hiện trống chuồng sau mỗi lứa nuôi, vệ sinh, khử trùng chuồng trại và dụng cụ, thiết bị chăn nuôi.
Thực hiện an toàn sinh học nghiêm ngặt trong trại và trong quá trình ra vào trại để ngăn chặn việc lây nhiễm mầm bệnh từ môi trường bên ngoài vào. Đặc biệt cần chú ý đến các loài chim hoang dã có thể là nguồn lây nhiễm nguy hiểm.
Không nuôi chung gà nhỏ với gà lớn, hoặc các giống gà khác nhau trong cùng một khu vực để giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm.
Cho gà ăn khẩu phần đủ chất dinh dưỡng, thức ăn không ẩm, mốc không biến chất. Nước uống sạch, không có độc chất và thay thường xuyên tránh để gà mắc bệnh về tiêu hóa. Bổ sung thêm các loại vitamin; chất khoáng, chất điện giải giúp gà tăng thêm sức đề kháng.
Sớm phát hiện đàn gà mắc bệnh để cách ly và xử lý kịp thời, hạn chế phát tán mầm bệnh ra môi trường và lây lan bệnh qua ấp nở hoặc chăn nuôi.
Loại bỏ tuyến Bursa (túi Fabricius) trước 5 tháng tuổi bằng cách giải phẫu hoặc tiêm thuốc vào đó sẽ loại trừ được thể ẩn tính của bệnh.
THÁI THUẬN
Giải pháp biến sinh khối biển
thành
thực phẩm và thức ăn chăn nuôi
Ra mắt vào tháng 9/2025, MARMADE là một dự án nghiên cứu của châu Âu nhằm phát triển các nguyên liệu bền vững, có giá trị cao cho thực phẩm và thức ăn chăn nuôi thông qua việc nâng cao giá trị sinh khối biển. Cụ thể, dự án tập trung vào việc xử lý phế liệu giáp xác (như vỏ tôm và cua xanh) và rong biển (các loài xanh lá cây, đỏ và nâu).
Dự án MARMADE kéo dài bốn năm
được tài trợ bởi Liên doanh Châu Âu về Sản xuất Sinh học Tuần hoàn (CBE JU), một quan hệ đối tác giữa Liên minh Châu Âu và Liên đoàn Công nghiệp Sinh học (BIC).
MARMADE quy tụ 11 đối tác từ 7 quốc gia châu Âu, kết hợp sự xuất sắc về khoa học với chuyên môn trong ngành. Thông qua quy trình tinh chế sinh học tiên tiến, MARMADE sẽ chiết xuất các hợp chất hoạt tính sinh học để thiết kế các nguyên mẫu thực phẩm và thức ăn chăn nuôi tiên tiến với đặc tính dinh dưỡng được cải thiện. Đồng thời, MARMADE sẽ đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, bền vững và quy định cao nhất, mở đường cho việc tiếp nhận thị trường trong tương lai. Dự án MARMADE hướng đến phát triển các thành phần thực phẩm và thức ăn chăn nuôi bền vững, có giá trị cao từ sinh khối biển, tập trung vào các phế phẩm giáp xác (vỏ tôm và cua xanh) và rong biển. Mục tiêu chính là: 1) Thiết lập các quy trình tinh chế sinh học hiệu quả để chiết xuất các thành phần (tiền sinh học/hậu sinh học, vitamin, peptide, oligosaccharide, chất béo, chất nhũ hóa và chất tăng cường khả năng tiêu hóa); 2) Phát triển các nguyên mẫu thực phẩm và thức ăn chăn nuôi tiên tiến với các đặc tính dinh dưỡng và cảm quan được cải thiện; 3) Đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, bền vững và quy định, mở đường cho việc tiếp cận thị trường trong tương lai.
Để đạt được những mục tiêu này, MARMADE sẽ tận dụng các công nghệ tiên tiến, bao gồm Dung môi eutectic sâu (DES), Chiết xuất CO2 siêu tới hạn, xử lý áp suất cao động (ví dụ: vi lưu hóa, đồng nhất hóa áp suất cao), nghiền ướt, ép trục vít, siêu âm và tạo bọt khí, để tối ưu hóa hiệu quả chiết xuất và duy trì độ tinh khiết của các thành
phần thực phẩm và thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc sinh học. Các thành phần chính sẽ được xác nhận thông qua thử nghiệm in vitro và in vivo, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, trong khi hiểu biết sâu sắc của người tiêu dùng và người dùng cuối sẽ định hướng thiết kế sản phẩm để đảm bảo thị trường chấp nhận, theo cách tiếp cận đa chiều.
MARMADE phù hợp với chủ đề RIA-05, giải quyết nhu cầu về nguyên liệu thực phẩm và thức ăn chăn nuôi sinh học bền vững, giá cả phải chăng. Dự án hỗ trợ các mục tiêu của Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn và Kế hoạch Hành động Không Ô nhiễm bằng cách nâng cao giá trị tài nguyên biển và giảm sự phụ thuộc vào các nguyên liệu hóa dầu. Dự án đóng góp vào chiến lược từ nông trại đến bàn ăn bằng cách nâng cao giá trị dinh dưỡng của các sản phẩm thực phẩm và phù hợp với Chiến lược Kinh tế Sinh học của Liên minh Châu Âu bằng cách thúc đẩy các quy trình chiết xuất sinh học theo tầng. Ngoài ra, MARMADE thúc đẩy tính bền vững môi trường bằng cách tích hợp Thiết kế An toàn và Bền vững (SSbD).
TĂNG SANG (Theo Thefishsite)
TRIỂN VỌNG
THỨC ĂN
CHĂN NUÔI KHÔNG KHÔ ĐẬU
Trước xu hướng siết chặt quy định bền vững, việc sản xuất thức ăn chăn nuôi không dùng khô
trở nên tất yếu, nhưng cũng đầy thách thức về dinh dưỡng và công nghệ.
Từ nhiều thập kỷ nay, khô đậu nành
được xem là “vua” của các nguồn đạm thực vật trong thức ăn chăn nuôi, nhờ hàm lượng protein cao (44 - 48%), dễ tiêu hóa và giàu lysine - axit amin thiết yếu cho heo và gia cầm, đặc biệt khi kết hợp cùng ngô. Tuy nhiên, việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu này đang đặt ra loạt vấn đề: biến động giá, phụ thuộc nhập khẩu và trên hết là tác động môi trường do nạn phá rừng và phát thải carbon ở các nước xuất khẩu lớn.
Chính vì vậy, Liên minh châu Âu (EU) đang thúc đẩy các sáng kiến giảm nhập khẩu nguyên liệu liên quan đến phá rừng, buộc ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi phải tìm kiếm nguồn protein thay thế. Các quốc gia khác phụ thuộc vào nhập khẩu khô đậu cũng theo dõi sát xu hướng này, mở ra làn sóng nghiên cứu và thử nghiệm nhiều lựa chọn mới.
Không thiếu nhưng cần chọn lọc
Khô cải dầu (canola meal) có hàm lượng đạm 35 - 40% và thành phần axit amin tương đối cân đối, tuy nhiên thiếu lysine so với khô đậu nành. Chất glucosinolate có thể ảnh hưởng đến tuyến giáp và giảm độ ngon miệng, nhưng nhờ lai tạo giống mới, yếu tố chống dinh dưỡng này đã giảm đáng kể. Ở Canada, một số giống canola lai thậm chí có thể thay thế hoàn toàn khô đậu nành mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng vật nuôi.
Khô dầu hướng dương chứa hàm lượng đạm dao động 28 - 42% tùy mức bóc vỏ, song tỷ lệ xơ cao hạn chế sử dụng cho heo và gia
cầm. Bù lại, đây là nguồn protein bổ sung tốt
cho gia súc nhai lại, có sẵn tại nhiều khu vực và phù hợp trong khẩu phần cân bằng. Tuy nhiên, chất lượng khô hướng dương giữa các nước sản xuất còn không đồng đều.
Trong khi đó, đạm từ đậu Hà Lan và cây họ đậu chứa 23 - 25% protein thô, giàu lysine nhưng thiếu methionine và cysteine - hai axit amin chứa lưu huỳnh. Dễ tiêu hóa và ít yếu tố chống dinh dưỡng hơn so với nhiều loại đậu khác, đậu Hà Lan có thể thay thế một phần khô đậu nành trong khẩu phần heo và gia cầm nếu cân đối năng lượng và axit amin hợp lý.
Bột gluten ngô là sản phẩm phụ của công nghiệp tinh bột ngô, chứa khoảng 60% protein, giàu axit amin chứa lưu huỳnh nhưng thiếu lysine. Do năng lượng cao, nó phù hợp cho gia cầm, song cần bổ sung nguồn lysine tổng hợp hoặc phối hợp với nguyên liệu khác.
Nguồn đạm từ bột thịt, bột xương hay phụ phẩm gia cầm có giá trị dinh dưỡng cao (PAPs), từng bị hạn chế do lo ngại bệnh bò điên (BSE), nhưng nay được tái sử dụng trong điều kiện kiểm soát an toàn nghiêm ngặt. PAPs đặc biệt hiệu quả với vật nuôi đơn dạ dày, dù các nhà máy thức ăn vẫn còn e dè trong ứng dụng đại trà.
Vượt rào cản và giới hạn
Việc rời bỏ khô đậu nành không đơn giản, bởi các nguồn thay thế thường thiếu hoặc thừa axit amin thiết yếu, buộc phải bổ sung axit amin tổng hợp - vốn đắt đỏ và không phải lúc nào cũng sẵn có. Một số nguyên liệu chứa tannin, glucosinolate hay
chất ức chế enzyme tiêu hóa. Các phương pháp xử lý nhiệt, ép đùn hoặc lên men giúp giảm tác động này, song làm tăng chi phí. Ngoài ra, ở những nơi khô đậu nành rẻ và dồi dào, các nguyên liệu thay thế khó cạnh tranh. Trong khi đó, việc mở rộng sản xuất các nguồn đạm mới như côn trùng hay cây họ đậu đòi hỏi đầu tư hạ tầng, chuỗi cung ứng và diện tích trồng trọt đáng kể.
Để thay thế khô đậu nành mà không ảnh hưởng đến năng suất, các nhà sản xuất cần: Phối trộn nhiều nguồn đạm có cấu trúc axit amin bổ sung cho nhau; Bổ sung axit amin tổng hợp để điều chỉnh cân bằng dinh dưỡng đến cấp độ 10 axit amin thiết yếu, thay vì chỉ bốn hoặc năm như thông thường; Cải tiến công nghệ xử lý nguyên liệu như lên men, giúp tăng khả năng tiêu hóa và giảm ANFs; Ứng dụng dinh dưỡng chính xác nhằm tối ưu hóa hiệu quả sử dụng dưỡng chất và giảm lãng phí.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tiềm năng của các công thức “không khô đậu nành”. Thí nghiệm với đậu Hà Lan và khô cải dầu trong khẩu phần heo cho thấy không ảnh hưởng đến tăng trọng nếu khẩu phần được cân đối tốt. Protein côn trùng từ ấu trùng ruồi lính đen hay sâu meal có thể thay thế đạm đậu nành trong thức ăn gia cầm mà không giảm hiệu quả tăng trưởng. Những kết quả này cho thấy tầm quan trọng của công thức dinh dưỡng linh hoạt và tiếp tục nghiên cứu để khai thác tối đa giá trị của các nguồn đạm thay thế. MI LAN
(Theo Allaboutfeed)
Công nghệ gen mở đường protein côn trùng
Dù nhiều doanh nghiệp phá sản và giới đầu tư ngày càng hoài nghi, các nhà khoa học tin rằng ngành protein côn trùng vẫn còn tiềm năng bứt phá nhờ những tiến bộ trong chọn giống và công nghệ di truyền.
Chìa khóa giải mã gen
Ngành nuôi côn trùng công nghiệp vẫn còn non trẻ và nghiên cứu về lĩnh vực này cũng mới ở giai đoạn khởi đầu, chủ yếu mang tính ứng dụng. Theo chuyên gia Jeffery Tomberlin, phần lớn các thí nghiệm hiện nay chỉ dừng ở việc “thử và xem” các nhà khoa học chọn ruồi lính đen, áp dụng một biện pháp nào đó rồi ghi nhận kết quả. Do thiếu nền tảng nghiên cứu cơ bản về sinh lý học côn trùng, những thử nghiệm như vậy chẳng khác nào “bắn trong bóng tối”.
Dù vậy, không ít nghiên cứu vẫn mang lại kết quả đáng chú ý, giúp tăng năng suất tới 20%, minh chứng rằng ngành này còn cách
xa ngưỡng hiệu quả tối đa. Tomberlin cho rằng, nếu các nghiên cứu cơ bản được thúc
đẩy, các nhà khoa học ứng dụng có thể hiểu rõ hơn cơ chế sinh học, từ đó xác định hướng
cải tiến hiệu quả hơn. Ông nhận định vài năm
gần đây, giới khoa học đã bắt đầu quan tâm mạnh mẽ hơn đến nghiên cứu nền tảng này.
Tại Đại học Indiana Indianapolis (Mỹ), các nhà khoa học đang đi sâu vào giải mã bộ gen của ruồi lính đen. Theo Giáo sư sinh học Christine Picard, dù công trình vẫn ở giai đoạn đầu, nhưng đã mở ra nhiều triển vọng mới. Phòng thí nghiệm của bà sử dụng công nghệ giải trình tự gen và kỹ thuật di truyền để hỗ trợ chọn giống có định hướng, giúp cải thiện đặc tính sinh học mà không cần tạo ra sinh vật biến đổi gen (GMO). Nhóm nghiên cứu bắt đầu bằng việc xác định các gen liên quan đến những đặc tính mong muốn như tốc độ sinh trưởng hoặc hiệu quả chuyển hóa thức ăn. Sau đó, họ tiến hành chỉnh sửa từng gen để quan sát tác động thực tế ở thế hệ tiếp theo. “Có khi sự khác biệt rất nhỏ, nhưng cũng có lúc mang lại thay đổi lớn. Và khi phát hiện ra yếu tố tạo khác biệt, ta biết ngay nên tập trung vào đâu”, bà Picard nói.
Bằng cách lai chọn các cá thể tự nhiên mang gen mục tiêu, các nhà khoa học có thể rút ngắn đáng kể thời gian tạo ra các dòng côn trùng ưu việt mà vẫn đảm bảo an toàn
sinh học, không cần GMO trong sản xuất thương mại. Hướng tiếp cận này còn giúp tránh những “tác dụng phụ” thường gặp trong chọn giống thuần túy, tương tự như cà chua thương mại đẹp mã nhưng nhạt vị so với giống truyền thống.
Ngoài việc tối ưu tốc độ tăng trưởng, các nhà nghiên cứu còn hướng tới việc phát triển côn trùng thích nghi khí hậu lạnh, hoặc tiêu hóa tốt hơn các nguyên liệu khó phân giải như cám gạo hay phụ phẩm nông nghiệp mà vật nuôi khác không thể sử dụng. Picard cho biết, về lâu dài, thậm chí có thể thiết kế côn trùng sản xuất dưỡng chất hoặc dược chất giá trị cao như insulin, dù hướng này đòi hỏi kỹ thuật can thiệp sâu hơn và có thể gặp rào cản chấp nhận của người tiêu dùng ở một số quốc gia.
Lợi ích kinh tế
Jeffery Tomberlin, nhà nghiên cứu hàng
đầu trong lĩnh vực côn trùng học, ủng hộ hướng tiếp cận tạo ra các dòng côn trùng mang đặc tính có giá trị cao thông qua công nghệ di truyền. Ông đang phát triển ruồi lính đen được chỉnh sửa gen để sản xuất Vitamin B12 và phân giải cellulose, loại chất xơ khó tiêu trong các loài thực vật thân gỗ.
Tomberlin nói: “Hãy tưởng tượng nếu ta tạo ra một loài côn trùng chứa 20% methionine. Tôi có thể bán giá cao hơn 20 -
30%. Khi tạo ra giá trị gia tăng, mức giá bán tự nhiên sẽ cải thiện”.
Charlie Carter, Giám đốc phát triển kinh doanh của Beta Bugs, không phản đối ý tưởng tạo ra các dòng ruồi giàu hợp chất giá trị cao, song ông cảnh báo hướng này có thể làm gia tăng rào cản pháp lý và sự dè dặt của người tiêu dùng. Với ông, hướng đi thực tế hơn là ứng dụng công nghệ di truyền để đẩy nhanh quá trình chọn giống, giúp cải thiện năng suất mà không cần can thiệp sâu vào cấu trúc gen. Trong bốn năm qua, Beta Bugs tập trung vào lai chọn truyền thống, và những dòng ruồi tốt nhất của họ hiện hiệu suất cao hơn 20% so với giống gốc. “Chúng tôi tin tiềm năng cải thiện di truyền của côn trùng vẫn còn rất lớn”, Carter nói.
Theo ông, nếu có thể tăng sản lượng trong cùng diện tích và điều kiện nuôi, ngành sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa chi phí sản xuất và giá bán cho nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, vốn là thách thức lớn nhất hiện nay. Vì thế, Beta Bugs đang ưu tiên mục tiêu tăng năng suất, đồng thời phát triển các dòng thích nghi với từng khí hậu và hệ thống nuôi cụ thể, nhằm tối ưu hóa hiệu quả toàn cầu. Tuy nhiên, chi phí của công nghệ di truyền vẫn là rào cản đáng kể. “Tạo ra một sản phẩm di truyền đắt đỏ không phải điều thị trường cần. Beta Bugs vẫn chọn tập trung vào chọn giống tự nhiên do chi phí - hiệu quả cao hơn” - Carter nói.
Tomberlin cũng cho rằng, cần thận trọng với rủi ro sinh thái nếu côn trùng biến đổi gen thoát ra ngoài môi trường. Dù vậy, ông tin rằng ngành vẫn còn dư địa cải thiện khổng lồ, ngay cả trước khi công nghệ chỉnh sửa gen đạt độ hoàn thiện.
“Công nghệ di truyền có giá trị rất lớn. Nhưng chúng ta mới chỉ chạm đến phần nhỏ trong sinh học cơ bản của côn trùng. Với vòng đời chỉ 30 ngày, tiềm năng tăng tốc phát triển của ngành này là khổng lồ”Tomberlin chia sẻ.
VŨ ĐỨC
(The Feedstrategy)
Nông dân Nghệ An làm giàu từ giống gà
đen
đặc sản vùng cao
Triển khai từ đầu năm 2025, mô hình nuôi gà H’mông thương phẩm theo hướng an toàn sinh học tại xã Quỳnh Thắng (tỉnh Nghệ An) bước
đầu mang lại kết quả khả quan, mở ra hướng phát triển chăn nuôi bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân miền bán sơn địa.
Giống gà bản địa mang lại giá trị mới
Xã Quỳnh Thắng nằm ở vùng bán sơn
địa, có điều kiện tự nhiên đa dạng, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp. Những năm gần đây, địa phương định hướng phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, sử dụng các giống bản địa có giá trị kinh tế và khả năng thích nghi cao. Trên cơ sở đó, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An đã lựa chọn triển khai mô hình “Nuôi gà H’mông thương phẩm an toàn sinh học” tại Quỳnh Thắng, đây là bước thử nghiệm cho hướng đi mới của ngành chăn nuôi địa phương.
Gà H’mông là giống gà bản địa quý, đặc trưng bởi thịt săn chắc, vị thơm ngọt, được người tiêu dùng ưa chuộng. Ưu điểm nổi bật của giống này là khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nhiệt đới, sức đề kháng cao với dịch bệnh, phù hợp với phương thức nuôi bán chăn thả. Nhờ những đặc tính đó, gà H’mông được lựa chọn làm đối tượng chủ lực trong mô hình phát triển chăn nuôi an toàn sinh học tại Quỳnh Thắng.
Theo thiết kế, mô hình được triển khai với quy mô 400 con/hộ, thời gian nuôi 4 tháng. Các hộ tham gia được hỗ trợ 50% chi phí con giống và thức ăn, đồng thời được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn quy trình nuôi, phòng bệnh và chăm sóc theo tiêu chuẩn an toàn sinh học. Chuồng nuôi được thiết kế thông thoáng, có hệ thống sát trùng và phun tiêu độc định kỳ; người và phương tiện ra vào khu vực chăn nuôi được kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế mầm bệnh.
Trong suốt quá trình nuôi, đàn gà được tiêm phòng đầy đủ, sử dụng thức ăn hỗn hợp có bổ sung chế phẩm sinh học giúp tăng sức đề kháng, cải thiện hệ tiêu hóa. Việc ghi chép, theo dõi tình hình sức khỏe và tốc độ sinh trưởng được thực hiện thường xuyên, giúp người nuôi chủ động điều chỉnh chế độ
Chủ hộ chăm sóc đàn gà H’mông tại Nghệ An.
dinh dưỡng phù hợp.
Sau 3,5 tháng triển khai, mô hình đã đạt kết quả tích cực: tỷ lệ nuôi sống đạt 93%, cao hơn hẳn so với phương thức nuôi truyền thống. Trọng lượng gà xuất chuồng bình quân 1,75 kg/con, tổng thu đạt hơn 42 triệu đồng, lợi nhuận gần 13 triệu đồng mỗi lứa nuôi.
Ông Đậu Phi Cảnh, một trong những hộ tham gia mô hình cho biết, trước đây ông nuôi gà theo cách truyền thống, thường xuyên gặp rủi ro do dịch bệnh và thời tiết.
“Từ khi áp dụng quy trình an toàn sinh học, đàn gà khỏe mạnh, lớn nhanh, tỷ lệ sống cao, chất lượng thịt cũng tốt hơn. Gà
H’mông bán rất chạy, giá ổn định, chúng tôi yên tâm mở rộng quy mô,” ông Cảnh chia sẻ. Hướng
H’mông Nghệ An
Theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ
An, thành công bước đầu của mô hình tại Quỳnh
Bùi Đức Thành
cực. Nhiều hộ dân trên địa bàn đã chủ động tìm hiểu, đăng ký tham gia mô hình. UBND xã Quỳnh Thắng cũng đang phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng Đề án nhân rộng mô hình nuôi gà H’mông cho các hộ có hoàn cảnh khó khăn, góp phần tạo sinh kế, nâng cao thu nhập.
Chính quyền cũng hỗ trợ các hộ liên kết với thương lái, nhà hàng, khách sạn và khu du lịch để tiêu thụ sản phẩm, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ. Về lâu dài, các hộ nuôi sẽ được khuyến khích liên kết thành tổ hợp tác, hợp tác xã để sản xuất theo chuỗi, đảm bảo đầu ra ổn định và từng bước xây dựng thương hiệu “Gà H’mông Nghệ An”. Trong thời gian tới, dự kiến mô hình sẽ được nhân rộng ra các xã khác trong vùng, đồng thời tăng cường tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người chăn nuôi.
MINH KHUÊ
NGÀNH TRỨNG COLOMBIA
Hành trình nhân ba tiêu thụ trong ba thập
Nhờ chiến lược phát triển bền vững, kiểm soát dịch bệnh nghiêm ngặt và các chiến dịch tiếp thị đúng đối tượng, ngành trứng Colombia đã biến quốc gia Nam Mỹ này thành một trong những nước tiêu thụ trứng bình quân đầu người cao nhất thế
Ba mươi năm trước, người dân Colombia chỉ ăn khoảng 194 quả trứng mỗi năm. Nay, con số ấy đã gần gấp ba, đưa quốc gia này vào nhóm tiêu thụ trứng cao nhất thế giới và vẫn tiếp tục tăng.
Khởi đầu nhỏ, cú hích lớn
Năm 1994, Hiệp hội Gia cầm và Trứng Colombia (FENAVI) khởi xướng chương trình check-off, khoản phí trích từ 45 trại ấp gà trên toàn quốc để tái đầu tư cho ngành. Từ đó, sản xuất và tiêu thụ trứng bắt đầu tăng tốc mạnh mẽ. Dù một phần ngân sách
được dùng cho các chiến dịch quảng bá nổi tiếng trong và ngoài nước, nhưng 80% số
tiền thu được lại được dành cho các chương trình kỹ thuật và phát triển bền vững. Chính ba trụ cột gồm công nghệ, an toàn sinh học và bền vững đã làm nên nền tảng thành công của ngành trứng Colombia.
Song song đó, việc giữ vững an toàn dịch bệnh được coi là ưu tiên sống còn. Năm 2021, Colombia công bố xóa sổ hoàn toàn bệnh Newcastle. Cũng trong năm đó, dù có 66 ổ dịch cúm gia cầm được phát hiện ở chim hoang dã và gà nuôi sau vườn, ngành trứng vẫn bảo vệ thành công đàn gà thương phẩm, giúp hoạt động sản xuất không bị gián đoạn.
Tăng tốc xanh hóa
Colombia đã chú trọng yếu tố bền vững từ trước năm 2017, nhưng đến năm đó, chương trình phát triển bền vững chính thức được triển khai và nhanh chóng trở thành trụ cột chiến lược của ngành. Sau khi đánh giá toàn diện, FENAVI xây dựng lộ trình hành động, phát động chương trình môi trường về nước và xử lý phân, mở kênh truyền thông “Giờ xanh” trên YouTube (2020), và tổ chức Hội nghị chuyên đề bền vững định kỳ hai năm một lần từ
2023. Đặc biệt, ngành trứng Colombia là ngành gia cầm đầu tiên trên thế giới được trao Chứng nhận bền vững của tổ chức độc lập Icontec.
Theo ông Gonzalo Moreno, Giám đốc điều hành FENAVI, , tính bền vững không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp mà còn giúp tạo khác biệt và nâng cao năng lực quản trị. Mô hình này được lấy cảm hứng từ ngành hoa xuất khẩu của Colombia 0 một biểu tượng thành công về sản xuất bền vững từ thập niên 1980. Hiện nay, những doanh nghiệp đạt điểm bền vững cao cũng là những đơn vị có lợi nhuận tốt nhất.
Đáng chú ý, phần lớn các trang trại trứng Colombia nằm ở vùng khô hạn, nên họ đã trở thành “chuyên gia thu hoạch nước mưa”. Khoảng 65% đàn gà tại Colombia hiện uống nước mưa, thậm chí có chất lượng cao hơn nước sinh hoạt tại nông thôn.
Truyền thông thông minh
Để hiểu rõ nhu cầu thị trường, FENAVI
hợp tác với các công ty nghiên cứu hành vi tiêu dùng trong nước. Dù cửa hàng truyền thống vẫn là kênh bán trứng chủ đạo, song tỷ trọng của chúng đang giảm, nhường chỗ cho siêu thị và chuỗi bán lẻ giá rẻ.
Giá cả vẫn là yếu tố quyết định chính, nhưng trong 5 năm qua, vai trò của thương hiệu đã tăng nhanh, đặc biệt trong nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao. Theo khảo sát năm 2025, 55,9% người tiêu dùng mua trứng vì nhu cầu thiết yếu, 13,9% vì tin tưởng chất lượng, 10,5% vì hương vị, 8,5% do giá cả, và 6,7% đơn giản vì thói quen. Từ năm 2009, FENAVI triển khai hàng loạt chiến dịch tiếp thị táo bạo: xóa bỏ “huyền thoại cholesterol”, quảng bá sự đa dạng trong chế biến, hợp tác cùng các vận động viên đoạt huy chương vàng để định vị trứng như một siêu thực phẩm. Một điểm nhấn là phim hoạt hình “Liên minh Siêu Trứng” (La Liga Super Crack) dành cho trẻ em, nơi những “siêu anh hùng trứng” chiến đấu với các loại thức ăn không lành mạnhmột cách truyền thông sáng tạo và gần gũi. Mục tiêu xuất khẩu và giảm phát thải
FENAVI dự báo sản lượng trứng Colombia sẽ tăng 6,5% trong năm tới, nâng tiêu thụ bình quân từ 365 lên 370 quả/ người. Ngành tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch kích cầu song song với mục tiêu giảm 55% phát thải khí nhà kính vào năm 2030. Colombia cũng đã bắt đầu xuất khẩu trứng và việc duy trì trạng thái an toàn dịch bệnh tuyệt đối vẫn là ưu tiên hàng đầu. Một số doanh nghiệp đang phát triển các sản phẩm chế biến từ trứng như thanh protein, đồ uống bổ sung, mở ra tiềm năng xuất khẩu ngách đầy hứa hẹn. Từ một quốc gia khiêm tốn về quy mô sản xuất, Colombia nay đã trở thành hình mẫu toàn cầu về ngành trứng hiệu quả, an toàn và bền vững - nơi mà mỗi quả trứng không chỉ là nguồn dinh dưỡng, mà còn là biểu tượng của sự đổi mới và kiên định hướng tới tương lai xanh.