Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo Phạm Thu Hồng, Nhà báo Dương Nam Anh, Nhà báo
THƯ KÝ TÒA SOẠN Kim Tiến
CỘNG TÁC NỘI DUNG
Minh Thanh, Hải Đăng, Vũ Mưa, Anh Thư, Lê Cung, Phạm Duy Tương, Phan Thanh Cường, Nguyễn Anh, Lê Hoàng Vũ, Mai Xuân Trường
KỸ THUẬT VI TÍNH
Phạm Dương
TÒA SOẠN
Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028.62777616
Email: toasoan.contom@gmail.com
Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 1, nhà A8, số 10 Nguyễn Công Hoan, P. Giảng Võ, Hà Nội Điện thoại: 0243.7713699
LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd.
Điện thoại: (028) 62.777.616
DĐ: 0944.663.828
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
ĐẶT MUA TẠP CHÍ
Điện thoại: (024) 3.771.1756
Email: vuna@thuysanvietnam.com.vn
TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG
Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG
VIETNAMMEDIA
Số 8614227979
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu
Ấn phẩm LHNB
Thưa Quý vị bạn đọc!
Thời gian qua, hoạt động nuôi tôm tại nhiều địa phương trên cả nước ghi nhận tín hiệu khởi sắc. Tuy nhiên, không ít khu vực vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của bão lũ. Tại vùng ĐBSCL, nhất là những tỉnh có lợi thế về nuôi tôm càng xanh, vụ tôm năm nay đã ghi nhận sản lượng cao và giá bán ổn định, mang về nguồn thu nhập lớn cho hàng nghìn hộ dân. Không khí phấn khởi tràn ngập các vùng quê sông nước khi người nuôi tôm vui mừng vì “trúng mùa, được giá”. Những kết quả tích cực này không chỉ giúp bà con cải thiện kinh tế mà còn củng cố niềm tin, tạo động lực để họ tiếp tục gắn bó và phát triển nghề nuôi tôm bền vững trong những năm tới. Trái ngược với niềm vui ấy, nhiều hộ nuôi tôm tại miền Trung và một số tỉnh phía Bắc lại đang chịu thiệt hại nặng nề do ảnh hưởng của các cơn bão liên tiếp trong thời gian qua. Mưa lớn kéo dài đã gây ngập úng, sạt lở thậm chí vỡ bờ ao, đầm khiến tôm chưa kịp thu hoạch bị cuốn trôi, nhiều hộ dân mất trắng tài sản. Ngoài thiệt hại về kinh tế, người nuôi còn đứng trước khó khăn trong việc tái đầu tư nhất là khi chi phí sản xuất ngày càng tăng cao và thời tiết vẫn diễn biến bất thường.
Mưa bão và thời tiết cực đoan sẽ tiếp tục là thách thức lớn với ngành tôm trong những năm tới. Tuy nhiên, thay vì coi đây là điều bất lợi cần né tránh, ngành tôm phải thay đổi tư duy, chuyển từ mô hình sản xuất phụ thuộc sang chủ động thích ứng, từ phòng ngừa bị động sang quản lý rủi ro có chiến lược và bền vững hơn.
Những nội dung này cùng nhiều thông tin hữu ích khác sẽ được giới thiệu chi tiết trong Đặc san Con Tôm phát hành tháng 10/2025. Bên cạnh đó, ấn phẩm còn gửi tới quý bạn đọc các chuyên trang, chuyên mục quen thuộc như hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm theo mùa vụ, biện pháp phòng trị một số bệnh trên tôm, thông tin thị trường, giới thiệu mô hình nuôi hiệu quả,… Mời các bạn đón đọc!
Trân trọng! BAN BIÊN TẬP
Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028.62777616
Email: toasoan.contom@gmail.com Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn www.contom.vn
Theo dòng thời sự
T14-15: Tôm càng xanh trúng mùa, được giá
Vấn đề - Sự kiện
T16-17: Thay đổi tư duy, thích ứng dài hạn
Tòa soạn - Bạn đọc
T18-19: Vốn tín dụng: Mong mỏi lớn của người dân sau bão
Thị trường xuất khẩu
T24-25: Bắt nhịp thị trường, ngành tôm hướng tới mục tiêu
3,8 tỷ USD
Nhìn ra thế giới
T30-31: Ngành tôm thế giới trước bước ngoặt lớn
Thức ăn - Dinh dưỡng
T36-37: Kháng khuẩn tự nhiên giúp kiểm soát WSSV, EHP và TPD
Khoa học - Kỹ thuật
T38: Ứng dụng chiết xuất từ rong bún trong ương tôm
T39: Xử lý bệnh phân trắng trên tôm
T40: Biện pháp phòng ngừa vi khuẩn Vibrio
Thông tin doanh nghiệp
T42-43: PRO-55: Nuôi dưỡng từng tế bào gan tôm
T44: Màu nước chuẩn: Giải pháp bền vững cho ao tôm khỏe
T45: Công nghệ Nano Bubbles: Giải pháp toàn diện cho ao tôm
T46: Xử lý nền đáy ao đất trong nuôi tôm
Mô hình điển hình
T50: “Vua tôm cù lao” và hành trình nuôi tôm bền vững
Đồng hành cùng nhà nông
T52: Giảm thiểu NH3 trong ao tôm
T53: Tối ưu khoáng, tăng năng suất tôm
THANH HÓA
Tăng giá trị từ nghề nuôi tôm
Những năm qua, người dân xã Hoằng Châu đã chủ động ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi nhiều diện tích nuôi thủy sản kém hiệu quả, nuôi tôm quảng canh trong ao đất sang nuôi TTCT công nghệ cao trong ao nổi có mái che nhằm tăng giá trị, phát triển bền vững. Điển hình là mô hình nuôi tôm công nghệ cao của ông Trương Văn Miên. Trên diện tích 1 ha, ông xây dựng 5 ao nuôi và các công trình phụ trợ. Với sản lượng tôm trung bình thu được khoảng 10 tấn/năm, sau khi trừ chi phí gia đình ông thu lãi gần 1 tỷ đồng. Theo bà Nguyễn Thị Lan, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hoằng Châu, sau khi sáp nhập 4 xã, xã Hoằng Châu có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản hơn 1.000 ha. Các mô hình nuôi tôm công nghệ cao, theo chuỗi liên kết đang cho kết quả rất khả quan. Bên cạnh giúp người dân khắc phục được những bất lợi do biến đổi khí hậu, mô hình này còn tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập đáng kể cho người dân địa phương, nhất là những lao động có tuổi đời cao, nằm ngoài diện tuyển dụng của các khu công nghiệp.
HUYỀN THƯƠNG
QUẢNG TRỊ
Tôm khỏe, lãi cao nhờ nuôi 2 giai đoạn
Trước thực tế con tôm dễ bị tác động tiêu cực bởi thời tiết, dịch bệnh, năm 2025, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Trị hỗ trợ 2 hộ dân triển khai mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn tại xã Vĩnh Thủy và xã Triệu Bình. Tại xã Vĩnh Thủy, trên diện tích 2.500 m2 sau 4 tháng nuôi, tôm đạt kích cỡ bình quân khoảng 39 con/kg, sản lượng thu hoạch trên 10,25 tấn, trừ chi phí, lợi nhuận thu về hơn 850 triệu đồng. Tương tự, tại xã Triệu Bình, với 2.500 m2 nuôi thương phẩm, mô hình cho sản lượng thu hoạch gần 7,4 tấn, kích cỡ đạt 50 con/kg, lợi nhuận đạt hơn 500 triệu đồng. Theo ông Trần Văn Dụng, xã Vĩnh Thủy, một trong hai hộ tham gia mô hình, trong nuôi tôm 2 giai đoạn, người nuôi có thể dễ dàng kiểm soát dịch bệnh, tăng tỷ lệ sống, rút ngắn thời gian nuôi. Tôm giống sau khi ương nuôi ở giai đoạn 1 đã khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều, hạn chế lây nhiễm chéo. Tôm thương phẩm có kích cỡ lớn, năng suất thu hoạch cao. Mô hình hứa hẹn sẽ giúp người nuôi thay đổi tư duy, chuyển dần qua nuôi tôm theo hướng bền vững, an toàn sinh học.
THẢO ANH
NGHỆ AN
Hàng loạt ao tôm mất trắng do bão số 10
Cơn bão số 10 (bão Bualoi) với sức gió khủng khiếp kèm mưa lớn đã tàn phá các ao tôm trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Trong số đó có gia đình anh Phạm Đình Năm (xóm 6, xã An Châu). Anh Năm có 8 ao tôm với 54 vạn con, cùng 1 máy phát, 20 máy bơm và hệ
thống bờ bao. Tất cả bị bão số 10 đánh tan tành. “Ước tính thiệt
hại khoảng 1,2 tỷ đồng. Bây giờ tôi quá rối bời, không biết bắt
đầu từ đâu”, anh Năm chia sẻ. Theo Thống kê sơ bộ của Chi cục
Thủy sản và Kiểm ngư Nghệ An, đã có trên 2.000 ha diện tích nuôi
thủy sản trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 10. Một số
địa phương có diện tích bị ảnh hưởng lớn như: Nam Đàn (478,6 ha), Hùng Châu (384 ha), Bích Hào (370 ha), Đức Châu (140 ha), Lương Sơn (117,3 ha),… Rất nhiều gia đình chưa biết bắt đầu từ
đâu để khắc phục. Tuy nhiên, họ đang cố gắng gượng dậy, kiên cường để tái sản xuất.
NGUYỄN AN
TP ĐÀ NẴNG
Nâng cao hiệu quả nuôi TTCT trên cát
Nghề nuôi TTCT trên cát tại xã Thăng Trường được hình thành nhiều năm, trải qua không ít giai đoạn thăng trầm. Thời gian gần đây, để hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả, người dân đã đầu tư hệ thống ao nuôi bài bản, áp dụng công nghệ và kỹ thuật mới vào quy trình nuôi tôm. Theo ông Trần Thanh Thôi (thôn An Trân) dù chi phí cao gấp ba lần so với nuôi trong ao đất, mô hình này lại cho thấy hiệu quả rõ rệt. Với 4 ao nuôi trên diện tích 5.000 m², nếu thời tiết thuận lợi, mỗi vụ ông có thể thu lãi khoảng 400 triệu đồng. “Nuôi tôm quan trọng nhất là môi trường nước, rồi đến con giống. Để đạt hiệu quả cao, tôi đã đầu tư ao chứa lắng, ao xử lý nước thải để thuận lợi cho vụ nuôi tôm mới”, ông Thôi chia sẻ. Không chỉ riêng ông Thôi, hộ ông Nguyễn Xuân Cần cũng đạt thành công đáng kể. Mỗi năm, ông nuôi ba vụ, cung ứng ra thị trường hơn 100 tấn tôm thịt, lợi nhuận khoảng 3 tỷ đồng sau khi trừ chi phí.
DUY MẠNH
THỪA THIÊN - HUẾ
Hướng đi mới cho vùng đất nhiễm phèn
Xã Quảng Điền (TP Huế) có diện tích đất trồng lúa ven phá bị nhiễm phèn, mặn khoảng 200 ha. Những diện tích này chỉ sản xuất lúa 1 vụ, còn lại hầu như phải bỏ hoang do lúa bị chết vì nhiễm mặn. Từ nguồn kinh phí thực hiện chính sách đất trồng lúa, vụ hè thu 2025, Trung tâm Khuyến nông TP Huế triển khai mô hình hỗ trợ ứng dụng kỹ thuật nuôi xen canh lúa - tôm trên vùng đất phèn mặn với quy mô 14 ha. Sau thời gian thả nuôi 65 ngày, tôm trong mô hình sinh trưởng, phát triển ổn định, kích cỡ 65 - 75 con/kg, tỷ lệ sống đạt 70 - 72%. Sản lượng dự kiến khoảng 6,9 tấn. Mô hình không chỉ đem lại thu nhập cao hơn so với độc canh mà còn tạo ra các sản phẩm an toàn, sản xuất theo hướng xanh, sạch, hữu cơ. Khi nuôi tôm trong ruộng lúa, phân của tôm và thức ăn còn dư sẽ bổ sung dinh dưỡng cho cây lúa, ngược lại tôm cũng có nguồn thức ăn dồi dào từ gốc rạ. NAM CƯỜNG
QUẢNG NGÃI
Điêu đứng vì tôm nuôi liên tục nhiễm bệnh
Xã An Phú là địa phương có diện tích nuôi tôm lớn của tỉnh
Quảng Ngãi. Nhiều hộ dân tại đây đầu tư nuôi tôm với chi phí mỗi vụ từ vài trăm triệu đến cả tỷ đồng. Theo thống kê của chính quyền địa phương, năm nay toàn xã có hơn 54 ha nuôi TTCT, sản lượng ước đạt trên 246 tấn. Thông thường, nếu điều kiện thuận lợi, tôm nuôi khoảng 80 - 90 ngày là có thể thu hoạch. Tuy nhiên, năm nay chưa hộ nào ở An Phú duy trì được đến thời điểm đó. Dịch bệnh liên tục xuất hiện trên tôm nuôi khiến phần lớn hộ dân rơi vào cảnh thua lỗ, nhiều người trắng tay. Không ít người buộc phải bán tôm non để vớt vát chút vốn. Nguyên nhân khiến dịch bệnh xuất hiện nhiều có thể là do thời tiết thất thường, môi trường nước biến đổi,... Trong khi đó, việc nuôi tôm thường gối vụ, người dân lại chưa nắm vững kỹ thuật xử lý ao hồ, dễ để mầm bệnh tồn dư. Đây là yếu tố khiến dịch lây lan nhanh và khó kiểm soát. LÊ LOAN
CÀ MAU
Triển khai mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến bằng chế phẩm sinh học
Nhằm thực hiện Kế hoạch số 016/KH-UBND ngày 22/7/2025 của UBND tỉnh Cà Mau về phát triển sản xuất đột phá ngành hàng tôm trong năm 2025, UBND tỉnh Cà Mau giao Sở Nông nghiệp và Môi trường triển khai thực hiện 100 nghìn ha nuôi tôm quảng canh cải tiến.
Theo kế hoạch, mô hình sẽ được thực hiện trên diện tích 30 ha tại hợp tác xã Nuôi tôm Năng suất cao Tân Hưng. Hình thức nuôi là quảng canh cải tiến có áp dụng chế phẩm sinh học do Công ty TNHH Bio-Floc sản xuất. Thời gian thực hiện kéo dài trong một vụ nuôi, bắt đầu từ tháng 9/2025 đến khi kết thúc vụ. Năng suất kỳ vọng của mô hình đạt khoảng 550 kg/ha/năm, cao hơn so với hình thức nuôi truyền thống. Đây được xem là giải pháp vừa nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa hạn chế rủi ro môi trường, phù hợp với định hướng phát triển ngành tôm bền vững. Đồng thời, mô hình cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng để nhân rộng ra nhiều vùng nuôi khác trong tỉnh.
GIA LAI
Hiệu quả nhờ ứng dụng công nghệ cao
Trong khi người nuôi tôm trên cát ở vùng Đông Gia Lai đang dần rút lui do thua lỗ thì những diện tích nuôi ứng dụng công nghệ cao lại ghi nhận thành công rõ nét. Theo ông Phạm Thanh Nhân, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản, Chi cục Thủy sản Gia Lai, trong số hơn 1.957 ha diện tích nuôi tôm vụ 2/2025 ở vùng Đông Gia Lai hiện có 60 ha nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao của Công ty TNHH Thành Ly và Công ty TNHH Ngọc Châu; hơn 160,5 ha diện tích nuôi tôm thương phẩm của Công ty TNHH Việt - Úc Phù Mỹ tại Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Mỹ Thành (xã An Lương) với năng suất bình quân đạt từ 30 - 40 tấn/ha/vụ. Ông Ngô Đình Thanh, người nuôi tôm ở xã An Lương, cho biết, nuôi tôm trên cát áp dụng công nghệ SemiBiofloc hạn chế sử dụng kháng sinh, giảm lượng thức ăn, dịch bệnh
được kiểm soát tốt hơn, tôm phát triển tốt và tỷ lệ thành công cao hơn, đồng thời, sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng.
DUY AN
Nuôi tôm quảng canh cải tiến được áp dụng rộng rãi tại Cà Mau Ảnh: Trần Hiếu
Chi cục Thủy sản Cà Mau đề nghị các bên phối hợp chặt chẽ để triển khai hiệu quả mô hình, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển đột phá ngành hàng tôm của tỉnh trong năm 2025.
TP CẦN THƠ
Sản lượng tôm thu hoạch đạt 167.700 tấn
Tính đến đầu tháng 10/2025, diện tích thả nuôi tôm nước lợ trên địa bàn TP Cần Thơ là 48.720 ha (TTCT 37.250 ha, tôm sú 11.470 ha), sản lượng tôm nuôi nước lợ đã thu hoạch đạt 167.700 tấn. Hiện, tại các vùng nuôi trên địa bàn thành phố đã có nhiều hộ dân mạnh dạn đầu tư mô hình nuôi TTCT siêu thâm canh 2 giai đoạn, ứng dụng công nghệ cao, góp phần tăng sản lượng tôm nuôi và tăng thu nhập. Để vụ tôm năm 2025 thành công, bà Quách Thị Thanh Bình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Cần Thơ khuyến cáo hộ nuôi tôm tuân thủ đúng lịch thời vụ của ngành chuyên môn khuyến cáo, lựa chọn giống tôm thả nuôi có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, quan tâm bảo vệ tôm nuôi trong thời điểm mưa nhiều như hiện tại, chú ý liều lượng cho tôm ăn trong giai đoạn này. Tiếp tục duy trì và mở rộng diện tích nuôi tôm 2 giai đoạn, ứng dụng công nghệ cao,…
THÁI THUẬN
AN GIANG
Mô hình tôm - lúa khẳng định ưu thế Những năm gần đây, nông dân vùng ven biển, có nguồn nước lợ thuộc các vùng U Minh Thượng, như: Tây Yên, An Biên, An Minh, Đông Thái,… đang chuyển dần từ trồng 2 vụ lúa sang trồng 1 vụ lúa - 1 vụ tôm, 1 vụ lúa - 2 vụ tôm. Cách làm này vừa thích ứng với biến đổi khí hậu, vừa mang lại hiệu quả và gia tăng thu nhập. Ông Nguyễn Hoàng Phi, xã An Minh có 5 ha trồng lúa - tôm, mỗi vụ thu hoạch hơn 1,2 tấn tôm càng xanh. Ngoài vụ tôm càng xanh, ông Phi còn nguồn thu từ tôm sú, TTCT, cua và cá đồng từ diện tích trên. Theo ông Phi, Nhờ “con tôm ôm cây lúa”, kèm với một số năm sản lượng và giá tôm tăng cao, góp phần nâng dần đời sống người nông dân. Thông tin từ Chi cục Thủy sản tỉnh An Giang, toàn tỉnh có gần 40 nghìn ha diện tích thả nuôi tôm càng xanh, hiện thu hoạch được 19.450 tấn. Tôm càng xanh chủ yếu tiêu thụ nội địa, một ít đi đường tiểu ngạch. NGUYỄN LAM
VĨNH LONG
Phát triển bền vững nghề nuôi tôm
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long, hiện toàn tỉnh có hơn 69.000 ha diện tích tôm nước lợ tại các xã ven biển; trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh, ứng dụng công nghệ cao được mở rộng với khoảng 6.000 ha. Việc chuyển đổi mô hình sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại không còn là lựa chọn mà đã trở thành hướng đi hiệu quả nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh. Thời gian tới, địa phương sẽ tập trung hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư hạ tầng để phát triển bền vững nghề nuôi tôm nước lợ tại các xã vùng ven biển. Qua đó, tạo “bệ phóng” giúp nông nghiệp Vĩnh Long chuyển mình theo hướng hiện đại, từ sản xuất nhỏ lẻ sang mô hình liên kết, ứng dụng khoa học kỹ thuật đồng bộ. Cùng đó, tỉnh khuyến khích phát triển chuỗi liên kết giữa người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp; tăng cường đào tạo, chuyển giao kỹ thuật để người dân có thể tiếp cận và thích ứng với mô hình nuôi công nghệ cao. DIỆU CHÂU
THANH HIẾU
MỸ
Sea Port Products thu hồi tôm Indonesia nhiễm phóng xạ Cs-137
Ngày 2/10, Công ty Sea Port Products (Mỹ) thông báo thu hồi một lượng nhỏ TTCT đông lạnh do lo ngại nhiễm phóng xạ Cesium-137. Các sản phẩm thuộc thương hiệu Sea Port, loại tôm bóc vỏ đông lạnh cỡ 16/20 con/pound, đã được phân phối tới một số nhà bán lẻ ở Alaska, California, Hawaii, Montana, Oregon, Washington và Samoa thuộc Mỹ. Theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), các lô hàng bị ảnh hưởng đều có hạn sử dụng vào tháng 5/2028, xuất xứ Indonesia, do Công ty PT Bahari Makmur Sejati (BMS Foods) sản xuất. Đây là động thái mới nhất trong chuỗi thu hồi liên quan đến việc FDA phát hiện nhiễm Cs-137 trong container và sản phẩm tôm đông lạnh từ Indonesia. Gần đây, FDA cũng mở rộng cảnh báo nhập khẩu đối với một doanh nghiệp khác của Indonesia là PT Natural Java Spice. Trong khi đó, Indonesia khẳng định đang chia sẻ kết quả điều tra với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và phía Mỹ.
IRELAND
Máy xử lý tôm hùm nhân đạo nhận vốn đầu tư lớn
Dự án phát triển máy gây choáng và cắt đuôi
tôm hùm càng theo hướng nhân đạo vừa nhận khoản tài trợ 171.850 bảng từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường Bắc Ireland. Sáng kiến do tổ chức Fisheries Innovation & Sustainability phối hợp cùng nhiều doanh nghiệp thủy sản triển khai, nhằm hoàn thiện mẫu máy Nephrops thế hệ mới có khả năng tự động gây choáng và cắt đuôi, thay thế cách làm thủ công trên biển vốn gây áp lực lớn cho thuyền viên. Bộ trưởng Andrew Muir khẳng định tôm hùm là “trụ cột” ngành khai thác Bắc Ireland, đóng góp lớn cho sinh kế cộng đồng ven biển và nền kinh tế. Công nghệ mới không chỉ nâng chuẩn phúc lợi động vật và chất lượng sản phẩm, mà còn giảm đáng kể khối lượng công việc nặng nhọc trên boong tàu. Thử nghiệm thành công trên tàu Golden Ray tháng 5/2025 cho thấy tiềm năng ứng dụng thực tế cao, mở đường cho ngành thủy sản hướng tới khai thác bền vững, hiện đại và nhân đạo hơn.
khác đang trong quá trình đánh giá. Lô đầu tiên dự kiến nộp hồ sơ xin chứng nhận vào năm 2026.
Theo giới chuyên môn, việc đạt chứng nhận sẽ giúp ngành thủy sản Ấn Độ tăng doanh thu
tới 30%, đồng thời mở ra thị trường mới ngoài Mỹ trong bối cảnh nguy cơ áp thuế cao và siết thương mại. Chứng nhận MSC cũng khuyến khích
ngư dân chuyển sang phương thức khai thác thân thiện môi trường, đảm bảo thu nhập ổn định hơn. Ông K. Mohammed Koya, Ủy viên Phát triển Thủy sản, cho biết chính phủ sẽ hỗ trợ chi phí chứng nhận thông qua chương trình PMMSY, do các tổ chức kiểm định độc lập thực hiện. Các thị trường cao cấp như châu Âu và Nhật Bản đang ưu tiên nguồn hải sản có chứng chỉ bền vững. Hiện quy trình đánh giá đã ở giai đoạn cuối, tập trung hoàn thiện các khâu kỹ thuật như đánh giá trữ lượng tôm, mực và bạch tuộc, dự kiến hoàn tất trong năm tới.
Ả Rập Xê Út vừa cấp phép cho Bangka Belitung (Indonesia) xuất khẩu tôm sang thị trường nước này. Trước đó, Bangka Belitung chủ yếu xuất sang Mỹ với 15.000 - 20.000 tấn/ năm. Động thái mở ra cơ hội tiếp cận Trung Đông, giúp đa dạng hóa thị trường trong bối cảnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ gặp khó vì rào cản thuế và sự cố kiểm dịch.
Tháng 8/2025, Trung Quốc nhập khẩu 85.498 tấn tôm nước ấm đông lạnh, tăng 5% so cùng kỳ, cho thấy đà phục hồi rõ nét. Ecuador chiếm 77% thị phần với 65.633 tấn, tăng 7%, trong khi Ấn Độ giảm 20%, Indonesia tăng mạnh 263%. Giá tôm nhập khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2025 đạt 5,18 USD/kg, tăng 7%.
Ngành tôm Ấn Độ thiệt hại khoảng 2,8 triệu USD do Mỹ áp thuế 50% với thủy sản, khiến 50% đơn hàng xuất khẩu bị hủy. Bang Andhra Pradesh - trung tâm nuôi tôm lớn nhất cả nước chịu ảnh hưởng nặng nề. Chính phủ Ấn Độ đang đàm phán với Mỹ để giảm thuế và khôi phục xuất khẩu.
Ecuador dự kiến xuất khẩu kỷ lục 1,4 - 1,5 triệu tấn tôm năm 2025, nhờ hợp nhất trang trại và ứng dụng công nghệ nuôi hiện đại. Trung Quốc tiêu thụ khoảng 800.000 tấn, châu Âu hơn 300.000 tấn và Mỹ 250.000 tấn. Tăng trưởng chủ yếu nhờ tối ưu hóa sản xuất và cải thiện biên lợi nhuận
BioMar và Cefetra hợp tác giảm khí thải trong chuỗi cung ứng thức ăn thủy sản, tập trung hỗ trợ nông dân áp dụng canh tác tái tạo và giảm carbon từ nguyên liệu như lúa mì. Dự án khởi động tại Anh, hướng tới xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp - thủy sản bền vững và đạt mục tiêu khí hậu dựa trên khoa học.
Ủy ban Khai thác thủy sản Oregon, Hợp tác xã tiếp thị tôm và Sở Nông nghiệp Oregon vừa gửi thư lên
Đại diện Thương mại Mỹ (USTR), đề nghị chính quyền Tổng thống Trump đàm phán với Anh để dỡ bỏ thuế 20% với tôm hồng Oregon. Anh là thị trường tiềm năng cho tôm đạt chứng nhận MSC này, trong bối cảnh nguồn cung tôm lạnh từ Canada và Na Uy giảm mạnh.
TÂY BAN NHA
Giữ vị thế trung tâm tôm của châu Âu
Tây Ban Nha tiếp tục là thị trường nhập khẩu
tôm lớn nhất châu Âu với 100.774 tấn tôm nước
ấm, trị giá 646,9 triệu EUR trong năm nay, tăng
lần lượt 6,4% khối lượng và 8,2% về giá trị. Nhu
cầu ổn định cùng giá tăng nhẹ giúp nước này củng cố vai trò trung tâm tiêu thụ. Ecuador, sau giai đoạn tăng trưởng mạnh 2020 - 2022 nhưng từng mất ngôi vào tay Argentina, đã lấy lại vị trí số một, chiếm 37% tổng giá trị nhập khẩu tôm vào Tây Ban Nha. Ngược lại, Argentina chịu ảnh hưởng nặng nề từ các cuộc đình công ngư dân kéo dài nhiều tháng, khiến thị phần sụt xuống chỉ còn 19%. Trung Quốc và Ma Rốc lần lượt đứng thứ ba và tư với 9% và 8%, trong khi Bồ Đào Nha và Venezuela giảm còn 4% và 2%, phản ánh sự hiện diện ngày càng mờ nhạt tại thị trường này.
ARGENTINA
Nguy cơ dừng vụ tôm do sản lượng cá tuyết tạp quá cao
Cơ quan Điều phối và Giám sát nghề cá Quốc gia Argentina (DNCyFP) vừa đưa ra đánh giá tiêu cực sau các đợt khảo sát tôm đỏ ( Pleoticus muelleri ) ở Nam Đại Tây Dương, cho thấy tỷ lệ cá
tuyết Hubbsi lẫn trong mẻ tôm vượt xa ngưỡng cho phép. Kết quả tại các tiểu vùng 5, 10 và 13
đều không đạt yêu cầu mở thêm ngư trường mới, thậm chí có chuyến khảo sát chỉ thu về toàn cá tuyết. Trong khi đó, các ngư trường hiện còn
được phép khai thác (tiểu vùng 4, 8 và 11) cũng ghi nhận tỷ lệ cá tuyết/tôm vượt chuẩn. Vì vậy, DNCyFP khuyến nghị đóng cửa sớm hoạt động điều tàu khai thác tôm để bảo vệ đàn cá tuyết đang bước vào mùa sinh sản, vốn trùng với khu vực phân bố tôm. Dù Viện
INIDEP báo cáo trữ lượng tôm đỏ tương đương năm trước, đội tàu lại khó tìm thấy đàn tôm tập trung, khiến mùa vụ đối diện nguy cơ dừng sớm nhằm đảm bảo tính bền vững cho cả hai nguồn lợi.
ECUADOR
Ngành tôm xây dựng lộ trình đảm bảo an ninh năng lượng
Benchmark Genetics vừa bổ nhiệm chuyên gia tôm Kenneth Tay làm cố vấn cấp cao về kinh doanh và phát triển chiến lược, nhằm củng cố mảng di truyền tôm toàn cầu và mở rộng thị trường châu Á. Với hơn 18 năm kinh nghiệm tại Shrimp Improvement Systems, ông Tay sẽ hỗ trợ phát triển các giải pháp di truyền giúp nâng cao năng suất, khả năng thích ứng và lợi nhuận cho ngành tôm.
Trung Quốc đã vượt qua Greenland và Canada, trở thành thị trường tôm lớn nhất của Na Uy với khoảng 60.000 tấn tôm nước lạnh mỗi năm. Tháng 7/2025, Na Uy xuất khẩu gần 1.500 tấn tôm sang Trung Quốc, trị giá 81 triệu NOK, tăng mạnh nhờ nhu cầu cao, nguồn cung dồi dào và thuế nhập khẩu thấp. Hai bên đang tăng cường hợp tác để mở rộng nguồn cung trong năm tới. Các hiệp hội tôm vùng Vịnh và Nam Đại Tây Dương Mỹ đang kêu gọi Quốc hội thông qua Đạo luật “Minh bạch vận đơn” (Manifest Transparency Act) nhằm buộc Hải quan công bố dữ liệu vận chuyển bằng đường không, sắt và bộ, giúp phát hiện sớm tôm nhập khẩu có kháng sinh, lao động cưỡng bức hoặc gian lận giá. Ngành tôm cũng đề nghị tăng kiểm tra FDA, siết truy xuất nguồn gốc và nâng hiệu lực điều tra chống bán phá giá để bảo vệ đội tàu Louisiana.
Các doanh nghiệp và cơ quan quản lý ngành tôm Ecuador vừa tổ chức cuộc họp đầu tiên của Nhóm Công tác năng lượng, nhằm xây dựng lộ trình hướng tới một hệ thống năng lượng bền vững cho ngành. Sáng kiến do Phòng Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia (CNA) và Liên minh Tôm bền vững (SSP) đồng khởi xướng, đặt mục tiêu tăng cường an ninh năng lượng cho một ngành đang tiêu thụ khoảng 1.000 - 1.500 MW điện, tương đương công suất một nhà máy lớn, nhưng mới chỉ 10% cơ sở được điện khí hóa. Chủ tịch CNA José Antonio Camposano cho biết, tốc độ tăng trưởng mạnh khiến nhu cầu điện vượt quá năng lực hệ thống quốc gia, trong khi nhà nước không đủ nguồn lực đầu tư, do đó cần khuyến khích vốn tư nhân và cơ chế phối hợp linh hoạt để đảm bảo nguồn điện ổn định, đặc biệt ở các khu vực hải đảo. Tại phiên khai mạc với hơn 30 đại biểu, bà Pamela Nath, Giám đốc SSP, nhấn mạnh, chuyển đổi sang năng lượng sạch không chỉ là cam kết môi trường mà còn là chiến lược nâng cao sức cạnh tranh và hiện đại hóa ngành tôm. Cần tháo gỡ các nút thắt về quy định để tạo niềm tin và thu hút đầu tư. Giám đốc CORPEI Eduardo Egas khẳng định, chuyển sang năng lượng sạch, hiệu quả hơn sẽ là động lực then chốt giúp ngành tôm Ecuador phát triển bền vững. TUẤN MINH
Hiệp hội Tôm miền Nam Mỹ (SSA) đang kêu gọi người tiêu dùng ưu tiên tôm đánh bắt tự nhiên trong nước, giữa lúc FDA liên tiếp thu hồi tôm Indonesia nhiễm cesium-137 và kháng sinh cấm. SSA nhấn mạnh tôm Mỹ có chất lượng, an toàn và bền vững hơn, đồng thời ủng hộ dự luật cho phép FDA tiêu hủy hàng nhập khẩu nhiễm bẩn nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Chính phủ Indonesia vừa áp dụng quy định bắt buộc tôm xuất khẩu sang Mỹ phải có chứng nhận không nhiễm phóng xạ. Bộ Thủy sản và Nghề cá (KKP) sẽ cấp chứng nhận đảm bảo sản phẩm không chứa Cesium-137. Quy định áp dụng từ ngày 31/10 cho tôm từ Java và Lampung. Doanh nghiệp phải nộp kết quả xét nghiệm tại các phòng thí nghiệm chỉ định và chịu chi phí kiểm tra bổ sung của Cơ quan Nghiên cứu và Đổi mới quốc gia (BRIN). Các đơn vị “danh sách đỏ” như PT Bahari Makmur Sejati sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt hơn.
Tôm càng xanh trúng mùa, được giá
Vụ tôm càng xanh năm nay cơ bản đã
khép lại với những tín hiệu hết sức tích
cực. Nhiều địa phương ghi nhận sản lượng cao, giá bán ổn định, mang về nguồn thu nhập lớn cho hàng nghìn hộ nuôi. Không khí phấn khởi tràn ngập các vùng quê sông nước khi người dân vừa được mùa, vừa được giá.
Tôm càng xanh nước lợ luôn có chất lượng cao và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
Giá tăng mạnh
An Giang, với lợi thế diện tích đất rộng, nguồn nước ngọt dồi dào và hệ sinh thái phù sa màu mỡ, được xem là địa phương có tiềm năng lớn để phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh xen canh với lúa. Những ngày gần đây, An Giang đang có một mùa tôm càng xanh bội thu với sản lượng cao và giá bán tốt hơn so năm trước, mang lại niềm vui và lợi nhuận cho người nuôi. Giá tôm tăng do nhu cầu tiêu thụ nội địa tăng cao, giúp người dân phấn khởi và đời sống ổn định hơn.
Anh Huỳnh Chí Phương, Giám đốc Công ty Gạo Tôm tại An Giang, đã gắn bó gần 20 năm với vùng đất tôm - lúa của tỉnh. Anh Phương cho biết, năm nay tôm càng xanh được mùa, được giá, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Anh Phương chia sẻ: “Sau khi thực hiện có hiệu quả cơ cấu 1 vụ tôm nước lợ (chủ yếu là tôm sú - NV) trong mùa khô và 1 vụ lúa trong mùa mưa, những năm gần đây, nông dân vùng tôm - lúa còn đưa thêm con tôm càng xanh vào nuôi để tăng thêm nguồn thu nhập.
Ban đầu chỉ nuôi 1 vụ xen canh với vụ lúa, dần dà người dân đã nhận ra, con tôm càng xanh còn thích nghi tốt với nguồn nước lợ nên họ tiến hành thả nuôi chung với con tôm sú”.
Năm nay, do thời tiết đầu vụ tương đối
bất lợi, cộng thêm giá tôm càng xanh quá thấp ở vụ nuôi năm trước, đã khiến diện tích thả nuôi xen canh với tôm sú giảm đi khá nhiều. Cùng với đó, nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tiểu ngạch (sang Trung Quốc và Campuchia) đột ngột tăng nên dù năng suất vụ nuôi tương đối khá nhưng sản lượng tôm thu hoạch cũng không đáp ứng đủ nhu cầu. Đây là những nguyên nhân khiến giá tôm càng xanh từ đầu tháng 9 đến nay liên tục tăng mạnh, người nuôi hết sức phấn khởi.
Ông Trần Tập, ở xã Vĩnh Hòa, tỉnh An Giang, chia sẻ: “Vụ tôm càng xanh này lại trúng mùa, trúng giá nữa rồi. Năm trước, cũng thời điểm này, giá tôm càng xanh loại 20 con/kg chỉ khoảng 60.000 - 70.000 đồng, còn từ tháng 9 tới giờ giá luôn được 120.000 - 130.000 đồng/kg. Riêng tôm càng xanh loại từ 10 con/kg về lớn giá lên đến 200.000 đồng/kg, còn loại 12 - 15 con/kg cũng được giá 150.000 đồng/kg”.
Phấn khởi vì vụ mùa “trúng đậm”
Diện tích nuôi tôm - lúa của tỉnh An Giang có khoảng 100.000 ha, tập trung ở
các xã vùng U Minh Thượng, Kiên Lương và Giang Thành. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, trong số này có khoảng trên 40.000 ha được nông dân thả nuôi luân canh hoặc nuôi ghép tôm càng xanh, tôm sú, TTCT mang lại hiệu quả cao. Do thả nuôi ghép với một số đối tượng nuôi khác, nên mật độ tôm càng xanh rất thưa, từ đó năng suất bình quân thường dao động quanh mức 350 - 650 kg/ha. Và với diện tích trên, theo ước tính của ngành nông nghiệp An Giang, sản lượng tôm càng xanh ước gần 20.000 tấn.
Tuy nhiên, do chi phí chủ yếu là con giống, nên chỉ cần đạt năng suất và tôm có giá thì lợi nhuận của người nuôi rất cao. Anh Nguyễn Văn Mực, xã An Biên, cho biết: “Do nguồn thức ăn chủ yếu là tự nhiên, nên kể cả tôm sú hay tôm càng xanh đều được thả với mật độ rất thưa. Vì vậy, chi phí cho vụ tôm ở đây chủ yếu là cải tạo vuông và con giống, nên vụ nào nuôi đạt và tôm có giá thì lợi nhuận cũng được 150 - 200 triệu đồng/ha. Đơn cử như năm nay, cả tôm sú và tôm càng xanh đều có giá cao trong suốt thời gian thu hoạch, nên chắc chắn sẽ có nhiều người đạt lợi nhuận tốt”.
Là một trong những hộ gắn bó lâu năm với mô hình nuôi xen canh tôm sú, TTCT, tôm càng xanh ở xã Vĩnh Bình, gia đình bà
Trang Thị Tú Nga có 3 ha chuyên nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến mỗi năm thu hoạch 3 đợt. Theo bà Nga, từ đầu năm 2025
đến nay, gia đình bà thu hoạch 2 đợt được hơn 400 kg tôm sú, TTCT và hơn 1,7 tấn tôm
càng xanh. Sản lượng tương đương những
vụ nuôi của các năm trước, tuy nhiên nhờ giá bán tăng nên lợi nhuận tăng.
Đặc biệt, giá tôm càng xanh từ giữa tháng 7/2025 đến nay được thương lái thu mua tăng từ 30.000 - 50.000 đồng/kg. Tôm càng xanh bán ôxy giá 150.000 - 160.000 đồng/kg, tôm ngộp giá 90.000 đồng/kg.
Bà Nga cho biết thêm: “Với mô hình quảng canh cải tiến thì mình phải ương dèo con giống và thả nuôi theo hình thức thu tỉa, thả bù và có bổ sung thêm thức ăn công nghiệp giúp tôm nhanh lớn. Tuy có tốn thêm chút ít chi phí, nhưng bù lại năng suất sẽ cao hơn, thời gian ngắn hơn và lợi nhuận vì thế cũng cao hơn. Vụ tôm năm nay, không riêng gia đình tôi mà hầu hết người nuôi tôm ở vùng U Minh Thượng này đều có lợi nhuận cao”.
Mô hình hiệu quả, bền vững
Tôm càng xanh nuôi nước lợ ở nước ta chủ yếu tập trung tại vùng nuôi tôm quảng canh và vùng tôm - lúa thuộc tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau,… Trong đó, ngoài An Giang, Cà Mau cũng là tỉnh có diện tích và sản lượng tôm càng xanh khá lớn. Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm nay, toàn tỉnh đã thu hoạch hơn 2.000 tấn tôm càng xanh. Theo đánh giá của địa phương, vụ mùa năm nay, tôm nuôi phát triển thuận lợi, đạt năng suất và bán được giá cao đã mang lại niềm vui lớn cho người nuôi.
Vụ tôm càng xanh trên vùng nước lợ ĐBSCL đến thời điểm này cơ bản đã được thu hoạch xong và dù chưa có con số thống kê cụ thể từ ngành chức năng, nhưng chỉ cần nhìn không khí phấn khởi, từng nụ cười thường trực trên môi người nuôi tôm cũng có thể khẳng định đây là vụ tôm thành công hơn cả mong đợi. Sản lượng tôm cao nhờ thời tiết thuận lợi, ít dịch bệnh, trong khi giá bán lại tăng so mọi năm, mang về nguồn thu nhập ổn định, thậm chí khá lớn cho nhiều hộ dân.
Bên cạnh đó, mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, kết hợp với canh tác lúa hoặc nuôi xen canh, đã phát huy hiệu quả rõ rệt, giúp bà con tận dụng tối đa tài nguyên đất, nước và giảm áp lực môi trường. Thành công này không chỉ giúp cải thiện đời sống kinh tế cho người dân, mà còn mở ra hướng đi bền vững cho ngành thủy sản nước lợ tại khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. Ông Tập thông tin thêm: “Thành công ở vụ tôm này giúp nông dân nuôi tôm càng xanh thêm yên tâm, phấn khởi triển khai việc rửa mặn cho đất để xuống giống vụ lúa lấp lại trên đất nuôi tôm. Và cũng trong vụ lúa này, sẽ lại có thêm một vụ tôm càng xanh xen canh với cây lúa được thu hoạch vào khoảng tháng 11 âm lịch. Nếu cả vụ lúa và vụ tôm càng xanh xen canh này tiếp tục thành công thì chúng tôi sẽ có một năm sản xuất thành công mỹ mãn”.
XUÂN TRƯỜNG
Thị trường tiêu thụ ổn định, nhu cầu cao cả trong và ngoài nước khiến tôm càng xanh trở thành mặt hàng thủy sản có giá trị, góp phần cải thiện đáng kể thu nhập và đời sống của người dân vùng ĐBSCL.
3,38 tỷ USD 40 nghìn ha 51 nghìn ha 1,7 tỷ con 1.577 cơ sở
Là giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm 9 tháng đầu năm 2025, tăng 20,3% so cùng kỳ năm trước.
Là số cơ sở sản xuất và ương dưỡng tôm giống của nước ta hiện nay.
Là số lượng tôm giống mà các cơ sở trên địa bàn tỉnh Gia Lai sản xuất trong 9 tháng đầu năm 2025.
Là diện tích nuôi tôm mà thành phố Cần Thơ duy trì trong năm 2025.
Là tổng diện tích nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh của tỉnh Cà Mau hiện nay.
Sau khi thu hoạch, nông dân tiến hành phân loại tôm chuẩn bị bá n cho thương lái
Ảnh: XT
Ứng dụng mô hình nuôi tôm công nghệ cao khép kín giúp giảm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
Thay
đổi tư duy,
thích
ứng dài hạn
Thời tiết cực đoan đang trở thành thách thức ngày càng lớn của ngành tôm. Không còn là những giải pháp ứng phó tạm thời, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần đổi mới tư duy và xây dựng chiến lược thích ứng dài hạn để phát triển bền vững.
Từ biển khơi đến ao tôm
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, chỉ trong vòng 2 tháng, 4 cơn bão liên tiếp trút xuống các tỉnh khu vực phía Bắc và Bắc Trung bộ những trận mưa lớn, kéo theo những cơn lũ lịch sử, nhấn chìm nhà cửa, đường xá, hoa màu, đồng ruộng, ao hồ, lồng bè nuôi thủy sản,… với ước tính thiệt hại ban đầu lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Năm nay, bão lại thất thường, dữ dội, có sức tàn phá nặng nề mà cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa thể thống kê hết thiệt hại một cách chính xác.
Câu nói “Nơi cơn bão đi qua, nỗi đau còn ở lại” đã trở nên quen thuộc với nhiều người, gợi nhớ về những mất mát về người và tài
sản, cùng những khó khăn, vất vả trong quá trình khôi phục sản xuất và tái thiết cuộc sống. Những vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão ngày càng rõ nét hơn, gắn liền với các khu vực ven biển - nơi nguồn sống của đông đảo người dân phụ thuộc vào nghề thủy sản. Mỗi cơn bão đều để lại những thiệt hại nghiêm trọng cho lĩnh vực này, từ việc tàu thuyền, lồng bè trên biển bị chìm hỏng, đến những ao nuôi nằm sâu trong đất liền, khiến nhiều người dân rơi vào cảnh trắng tay, khó khăn chồng chất. Thách thức khó lường Nuôi tôm là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét nhất từ biến động khí hậu, thời tiết và môi trường.
Chỉ cần vài trận mưa lớn kéo dài cũng có thể làm thay đổi đột ngột các yếu tố môi trường ao nuôi, nguồn nước cấp, khiến tôm bị sốc, dễ phát sinh dịch bệnh và dẫn đến thiệt hại. Trên thực tế, không khó để nhận thấy quy luật này lặp đi lặp lại hầu như mỗi mùa mưa bão. Điều đó cho thấy tính chất “rủi ro hệ thống” mà thời tiết cực đoan mang lại cho hoạt động nuôi tôm. Điều đáng nói là, dù người nuôi đã có kinh nghiệm phòng ngừa, và ngành chức năng đã ban hành nhiều khuyến cáo, nhưng việc giảm thiểu thiệt hại vẫn là một bài toán chưa có lời giải tối ưu. Không chỉ vì quy mô sản xuất đa phần còn nhỏ lẻ, trình độ quản lý môi trường ao nuôi còn hạn chế, mà còn vì hạ tầng vùng nuôi - như hệ thống cấp thoát
Tép
nước, ao lắng, ao dự phòng - ở nhiều địa phương vẫn chưa được đầu tư bài bản.
Tại ĐBSCL, người dân có thể chủ động
xây dựng hệ thống đê bao, thậm chí chấp
nhận cắt giảm một vụ lúa để thích ứng với
lũ, do đặc điểm lũ nơi đây diễn biến tương đối ổn định, có thể dự báo sớm với độ
chính xác cao. Trong khi đó, bão và lũ tại khu vực miền Bắc và miền Trung đến nay vẫn diễn biến phức tạp, khó dự báo, gây nhiều thách thức trong công tác phòng, chống thiên tai.
Chủ động thích ứng thiên tai
Câu hỏi về việc cần làm gì, làm thế nào để giảm thiểu thiệt hại cho ngành tôm trước tác động của thiên tai, bão lũ không còn là mới. Các giải pháp đã được đề xuất, thậm chí triển khai ở nhiều địa phương, song hiệu quả thực tế vẫn còn là dấu hỏi lớn.
Những năm gần đây, nhờ hợp tác quốc tế và đầu tư trang thiết bị hiện đại, công tác dự báo thời tiết đã trở nên chính xác và sát thực tế hơn. Do đó, bên cạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng vùng nuôi, việc điều chỉnh cơ cấu lịch thời vụ để chủ động “né” bão lũ cũng trở thành giải pháp cần thiết. Điển hình như mô hình của người dân các vùng ngập lụt thuộc khu vực ĐBSCL trong những năm qua, khi chủ động giảm bớt một vụ nuôi nhằm tăng cường an toàn cho nguồn vốn đầu tư và giảm thiểu rủi ro thiệt hại mỗi khi bão lũ đến. Đây là hướng đi khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả và bền vững cho ngành tôm.
TL
Đặc biệt, việc phát triển các mô hình nuôi tôm tuần hoàn, nuôi kết hợp (tôm - cá - rong biển), hoặc mô hình nuôi tôm công nghệ cao khép kín sẽ là xu hướng tất yếu để tăng sức chống chịu với thiên tai và giảm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.
Bên cạnh đó, đầu tư vào nghề nuôi tôm đòi hỏi nguồn vốn lớn, nên vấn đề làm sao bảo vệ an toàn cho khoản đầu tư này là vô cùng cần thiết trước khi tính đến lợi nhuận. Tuy nhiên, đến nay các hộ nuôi vẫn chưa tìm được giải pháp hiệu quả để ứng phó với rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, cũng như thiếu sự hỗ trợ từ bảo hiểm nuôi tôm. Vì vậy, nên chăng, ngành tôm cần sớm thành lập quỹ hỗ trợ thiên tai cho nghề nuôi trên nguyên tắc phi lợi nhuận, hướng đến lợi ích chung của cộng đồng trong chuỗi giá trị tôm. Theo đó, các bên liên quan trong chuỗi, từ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, đến đại lý cung ứng vật tư đầu vào, đại lý thu mua, doanh nghiệp chế biến, chủ trang trại nuôi lớn,… sẽ trích một phần lợi nhuận hằng năm đóng góp vào quỹ. Quỹ này nhằm tạo nguồn kinh phí đủ lớn để kịp thời khôi phục sản xuất sau mỗi đợt thiên tai. Đây không chỉ là giải pháp thiết thực mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội và tinh thần tương thân tương ái, góp phần giảm thiểu thiệt hại, tránh tình trạng trắng tay sau bão lũ. Hy vọng trong thời gian tới sẽ có thêm những giải pháp thiết thực và hiệu quả hơn nhằm giảm thiểu rủi ro do thiên tai
gây ra, tránh để gánh nặng này tiếp tục đè lên vai cộng đồng người nuôi tôm - lực lượng sản xuất quan trọng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và dễ tổn thương trước biến động của tự nhiên. Đây cũng là cách để hiện thực hóa mục tiêu “Nơi cơn bão đi qua, nỗi đau không còn ở lại”, thay vào đó là sự phục hồi nhanh chóng của sản xuất, hoạt động nuôi tôm không bị gián đoạn sau mỗi đợt bão lũ, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng người nuôi trên hành trình vươn mình, phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.
AN XUYÊN
Thời tiết cực đoan và thiên tai không còn là những hiện tượng bất thường mà đã trở thành yếu tố thường trực trong sản xuất nông nghiệp. Với ngành nuôi tôm, việc “sống chung” với những rủi ro từ môi trường là điều tất yếu. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chấp nhận bị động, mà phải là chủ động thích ứng, thay đổi tư duy sản xuất và xây dựng mô hình phát triển bền vững. Chỉ khi đó, nuôi tôm mới không còn là cuộc chơi may - rủi theo thời tiết, mà trở thành một ngành kinh tế ổn định, đóng góp lâu dài cho phát triển nông nghiệp và kinh tế ven biển.
VỐN
TÍN DỤNG Mong mỏi lớn của người dân sau bão
Sau hai cơn bão số 10 và 11, hàng trăm hộ dân nuôi trồng thủy sản đang oằn mình khắc phục hậu quả. Hàng nghìn ha ao tôm, cá bị ngập, vỡ bờ, máy móc, thiết bị hư hỏng nặng, khiến người dân lâm vào cảnh trắng tay, mong được hỗ trợ vốn để khôi phục sản xuất.
Tôm vẫn là chủ lực trong nuôi trồng và xuất khẩu của ngành thủy sản Ảnh: ST
“Bão chồng bão”, người dân trắng tay
Tại Hà Tĩnh, chỉ trong vòng một tháng, hai “siêu bão” liên tiếp đã tàn phá nghiêm trọng cơ sở hạ tầng và hoạt động sản xuất - kinh doanh. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, riêng ngành chăn nuôi và thủy sản chịu tổn thất lớn: 223 con gia súc, hơn 128.000 con gia cầm bị cuốn trôi; 210 tấn thức ăn chăn nuôi và hơn 2.300 tấn vật tư bị hư hỏng; 49.000 chuồng trại bị ảnh hưởng; hơn 1.150 ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại, 36 phương tiện khai thác hải sản hư hỏng.
Gia đình ông Phạm Anh Tuấn (xã Kỳ Hoa, thị xã Kỳ Anh) nuôi cá lồng trên sông, bị mưa bão làm đứt dây neo, nước dâng cuốn trôi 20 tấn cá, thiệt hại hơn 1 tỷ đồng.
Gia đình đang vay 2 tỷ đồng tại ngân hàng để đầu tư mô hình, giờ mất trắng, mong được giãn nợ và vay mới để tái sản xuất.
Tại Nghệ An, hậu quả bão số 10 (Bualoi) vẫn bao trùm các vùng ven biển sau gần nửa tháng. Xã An Châu, nơi có 65 ha nuôi thủy sản, trong đó hơn 50 ha là nuôi tôm thâm canh công nghệ cao của 85 hộ dân, bị thiệt hại nặng nề.
Còn tại xã Hải Châu, khoảng
35 ha diện tích nuôi tôm công nghệ cao bị ảnh hưởng nặng.
Chính quyền đang khẩn trương thống kê, đồng thời kiến nghị
cấp trên có biện pháp hỗ trợ thiết
thực giúp người dân sớm ổn định
đời sống.
Tại xã Quỳnh Lưu, bão còn
gây thiệt hại cho 400 ha diện tích
nuôi trồng thủy sản bị tràn bờ, 80
ha hoa màu và 5 ha cây ăn quả bị
hư hại, 25 chuồng trại sập hoặc
ngập nước. Mong mỏi lớn nhất
của người dân lúc này là tiếp cận
được nguồn vốn để tái sản xuất.
Chính sách ưu đãi đến với người dân
Điểm chung ở các vùng nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại là hầu hết người dân đều vay vốn ngân hàng để đầu tư sản xuất. Sau bão, nguồn thu bị cắt đứt trong khi áp lực trả nợ đến hạn rất lớn, khiến nhiều hộ lâm vào cảnh khánh kiệt.
Chính vì thế, người dân, các hợp tác xã và doanh nghiệp đều kiến nghị Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại sớm có chính sách giảm lãi suất, giãn nợ, cơ cấu lại thời hạn vay, đồng thời mở thêm gói tín dụng ưu đãi
phục hồi sản xuất sau thiên tai.
Ngoài ra, họ cũng mong được hỗ trợ con giống, vật tư, khôi phục hạ tầng đê bao, điện và đường nội đồng.
Ngày 2/10/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Văn bản số 8622/NHNN-TD yêu cầu các tổ chức tín dụng triển khai các biện pháp hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả của cơn bão số 10 và mưa lũ sau bão.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng, chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch chủ động rà soát, đánh giá tình hình của khách hàng đang vay vốn để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất kinh doanh sau bão theo các quy định hiện hành; thực hiện xử lý nợ đối với khách hàng bị thiệt hại về vốn vay theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, hướng dẫn khách hàng đang vay vốn hoàn thiện hồ sơ thực hiện các biện pháp xử lý nợ theo quy định (nếu phát sinh).
Trước đó, ngày 23/9/2025, nhằm tiếp tục hỗ trợ các dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Công văn số 8333/
NHNN gửi các ngân hàng thương
mại về việc triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản.
Trong đó, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiếp tục triển khai chương trình này cho đến khi doanh số cho vay đạt 185.000 tỷ đồng (theo mức đã đăng ký).
Các Ngân hàng: NN&PTNT Việt Nam, TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, TMCP Công thương Việt Nam, TMCP Ngoại thương Việt Nam, TMCP Lộc Phát, TMCP Sài Gòn Thương tín, TMCP Quân đội, TMCP Á Châu, TMCP Nam Á, TMCP Phương Đông, TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, TMCP Bản Việt, TMCP Sài Gòn - Hà Nội, TMCP Việt Nam Thương Tín, TMCP Phát triển Hồ Chí Minh, TMCP Tiên Phong, TMCP Kiên Long, TMCP Bắc Á thực hiện theo dõi, thống kê kết quả triển khai Chương trình; đồng thời, chịu trách nhiệm việc triển khai thực hiện theo đúng cam kết của Chương trình này (về đối tượng, lãi suất).
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng khuyến khích các ngân hàng thương mại khác có nhu cầu tham gia Chương trình thực hiện theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thiên tai đã đi qua nhưng hậu quả còn kéo dài. Hỗ trợ kịp thời về vốn, kỹ thuật và hạ tầng không chỉ giúp người dân khôi phục sản xuất, mà còn góp phần ổn định sinh kế, bảo vệ ngành nuôi trồng thủy sản, một trong những trụ cột kinh tế của nhiều địa phương trên cả nước. BẢO HÂN
9 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu tôm cả nước
đạt 3,38 tỷ USD, tăng hơn 20% so cùng kỳ năm
trước. Về nuôi trồng, tổng
sản lượng thu hoạch tôm
tính đến hết tháng 8 ước
đạt 801.200 tấn, tăng 6,2%; trong đó, tôm sú
đạt 184.100 tấn và TTCT
đạt 617.100 tấn.
VĂN BẢN MỚI
Ngày 18/9/2025, HĐND tỉnh Ninh Bình
ban hành Nghị quyết số 10/2025/NQ-HĐND
quy định mức hỗ trợ khắc phục dịch bệnh
động vật trên địa bàn tỉnh. Quy định này áp
dụng đối với: Cơ sở sản xuất quy định tại khoản
1 Điều 3 Nghị định số 116/2025/NĐ-CP; Doanh nghiệp nhỏ và vừa (không bao gồm các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang) có hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình; Người tham gia khắc phục dịch bệnh động vật quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 116/2025/NĐ-CP; Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc tổ chức thực hiện
Nghị quyết này. Cụ thể, mức hỗ trợ đối với cơ sở
sản xuất tôm như sau: Tôm hùm giống: 10.000
đồng/con; Tôm giống (TTCT, tôm sú) từ giai đoạn hậu ấu trùng Postlarvae 12 trở lên: 10.000.000
đồng/01 triệu con; Diện tích nuôi tôm sú quảng canh (nuôi tôm - lúa, tôm sinh thái, tôm - rừng, tôm kết hợp): 9.000.000 đồng/ha; Diện tích nuôi tôm sú (bán thâm canh, thâm canh): 12.000.000 đồng/ha; Diện tích nuôi TTCT: 20.000.000 đồng/ ha (mật độ nuôi từ 50 - 100 con/m2); 30.000.000 đồng/ha (mật độ nuôi từ trên 100 - 250 con/m2); 50.000.000 đồng/ha (mật độ nuôi từ trên 250 con/m2); Hải sản nuôi lồng, bè: 10.000 đồng/ kg. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (không bao gồm các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang) có hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bị thiệt hại do dịch bệnh động vật được hỗ trợ bằng mức quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này; đồng thời bảo đảm nguyên tắc hỗ trợ theo quy định tại Điều 5 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 và các văn bản pháp luật có liên quan theo quy định hiện hành. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18 tháng 9 năm 2025.
Ngày 19/9/2025, UBND tỉnh Đồng Tháp ban hành Quyết định số 117/2025/QĐ-UBND quy định đơn giá, mức bồi thường thiệt hại cây trồng và vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh. Trong đó, mức bồi thường đối với vật nuôi là thủy sản theo hình thức nuôi thâm canh trong ao, bể; nuôi trên bãi triều hoặc nuôi lồng/bè gồm chi phí thực tế đến thời điểm kiểm đếm (bao gồm chi phí cải tạo ao, mua con giống, thức ăn cho vật nuôi; vật tư, thuốc thú y và công lao động chăm sóc) và hệ số kỳ vọng doanh thu từ một đồng chi phí được áp dụng; Đối với thủy sản được nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến và hình thức nuôi ao truyền thống, mức bồi thường gồm năng suất theo loài x diện tích x giá bán tại thời điểm thu hồi; trong
đó, năng suất theo loài là năng suất của vụ nuôi cao nhất trong 3 năm liền kề (kg/ha) được áp dụng theo Phụ lục V ban hành kèm theo Quyết định này. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành.
Ngày 23/9/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Quyết định số 3907/ QĐ-BNNMT công bố Danh mục thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đủ điều kiện thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Trong đó, lĩnh vực thủy sản gồm: Thủ tục cấp trung ương gồm: Cấp, cấp lại giấy phép nhập khẩu thủy sản sống đối với trường hợp không phải đánh giá rủi ro; Thủ tục thuộc thẩm quyền cấp tỉnh gồm: Cấp đổi Phiếu kiểm soát thu hoạch sang Giấy chứng nhận xuất xứ cho lô nguyên liệu nhuyễn thể hai mảnh vỏ; Sửa đổi, bổ sung/cấp lại Giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) đối với hàng hóa xuất khẩu thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Cấp, cấp lại giấy xác nhận đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng thủy sản nuôi chủ lực; Xác nhận nguồn gốc loài thủy sản thuộc Phụ lục Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm có nguồn gốc khai thác từ tự nhiên; Xác nhận nguồn gốc loài thủy sản thuộc Phụ lục Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp và các loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm có nguồn gốc từ nuôi trồng; Cấp, cấp lại giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện nuôi trồng thủy sản (theo yêu cầu),… Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số 2128/QĐBNNMT ngày 16/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Ngày 23/9/2025, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Công điện số 29/CĐ-TTg về việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy xuất khẩu, phát triển thị trường ngoài nước. Trong đó, Thủ tướng giao Bộ Công Thương thúc đẩy khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết; Tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng, đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu, phục vụ hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Các doanh nghiệp chú trọng đầu tư máy móc, thiết bị, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ,… để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các sản phẩm mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các thị trường xuất khẩu. Đồng thời tiếp tục linh hoạt trong sản xuất, xuất khẩu; đa dạng hóa chuỗi cung ứng,…
Các doanh nghiệp sản xuất và chế biến tôm trong nước đã bắt nhịp rất tốt với sự chuyển dịch của thị trường tôm toàn cầu, khi mặt hàng giá trị gia tăng đã chiếm từ 30 - 40% trong tổng sản lượng tôm xuất khẩu của Việt Nam.
Giữ vững vị thế chủ lực
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu
Thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã cán mốc 8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so cùng kỳ năm trước.
Kết quả này không chỉ phản ánh sự hồi phục vững chắc của ngành thủy sản, mà còn cho thấy khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động.
Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục giữ vững vị thế chủ lực, chỉ riêng tháng 9/2025, xuất khẩu tôm đạt 410 triệu USD, đẩy tổng kim ngạch 9 tháng đầu năm lên 3,38 tỷ USD, tăng 20,3% so cùng kỳ năm trước.
Dự kiến cả năm 2025, con số này có thể chạm mốc 3,6 - 3,8 tỷ USD, một minh chứng rõ nét cho đà tăng trưởng ổn định bất chấp những rào cản thương mại gay gắt. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ nhu cầu ổn
định tại Mỹ, Nhật Bản, EU và sự mở rộng đơn hàng ở các thị trường khu vực.
Thị trường Mỹ, dù áp dụng đồng thời 3 loại thuế (đối ứng, chống bán phá giá và chống trợ cấp) nhưng vẫn là điểm đến quan trọng, chiếm tới 28% thị phần nhập khẩu tôm từ Việt Nam trong 8 tháng qua.
VASEP nhận định, Việt Nam đang nổi lên như trung tâm chế biến hàng giá trị gia tăng của thế giới. Nhiều sản phẩm mà các đối thủ như Ấn Độ hay Ecuador chưa sản xuất được, các chuỗi siêu thị Mỹ vẫn phải tìm đến Việt Nam. Điều này không chỉ nhờ chất lượng sản phẩm đạt chuẩn quốc tế mà còn từ uy tín lâu năm, giúp tôm Việt vượt qua cạnh tranh khốc liệt và duy trì vị thế vững chắc.
Vượt thách thức
Thị trường tôm toàn cầu đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ sản phẩm nguyên liệu thô sang các dòng sản phẩm giá trị gia tăng. Với xu thế đó, các doanh nghiệp sản xuất và chế biến tôm trong nước cũng đã bắt nhịp rất tốt, khi mặt hàng giá trị gia tăng
đã chiếm từ 30 - 40% trong tổng sản lượng tôm xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam.
Tuy nhiên, ngành thủy sản nói chung và sản phẩm tôm nói riêng vẫn phải đối mặt nhiều thách thức. Các chính sách thuế quan phức tạp cùng áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Ecuador,… đang tạo sức ép đáng kể.
Để vượt qua thách thức và hướng tới mục tiêu 3,8 tỷ USD, ngành tôm Việt Nam đang đặt trọng tâm vào chiến lược phát triển xanh, coi đây là chìa khóa cho tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên sản phẩm thân thiện với môi trường, việc chuyển đổi sang chuỗi nuôi trồng xanh và kinh tế tuần hoàn không chỉ giảm giá thành mà còn nâng cao sức cạnh tranh. Các chuyên gia nhấn mạnh cần kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống, thức ăn, nguồn nước và xử lý chất thải, nhằm
Nhằm ứng phó với rào cản
thương mại, hiện nay, Bộ Công
Thương đang tích cực hỗ trợ doanh nghiệp thủy sản về kỹ thuật, thông tin thị trường và đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu.
Khi các biện pháp phòng vệ như thuế chống bán phá giá hay Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển (MMPA) được áp dụng, Bộ Công Thương đã chủ động trao đổi với phía Mỹ để đề xuất giải pháp. Cục Phòng vệ Thương mại hỗ trợ doanh nghiệp về kỹ thuật và ngoại giao, trong khi Cục Xuất nhập khẩu cung cấp thông tin, hỗ trợ đa dạng hóa nguồn nguyên liệu và mở rộng thị trường.
Để tăng tính chủ động, VASEP kiến nghị Bộ Công Thương duy trì giao ban hàng tháng với hệ thống tham tán thương mại nhằm cập nhật kịp thời quy định, thuế quan và bối cảnh chính trị, giúp doanh nghiệp khai thác hiệu quả các thị trường ngách.
giảm thiểu tác động môi trường và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe. Nhằm duy trì đà tăng trưởng, bên cạnh sự đồng hành của cơ quan chức năng, ngành tôm cần tập trung theo dõi sát diễn biến thị trường và chính sách thương mại để kịp thời điều chỉnh chiến lược; cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, vừa giữ vững các thị trường truyền thống, vừa mở rộng sang ASEAN, Trung Đông và những thị trường ngách; đồng thời đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng để đáp ứng xu hướng tiêu dùng toàn cầu.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong nuôi trồngchế biến và xây dựng thương hiệu quốc gia thông qua các kênh ẩm thực cao cấp, thương mại điện tử sẽ là hướng đi quan trọng giúp thủy sản Việt Nam nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế trong thời gian tới.
Về mặt thị trường, doanh nghiệp cần
cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, thay vì tập trung quá nhiều vào một thị trường, nên khai thác đồng thời các khu vực CPTPP, EU và Trung Quốc để cân bằng rủi ro. THÁI BÌNH
Tôm Indonesia nhiễm phóng xạ, tôm Việt chớp
thời cơ
Vừa qua, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã phát hiện đồng vị phóng xạ Cesium-137 trong một lô tôm chế biến có xuất xứ từ Indonesia, sản xuất tại nhà máy PT Bahari Makmur Sejati (BMS) ở gần khu công nghiệp Cikande (Java). Đây là khu vực được cho là có dấu hiệu ô nhiễm phóng xạ lan rộng, khiến nhà chức trách Indonesia mở cuộc điều tra khẩn cấp và phát hiện hơn 20 cơ sở trong vùng có dấu vết nhiễm Cs-137.
Sau phát hiện này, FDA đã ban hành lệnh siết chứng nhận nhập khẩu bắt buộc đối với các lô hàng tôm và thủy sản từ những khu vực có nguy cơ, có hiệu lực từ cuối tháng 10/2025. Quyết định này lập tức gây ra làn sóng chấn động trong ngành tôm Indonesia - quốc gia xuất khẩu tôm lớn thứ tư thế giới, chiếm khoảng 6% tổng xuất khẩu toàn cầu và là nguồn cung chiếm gần 60% lượng tôm nhập khẩu của Mỹ từ khu vực Đông Nam Á.
Chỉ trong vài tuần sau sự cố, các nhà nhập khẩu Mỹ đồng loạt tạm dừng đơn hàng, nhiều lô tôm của Indonesia bị trả về hoặc giữ lại kiểm nghiệm bổ sung. Lượng đặt hàng chế biến giảm 30 - 35%, giá nguyên liệu nội địa sụt tới 35%, khiến chuỗi cung ứng gần như tê liệt. Nhiều doanh nghiệp chế biến buộc phải cắt giảm công suất, người nuôi mất đầu ra, trong khi các nhà máy phải chi thêm hàng chục nghìn USD cho mỗi lô hàng để đáp ứng yêu cầu kiểm nghiệm phóng xạ của FDA. Indonesia đang phải đối mặt với nguy cơ mất uy tín thương mại nghiêm trọng, đặc biệt tại thị trường Mỹ - nơi vốn đòi hỏi tiêu chuẩn vệ sinh an toàn cao nhất. Ngay cả khi Chính phủ nước này hoàn tất khử nhiễm và được phép tái xuất, việc khôi phục niềm tin người mua có thể kéo dài nhiều năm. Các nhà nhập khẩu có xu hướng chuyển đơn hàng sang những quốc gia được đánh giá an toàn và minh bạch hơn.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, Indonesia sẽ
mất tạm thời một phần thị phần ở Mỹ, các nguồn cung châu Á khác có cơ hội bù đắp khoảng trống. Xu hướng tiêu dùng cũng sẽ dịch chuyển rõ rệt sang sản phẩm chế biến sâu, truy xuất minh bạch, và có chứng nhận an toàn.
Do đó, doanh nghiệp tôm Việt Nam cần chủ động biến khủng hoảng thành cơ hội. Điều quan trọng đầu tiên là kiểm nghiệm và công bố thông tin minh bạch. Chuẩn bị sẵn hồ sơ kiểm nghiệm quốc tế được công nhận sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng vượt qua các rào cản kỹ thuật mới.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm giá trị gia tăng. Khi niềm tin về an toàn được củng cố, các sản phẩm chế biến sâu như tôm nấu chín, tôm tẩm bột, tôm tẩm vị,… sẽ là phân khúc hấp dẫn và có biên lợi nhuận cao hơn, đồng thời ít bị ảnh hưởng bởi quy định kiểm định khắt khe áp dụng với hàng tươi nguyên liệu. CHUNG LINH Sự
Thị trường Mỹ vẫn là điểm đến quan trọng
Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), thị trường Mỹ, dù áp dụng đồng thời 3 loại thuế: đối ứng, chống bán phá giá và chống trợ cấp, vẫn là điểm đến quan trọng, chiếm tới 28% thị phần nhập khẩu tôm từ Việt Nam trong 8 tháng qua. Phó Tổng Thư ký VASEP Tô Thị Tường Lan nhấn mạnh rằng, Việt Nam đang nổi lên như trung tâm chế biến hàng giá trị gia tăng của thế giới. Bà Lan chia sẻ: “Nhiều sản phẩm mà các đối thủ như Ấn Độ hay Ecuador chưa sản xuất được, các chuỗi siêu thị Mỹ vẫn phải tìm đến Việt Nam”. Điều này không chỉ nhờ chất lượng sản phẩm đạt chuẩn quốc tế mà còn từ uy tín lâu năm, giúp tôm Việt vượt qua cạnh tranh khốc liệt và duy trì vị thế vững chắc.
Xuất khẩu tôm sang EU kỳ vọng đà tăng
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) dẫn số liệu của Hải quan Việt Nam, 8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường EU đạt 376 triệu USD, tăng 17% so cùng kỳ năm trước và chiếm 12,6% tổng kim ngạch tôm cả nước. Với đà tăng trưởng 17% tính đến hết tháng 8, cộng với bức tranh nhu cầu tích cực, VASEP dự báo xuất khẩu tôm Việt sang EU từ nay đến cuối năm dự kiến tiếp tục duy trì nhịp tăng 12 - 15% so cùng kỳ. Cả năm, giá trị xuất khẩu có thể cao hơn 15 - 18% so năm trước. Nhóm sản phẩm chủ lực vẫn là TTCT bóc vỏ, tôm chế biến tiện lợi và tôm sú có chứng nhận bền vững. Đây là nhóm hàng vừa hợp khẩu vị tiêu dùng, vừa ít chịu áp lực cạnh tranh trực diện từ Ecuador và Ấn Độ. Tuy nhiên, VASEP cho rằng rủi ro còn hiện hữu từ biến động giá nguyên liệu toàn cầu, tỷ giá EUR/USD và việc EU siết chặt các quy định kiểm soát chất lượng.
Tôm giá trị gia tăng chiếm 34% kim ngạch xuất khẩu
8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu các sản phẩm tôm giá trị gia tăng (mã HS 16) của Việt Nam đạt 1 tỷ USD, tăng 12% so cùng kỳ năm trước và chiếm 34% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu lớn nhất các sản phẩm tôm giá trị gia tăng của Việt Nam gồm Mỹ (chiếm thị phần 28%), Nhật Bản (chiếm 18%), tiếp đó là Hàn Quốc (chiếm 8%). Xu thế chuyển dịch từ tôm thô sang tôm giá trị gia tăng đang diễn ra nhanh chóng và rõ rệt. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam. Nếu tận dụng được lợi thế chế biến sẵn, đồng thời chủ động nâng cao minh bạch chuỗi cung ứng, tuân thủ chuẩn bền vững và đầu tư mạnh vào đổi mới sản phẩm, Việt Nam có thể khẳng định vị thế “trung tâm chế biến giá trị gia tăng” toàn cầu.
Giá trị xuất khẩu tôm hùm
tăng mạnh
Theo bà Lê Hằng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tôm hùm chính là “ngôi sao” của ngành xuất khẩu thủy sản trong 8 đầu năm với kim ngạch lên tới 536 triệu USD, tăng 194% so cùng kỳ năm trước. Một số doanh nghiệp xuất khẩu tôm hùm cho biết, Trung Quốc vẫn là thị trường chủ lực của mặt hàng này. 8 tháng đầu năm 2025, thị trường Trung Quốc đã nhập khẩu tôm Việt Nam đến 836 triệu USD tăng 75% so cùng kỳ năm trước và chiếm gần 30% tổng kim ngạch cả nước. Bên cạnh tôm hùm, người tiêu dùng tại Trung Quốc cũng chi mạnh tay cho các sản phẩm tôm sú cỡ lớn từ Việt Nam. Đây là một lợi thế đặc trưng của ngành tôm Việt Nam so các đối thủ lớn như Ecuador hay Ấn Độ. Dự báo giai đoạn từ nay đến cuối năm lượng xuất khẩu tôm hùm sẽ tiếp tục tăng vì bắt đầu vào mùa cao điểm tiêu thụ tôm hùm trong năm.
Xuất khẩu tôm Việt Nam tăng hơn 20%
Ngành tôm Việt Nam đang trụ vững trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu đầy biến động. Với vị thế là “quán quân” trong nhóm hàng xuất khẩu thủy sản, tôm không chỉ mang về nguồn ngoại tệ dồi dào mà còn khẳng định vị trí của Việt Nam trên bản đồ chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), chỉ riêng tháng 9/2025, xuất khẩu tôm đạt 410 triệu USD, đẩy tổng kim ngạch 9 tháng đầu năm 2025 lên 3,38 tỷ USD, tăng 20,3% so cùng kỳ năm trước. Dự kiến cả năm 2025, con số này có thể chạm mốc 3,6 - 3,8 tỷ USD, một minh chứng rõ nét cho đà tăng trưởng ổn định bất chấp những rào cản thương mại gay gắt.
Giá tôm ổn định tại một số địa phương
Những ngày đầu tháng 10/2025, giá tôm nguyên liệu tại một số địa phương nhìn chung ổn định. Cụ thể, tại Quảng Trị, tôm đất cỡ 40 - 50 con/kg có giá 400.000 đồng/kg, tôm bộp ở mức 420.000 đồng/kg, tôm sú cỡ 20 - 30 con/kg đạt 430.000 đồng/kg, TTCT cỡ 30 - 40 con/kg ở mức 240.000/kg, trong khi tôm hùm cỡ 3 - 5 con/ kg vẫn duy trì mức 1.250.000 đồng/kg. Còn tại Đắk Lắk, giá tôm sú duy trì ổn định so tháng trước, với mức 220.000 đồng/kg cỡ 50 con/kg, 250.000 đồng/kg cỡ 40 con/kg và 300.000 đồng/kg cỡ 30 con/kg. Ngược lại, TTCT có dấu hiệu giảm giá, ở mức 102.000 đồng/ kg đối với cỡ 100 con/kg, giảm khoảng 3.000 đồng so đầu tháng 9.
VĨNH LONG TTCT được giá, người dân phấn khởi
Giá TTCT tại tỉnh Vĩnh Long thời gian gần đây tăng mạnh, mang lại niềm vui lớn cho người nuôi. Cụ thể, hiện TTCT loại 30 con/kg có giá 150.000 - 160.000 đồng/kg, tôm loại 20 con/kg có giá từ 190.000 - 200.000 đồng/kg, cao hơn từ 30.000 - 40.000 đồng/kg so cùng kỳ năm trước. Người dân địa phương phấn khởi cho biết, giá bán cao không chỉ giúp họ bù đắp chi phí đầu tư mà còn có lãi khá, nhất là trong bối cảnh giá thức ăn và vật tư đầu vào vẫn ở mức cao. Các thương lái thu mua tôm tại tỉnh Vĩnh Long cho biết, hiện giá tôm tăng cao là do thị trường tiêu thụ trong nước tăng mạnh, các nhà máy tập trung sản xuất để đáp ứng đơn hàng vào dịp cuối năm. Ngoài ra, thời điểm này là “nghịch vụ”, mưa nhiều làm cho sản lượng tôm nuôi theo hình thức truyền thống bị sụt giảm, khiến nguồn cung hạn chế, góp phần đẩy giá lên cao.
CÀ MAU
Giá tôm nguyên liệu duy trì ổn định ở mức cao
Giá tôm nguyên liệu tại tỉnh Cà Mau duy trì ổn định ở mức cao, điều này không chỉ mang đến tâm lý phấn khởi, mà còn là động lực để người dân tiếp tục duy trì, mở rộng sản xuất, góp phần quan trọng vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Cụ thể, tôm sú loại 40 con/kg, giá 155.000 - 160.000 đồng/kg; loại 30 con/kg, giá 170.000 - 175.000 đồng/kg; loại 20 con/kg, giá 215.000 - 220.000 đồng/kg; TTCT loại 100 con/kg, giá 89.000 - 91.000 đồng/kg; TTCT loại 70 con/kg, giá 110.000 - 115.000 đồng/kg; TTCT loại 50 con/kg, giá 177.000 - 122.000 đồng/kg; TTCT loại 20 con/kg, giá 215.000 - 220.000 đồng/kg. Với mức giá này, trừ các khoản chi phí đầu tư, người nuôi tôm thu lãi khá cao.
ANH VŨ (Tổng hợp)
INDONESIA
Điều tra nghi vấn nhiễm phóng xạ trong tôm xuất khẩu sang Mỹ
Bộ Công nghiệp Indonesia vừa thông báo mở cuộc điều tra khẩn cấp sau khi xuất hiện cáo buộc một số lô tôm xuất khẩu sang Mỹ bị phát hiện nhiễm chất phóng xạ Cesium-137. Theo kết quả kiểm nghiệm của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), dấu vết Cesium-137 được phát hiện trong lô hàng nhập từ Indonesia. Chính phủ Indonesia đã yêu cầu các cơ quan liên quan nhanh chóng xác minh, phối hợp với Cơ quan Giám sát Hạt nhân (Bapeten) và các bên liên quan. Nguồn phát tán phóng xạ nghi ngờ xuất phát từ Công ty luyện kim PT Peter Metal Technology (PMT) tại Cikande, có thể đã ảnh hưởng đến nhà máy chế biến tôm PT Bahari Makmur Sejati (BMS) gần đó. Hiện 26 container tôm bị Mỹ trả về, trong đó 18 container đang được lưu giữ tại cảng Tanjung Priok để Viện Nghiên cứu và Đổi mới Quốc gia (BRIN) kiểm tra. Chính phủ Indonesia cam kết minh bạch thông tin và phối hợp với Mỹ cùng IAEA nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm và uy tín xuất khẩu.
Giá tôm tiếp tục lao dốc sau quy định mới
của FDA
Tuần 42 (13 - 19/10), giá tôm tại các trại nuôi (farm-gate) ở Indonesia tiếp tục giảm mạnh, sau khi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) công bố yêu cầu bắt buộc chứng nhận “không nhiễm phóng xạ” cho các lô hàng tôm xuất khẩu. Động thái này được đưa ra sau vụ việc một lô tôm Indonesia bị phát hiện chứa Cesium-137, khiến thị trường xuất khẩu rơi vào khủng hoảng niềm tin. Giá tôm giảm sâu đang gây áp lực lớn cho cả người nuôi và doanh nghiệp chế biến, trong bối cảnh nhiều đối tác quốc tế tạm hoãn đơn hàng chờ kết quả kiểm tra. Hiện Indonesia vẫn là nhà cung cấp tôm lớn thứ năm thế giới, song các chuyên gia cảnh báo, nếu tình hình kéo dài, chuỗi giá trị ngành tôm nước này có thể chịu tổn thất nghiêm trọng.
MỸ
Pacific Seafood đẩy mạnh quảng bá tôm hồng
Pacific Seafood đang đẩy mạnh chiến dịch tiếp thị cho sản phẩm tôm hồng Coldwater Pink Shrimp - loài tôm khai thác tự nhiên đặc trưng vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Đây được xem là thời điểm thuận lợi để nâng cao nhận diện và quảng bá tính đa dụng, tiện lợi của sản phẩm. Hiện nay, các đầu bếp có xu hướng tìm kiếm nguồn protein có năng suất cao, dễ chế biến, trong khi người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm có nguồn gốc bền vững, thành phần sạch và ưu tiên nguyên liệu địa phương. Tôm hồng Coldwater Pink Shrimp đáp ứng đồng thời các yêu cầu đó và đã đạt chứng nhận của Hội đồng Quản lý Biển (MSC) về khai thác bền vững. Để tăng sức hút thị trường, Pacific Seafood đã đổi tên sản phẩm từ “Coldwater Salad Shrimp” thành “Coldwater Pink Shrimp”, giúp cách gọi trở nên thân thiện và dễ nhận biết hơn. Doanh nghiệp cũng đang mở rộng hoạt động quảng bá đến các chuỗi nhà hàng, siêu thị và dịch vụ ăn uống, với mục tiêu đưa sản phẩm tôm hồng Coldwater trở thành lựa chọn phổ biến hơn trên thị trường nội địa và quốc tế.
Ả RẬP XÊ ÚT
Cấp phép xuất khẩu cho tôm từ Bangka Belitung (Indonesia)
Chính phủ Ả Rập Xê Út vừa chính thức cấp phép cho quần đảo Bangka Belitung (Babel) của Indonesia xuất khẩu tôm sang nước này, mở ra cơ hội lớn tiếp cận thị trường Trung Đông. Trước đây, Babel chủ yếu xuất khẩu tôm sang Mỹ với sản lượng 15.000 - 20.000 tấn/năm. Theo Cơ quan Chất lượng thuộc Bộ Hàng hải và Thủy sản Indonesia, việc được Ả Rập Xê Út cấp phép là bước ngoặt quan trọng giúp đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào Mỹ - thị trường ngày càng khó lường do các rào cản thuế và quy định nhập khẩu. Gần đây, Mỹ đã từ chối 139 lô tôm của công ty Bahari Makmur Sejati, gây thiệt hại cho hàng trăm nông dân. Trong bối cảnh đó, việc mở rộng sang Ả Rập Xê Út được xem là hướng đi chiến lược, giúp ngành tôm Babel ổn định và phát triển bền vững hơn.
ẤN ĐỘ
Nông dân nuôi tôm lao đao vì thuế Mỹ
Hàng chục nghìn hộ nuôi tôm tại bang Andhra Pradesh, miền Nam Ấn Độ, đang đối mặt khủng hoảng sau khi Mỹ áp mức thuế nhập khẩu lên tới 50% đối với tôm và các mặt hàng từ Ấn Độ. Theo Reuters, nhiều người nuôi đã buộc phải bán tôm dưới giá thành, khiến lợi nhuận gần như bị xóa sổ và nợ nần chồng chất. Ấn Độ hiện là nhà cung cấp tôm lớn nhất cho Mỹ, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản trị giá 7,4 tỷ USD năm trước. Tuy nhiên, mức thuế cao kỷ lục đã khiến các nhà xuất khẩu cắt giảm giá thu mua tại trại nuôi tới 20%, trong khi chi phí điện, thức ăn và thuê đất vẫn tăng. Tình hình này khiến nhiều nông dân buộc phải xem xét chuyển sang nuôi cá hoặc kinh doanh ngành nghề khác để duy trì sinh kế.
Xuất khẩu tôm Nellore sang Nga tăng mạnh
Sau khi Mỹ áp thuế gần 60% đối với tôm Ấn Độ vào tháng 8/2025, ngành nuôi trồng thủy sản tại Nellore (bang Andhra Pradesh) chịu thiệt hại nặng, diện tích nuôi giảm một nửa và nhiều nhà máy phải đóng cửa. Tuy nhiên, Nga đã trở thành “phao cứu sinh” giúp khu vực phục hồi khi tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường này tăng từ 10% lên gần 40%, góp phần ổn định giá và khôi phục niềm tin của người nuôi. Hiện Nellore có 8 nhà máy chế biến lớn hoạt động trở lại, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, chủ yếu là phụ nữ và người nhập cư. Chính phủ Ấn Độ cũng đang thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa thị trường, tập trung phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng như tôm lột vỏ, tôm nấu chín và mở rộng xuất khẩu sang Nga, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tìm đường xuất khẩu thủy sản sang EU và châu Á
Trước mức thuế gần 60% do Mỹ áp đặt, các nhà xuất khẩu thủy sản Ấn Độ đang tích cực mở rộng thị trường sang EU, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan và Trung Đông nhằm giảm thiệt hại và giải phóng hàng tồn kho. Theo Hiệp hội Xuất khẩu Thủy sản Ấn Độ (SEAI), Mỹ hiện áp thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và bổ sung 50%, khiến tôm Ấn Độ mất lợi thế so với Ecuador (15%) và Việt Nam (20%). Nhờ sự can thiệp của Bộ Thương mại, EU đã phê duyệt thêm 102 nhà máy được phép xuất khẩu, mở ra cơ hội tại các thị trường như Bỉ, Tây Ban Nha và Italia. SEAI cho biết ngành cũng đang xem xét xuất khẩu sang Ai Cập.
OANH THẢO
Ngành tôm thế giới trước
bước ngoặt lớn
Diễn đàn Tôm Toàn cầu 2025 tại Utrecht (Hà Lan) thu hút hơn 580 đại biểu từ doanh nghiệp, tổ chức chứng nhận, quỹ đầu tư và giới chuyên gia. Sự kiện tập trung vào ba trụ cột: phát triển bền vững, đổi mới công nghệ và thích ứng trước biến động thương mại.
Bài toán bền vững từ khai thác
đến ao nuôi
Ngay trước thềm Hội nghị, Hội đồng
Quản lý Biển (MSC) đã tổ chức “Hội nghị tôm khai thác tự nhiên”, nhấn mạnh tầm quan trọng của phân khúc này, vốn chiếm khoảng 27% trong tổng sản lượng tôm toàn cầu 12 triệu tấn.
Dù đóng góp hàng triệu việc làm, song chỉ một phần ba nguồn lợi tôm tự nhiên được chứng nhận hoặc tham gia các dự án cải thiện nghề cá. Khoảng trống dữ liệu và thiếu minh bạch khiến tính bền vững của ngành đối diện nhiều rủi ro, cả về uy tín lẫn khả năng tiếp cận thị trường. MSC cho rằng, khi được quản lý đúng và có công cụ chứng nhận đáng tin cậy, nghề cá khai thác có thể phục hồi và tạo ra giá trị lâu dài.
Song song, Hội đồng Quản lý Nuôi trồng Thủy sản (ASC) tập trung vào thách thức của nông hộ nuôi tôm quy mô nhỏ ở Honduras và Indonesia. Trong bối cảnh toàn cầu ngày càng đòi hỏi truy xuất nguồn gốc, chứng nhận và vốn đầu tư, nông dân nhỏ lẻ thường bị gạt ra ngoài
cuộc chơi do thiếu nguồn lực tài chính và công nghệ.
Một số sáng kiến mới như mô hình chia sẻ lợi nhuận với rủi ro tài chính bằng không ở Indonesia, hay bộ “quy chuẩn nền tảng” nhằm chuẩn hóa thực hành nuôi tôm ở cấp quốc gia, được kỳ vọng sẽ giúp họ có cơ hội hòa nhập chuỗi cung ứng quốc tế. Câu chuyện từ Honduras - nơi ngành tôm đóng góp 2,2% GDP và tạo 120.000 việc làm cho thấy nếu có vốn và lãi suất ưu đãi, nông dân có thể đầu tư vào công nghệ cho ăn tự động, sục khí và chứng nhận, từ đó nâng cao năng suất và mở rộng thị trường.
Mở rộng tiêu dùng và tái
cấu trúc chuỗi giá trị Nếu như cuộc cạnh tranh giữa Mỹ Latinh và châu Á giành thị trường xuất khẩu đang gay gắt, thì theo nhiều chuyên gia, trận chiến lớn hơn của ngành tôm là mở rộng dung lượng tiêu thụ toàn cầu. Tại diễn đàn, CEO Nutreco Bastiaan van Tilburg cho rằng, nếu Ấn Độ - nơi tiêu thụ bình quân đầu người dưới 0,5 kg tôm mỗi năm đạt mức tương
đương Mỹ (2,3 - 2,7 kg), thì thị trường sẽ tăng thêm tới 3 triệu tấn tôm. Nói cách khác, thay vì tranh giành miếng bánh, ngành tôm cần chung tay để tạo ra chiếc bánh lớn hơn, thông qua nâng cao nhận thức, đa dạng sản phẩm và cải tiến công nghệ.
Trên bình diện thương mại, Ecuador tiếp tục nổi lên với mức tăng trưởng xuất khẩu 70% trong nửa đầu năm 2025, dự kiến đạt 1,4 - 1,5 triệu tấn, nhờ lợi thế về tôm bỏ đầu, lột vỏ và sự hỗ trợ từ biến động thuế quan Mỹ. Trong khi đó, Ấn Độ giữ nhịp tăng ổn định, Việt Nam chuyển hướng sang sản phẩm giá trị gia tăng, còn Indonesia phục hồi nhẹ.
Ở các thị trường nhập khẩu, Mỹ ghi nhận mức tăng mạnh với 780.000 tấn, châu Âu tăng 25% nhờ Pháp và Tây Ban Nha, trong khi Trung Quốc giảm nhẹ và Nhật Bản ổn định. Sự tái cấu trúc này được nhận định sẽ tạo lợi thế dài hạn cho Ecuador và Ấn Độ, trong khi Việt Nam và các nước nhỏ phải đối diện sức ép lớn. Một xu hướng quan trọng khác là tối ưu hóa
Quỹ Diễn đàn Tôm tài trợ, 10 quốc gia, trong đó có Việt Nam, thải ra tới hơn 827.000 tấn phụ phẩm tôm mỗi năm, phần lớn bị xem như rác thải. Tuy nhiên, nguồn phụ phẩm này có thể được chế biến thành nguyên liệu dược phẩm, phân bón nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, thậm chí thay thế những vật liệu gây hại môi trường. Khái niệm “tư duy chuỗi giá trị con tôm” được đề xuất, khuyến khích tận dụng 100% giá trị của con tôm để vừa gia tăng lợi nhuận vừa giảm gánh nặng môi trường.
Tương lai ngành tôm: AI, tự động hóa và dinh dưỡng chính xác
Công nghệ đang mở ra một cuộc cách mạng mới cho chế biến tôm. Các hệ thống phân loại bằng trí tuệ nhân tạo (AI) đã được
triển khai tại Ecuador, Ấn Độ, Việt Nam và sắp tới là Mexico, có khả năng quét từng con tôm, xác định khuyết điểm, ước lượng tỷ lệ hao hụt và thậm chí tự động cắt bỏ đầu. AI kết hợp với camera hồng ngoại và robot giá rẻ hứa hẹn biến dây chuyền chế biến trở nên
tự động, chính xác và tiết kiệm hơn. Ngoài ra, AI thị giác máy tính còn hỗ trợ kiểm soát
chất lượng, phát hiện vật thể lạ, mở đường
cho quá trình số hóa toàn diện ngành tôm.
Ở khía cạnh dinh dưỡng, các chuyên gia cho rằng công thức thức ăn sẽ đóng vai trò then chốt trong việc giảm phát thải và tối
ưu chi phí. Bài học từ ngành gia cầm - nơi
70% nguyên liệu đậu nành toàn cầu được sử dụng và 90% cải tiến dinh dưỡng gắn liền với tiến bộ di truyền - có thể áp dụng cho tôm. Việc chuyển từ nguồn nguyên liệu biển sang nguyên liệu thay thế bền vững, kết hợp với dinh dưỡng chính xác, không chỉ giúp giảm chi phí mà còn cắt giảm đáng
kể dấu chân carbon. Nghiên cứu mới về vai trò của các axit béo EPA và DHA cũng mở ra hướng đi cho thức ăn chức năng, cải thiện năng suất và tỷ lệ sống.
Diễn đàn Tôm toàn cầu 2025 đã phác họa một bức tranh toàn cảnh ngành tôm đang bước vào giai đoạn bản lề, nơi bền vững không chỉ là trách nhiệm mà còn là điều kiện để tồn tại; đổi mới công nghệ không còn xa xỉ mà là động lực cốt lõi; và thương mại quốc tế không dừng ở việc giành giật thị phần, mà phải song hành với mở rộng nhu cầu tiêu dùng. Với sự hợp tác giữa nhà quản lý, doanh nghiệp và nông dân, ngành tôm có cơ hội lớn để định hình lại chính mình, tiến tới một tương lai cân bằng giữa lợi nhuận, trách nhiệm xã hội và môi trường. TUẤN MINH
(Theo Intrafish/GlobalSeafood )
ẤN ĐỘ
Nỗ lực tìm lối thoát mới
cho
xuất khẩu
Một công nghệ bản địa vừa được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ Trung ương (CIBA) công bố, hứa hẹn mang lại năng suất cao, an toàn dịch bệnh và chi phí thấp hơn, mở ra giải pháp cho những thách thức lớn của ngành tôm Ấn Độ.
CIBA thuộc ICAR đã phát triển thành công hệ thống nuôi tôm “siêu thâm canh, chính xác và tự nhiên” - mô hình ao tròn khép kín tích hợp nhiều công nghệ bản địa, tối ưu hóa quản lý năng lượng, nước, thức ăn và diện tích. Công nghệ này đã được chuyển giao cho doanh nghiệp, mở ra bước ngoặt cho ngành tôm Ấn Độ trên con đường hướng tới phát triển bền vững.
Mô hình bản địa, nhỏ gọn nhưng ưu việt
Theo nhà khoa học K. P. Kumaraguru Vasagam, hệ thống mới được thiết kế dưới dạng ao nuôi tròn, tích hợp các công nghệ lõi của CIBA: cho ăn thông minh, sục khí chủ động, kiểm soát an toàn sinh học nghiêm ngặt, tự sản xuất thức ăn tự nhiên tại chỗ, thay nước tối thiểu và tiêu thụ điện năng thấp. Những đặc tính này không chỉ giúp nuôi tôm an toàn, ổn định mà còn thân thiện môi trường, phù hợp xu hướng nuôi bền vững mà FAO đang khuyến nghị toàn cầu.
Trong các thử nghiệm tại cơ sở Muttukadu, CIBA đã nuôi thành công 13 vụ TTCT liên tục suốt hai năm mà không gặp dịch bệnh, đạt tỷ lệ sống tới 97,8% và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) lý tưởng dưới 1,2. Năng suất ghi nhận vượt trội: 40 - 50 tấn/ha/vụ, gấp 7 - 8 lần so với mức 6 tấn/ha trong mô hình truyền thống. Với khả năng thả nuôi 3 - 4 vụ/năm, sản lượng lý thuyết có thể vượt 120 tấn/ha/ năm, một con số mang tính đột phá. “Chúng tôi đã thử nghiệm thành công trên TTCT và trong tương lai có thể áp dụng cho các loài tôm bản địa của Ấn Độ”, Vasagam cho biết.
Công nghệ cao để nuôi mật độ siêu dày
Điểm then chốt của hệ thống mới là nuôi mật độ rất cao, điều vốn gây nhiều rủi ro trong điều kiện thường. Vasagam lý giải:
“Trong nuôi mật độ dày, duy trì ôxy hòa tan là yếu tố sống còn. Chúng tôi sử dụng sục khí thông minh với ba dạng khác nhau gồm guồng quạt nước, bọt khí nano và nano ôxy, cùng hệ thống giám sát liên tục và dự phòng điện để đảm bảo vận hành ổn định”. Nhờ kiểm soát chặt chẽ các thông số môi trường, hệ thống này vượt trội so với phương pháp truyền thống, giúp giảm thiểu dịch bệnh và tăng năng suất một cách bền vững.
Hướng tới tương lai bền vững
Sự ra đời của hệ thống nuôi “siêu thâm canh” được giới chuyên gia đánh giá là bước ngoặt giúp ngành tôm Ấn Độ tiến gần hơn đến mục tiêu phát triển bền vững, vừa đảm bảo sản lượng cao, vừa giảm thiểu rủi ro môi trường và dịch bệnh.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt, công nghệ mới của CIBA không chỉ giúp nông dân Ấn Độ vượt qua thách thức hiện tại mà còn củng cố vị thế của quốc gia này trên bản đồ tôm thế giới. Với khả năng mở rộng quy mô và ứng dụng cho cả các loài tôm bản địa, hệ thống “siêu thâm canh” được kỳ vọng sẽ trở thành trụ cột cho ngành tôm Ấn Độ trong giai đoạn tới.
DŨNG NGUYÊN (Theo Fishfarmingexpert)
DOANH NGHIỆP
Kháng khuẩn tự nhiên giúp kiểm soát WSSV,
EHP
và TPD
Các kết quả nghiên cứu tại châu Á cho thấy, hỗn hợp kháng khuẩn tự nhiên từ axit hữu cơ và hợp chất thực vật có thể giảm tỷ lệ nhiễm WSSV, EHP và TPD. Đây được xem là hướng đi bền vững, thay thế kháng sinh trong nuôi tôm.
“Bộ ba” thách thức
Ngành nuôi tôm thế giới hiện đạt sản lượng trên 5 triệu tấn/năm, nhưng dịch bệnh vẫn là yếu tố hạn chế lớn nhất đối với năng suất và lợi nhuận. Virus gây bệnh đốm trắng (WSSV) luôn là mối nguy số một, có thể tiêu diệt toàn bộ ao nuôi chỉ trong vài ngày. Song song đó, Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây tổn thương gan tụy, làm tôm chậm lớn, còi cọc và giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, dù ít khi gây chết cấp tính. Một thách thức mới nổi lên là bệnh ấu trùng trong suốt (TPD) , bắt nguồn từ các chủng Vibrio parahaemolyticus mang nhiều gen độc lực, đặc biệt ở giai đoạn tôm giống và ấu trùng, gây thiệt hại trực tiếp cho nguồn cung đầu vào.
Các bệnh này khác nhau về cơ chế gây hại, nhưng đều dẫn đến hậu quả chung: tỷ lệ chết cao, sức tăng trưởng kém, và tổn thất kinh tế lớn. Việc lạm dụng kháng sinh
hoặc hóa chất không chỉ kém hiệu quả mà còn tạo áp lực kháng thuốc và bị siết chặt bởi yêu cầu thị trường. Chính vì vậy, ngành nuôi tôm đang tìm kiếm những biện pháp phòng trị an toàn, phổ rộng và thân thiện môi trường.
Một trong những giải pháp nổi bật gần đây là hỗn hợp kháng khuẩn tự nhiên dựa trên axit hữu cơ và hợp chất thực vật (AuraAqua, Auranta, Ireland). Nghiên cứu cho thấy các hợp chất này không chỉ ức chế trực tiếp mầm bệnh mà còn tác động đến cơ chế miễn dịch và cân bằng ôxy hóa của tôm, nhờ vậy mang lại hiệu quả phòng vệ đa chiều.
Cơ chế bảo vệ và hiệu quả kiểm soát bệnh Điểm mạnh của kháng khuẩn tự nhiên nằm ở cơ chế tác động đa mục tiêu, tập trung vào mối tương tác ký chủ - mầm
bệnh thay vì chỉ ức chế một tác nhân đơn lẻ. Với WSSV, các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy hỗn hợp kháng khuẩn có thể ức chế quá trình nhân bản WSSV ở nhiều giai đoạn. Tôm xử lý trước hoặc sau khi phơi nhiễm đều có tải lượng virus thấp hơn đáng kể, nhờ giảm stress ôxy hóa, đặc biệt là nồng độ hydrogen peroxide (H2O2). WSSV thường kích hoạt hệ thống NADPH oxidase để tạo H2O2, vượt quá khả năng chống ôxy hóa tự nhiên. Việc bổ sung hợp chất kháng khuẩn giúp giảm mạnh H 2O2, đồng thời tăng cường biểu hiện enzyme HO-1 oxygenase - có khả năng ức chế nhân bản virus và giảm viêm. Các thí nghiệm còn ghi nhận sự gia tăng tiết mucin, củng cố hàng rào peritrophic trong ruột, từ đó nâng cao khả năng bảo vệ niêm mạc. Kết quả thực nghiệm cho thấy tỷ lệ chết của tôm đối chứng gần 97%, trong khi nhóm có bổ sung hợp chất chỉ còn dưới 10%. Ứng dụng thực địa tại Thái Lan từ 2022 đến nay cũng ghi nhận tỷ lệ lưu hành WSSV giảm từ hơn 30% xuống chỉ còn 310%.
Đối với EHP, thử nghiệm in vitro cho thấy, ở nồng độ chỉ 0,5%, hợp chất kháng khuẩn đã làm giảm hoạt tính bào tử đáng kể. Tôm được xử lý trước khi phơi nhiễm duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định, khác biệt rõ rệt so với nhóm đối chứng. Hợp chất này hạn chế tình trạng kích hoạt quá mức NF- κ B - con đường dẫn đến sự sản xuất ồ ạt peptide kháng khuẩn gây tổn thương mô. Đồng thời, chúng giảm giải phóng H2O2, tăng hoạt tính enzyme catalase (CAT) và superoxide dismutase (SOD), qua đó kiểm soát stress ôxy hóa. Các thí nghiệm thực địa tại nhiều vùng nuôi ở châu Á xác nhận hiệu quả: tôm nhiễm EHP nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng trọng tuyến tính và sức khỏe gan tụy. TPD là mối đe dọa mới nhưng rất nguy hiểm ở giai đoạn ấu trùng và giống. Các chủng Vibrio parahaemolyticus gây bệnh
nhờ hệ độc tố Vhvp-1, Vhvp-2 và PirA/PirB.
Hỗn hợp kháng khuẩn tự nhiên đã chứng
minh khả năng ức chế chọn lọc các gen
độc lực này ngay cả ở nồng độ thấp (0,05 - 0,1%), trong khi vẫn duy trì chức năng chuyển hóa cơ bản của vi khuẩn.
Ở quy mô phòng thí nghiệm, tỷ lệ chết
của ấu trùng không xử lý đạt 91% sau 45 giờ. Ngược lại, khi bổ sung 0,1% hợp chất, tỷ lệ chết giảm còn 12%; ở mức 1%, tỷ lệ sống đạt tới 98%. Cơ chế bảo vệ bao gồm giảm bám dính vi khuẩn, giảm giải phóng H 2O2 ngoại bào và tăng hoạt tính enzyme alkaline phosphatase, cho thấy tác động trực tiếp lên cấu trúc màng vi khuẩn. Nhìn chung, cơ chế bảo vệ bao gồm: Ức chế nhân bản hoặc độc lực của mầm bệnh (virus, vi khuẩn, ký sinh trùng);
Giảm stress ôxy hóa nhờ kiểm soát H2O2 và tăng cường enzyme chống ôxy hóa (CAT, SOD); Củng cố hàng rào biểu mô và ruột, bảo vệ màng peritrophic; Điều hòa miễn dịch, tránh tình trạng bùng nổ phản ứng quá mức gây tổn thương mô. Chính nhờ sự kết hợp đồng thời nhiều cơ chế này, kháng khuẩn tự nhiên mang lại hiệu quả bảo vệ phổ rộng - điều mà các giải pháp đơn lẻ thường không đạt được.
Từ phòng thí nghiệm đến thực tiễn nuôi thương mại
Tại Thái Lan, việc áp dụng sản phẩm kháng khuẩn tự nhiên từ năm 2022 đã giúp giảm tỷ lệ lưu hành WSSV từ hơn 30% xuống chỉ còn 3 - 10%, đồng thời đảm bảo năng suất và đáp ứng yêu cầu thị trường về thủy sản “không kháng sinh”.
Ở nhiều vùng nuôi châu Á, bổ sung hợp chất này trong trại giống và ao ương đã cho thấy tỷ lệ sống cao hơn, tăng trưởng ổn định hơn ngay cả khi chịu áp lực từ EHP và TPD. Đây là giai đoạn mẫn cảm nhất của chuỗi sản xuất, rủi ro dịch bệnh cao và việc sử dụng kháng sinh bị hạn chế. Do đó, kháng khuẩn tự nhiên đang được đánh giá như một công cụ quản lý chủ lực cho trại giống, đảm bảo đầu vào khỏe mạnh cho vụ nuôi thương phẩm.
Trong bối cảnh áp lực dịch bệnh ngày càng gia tăng, hỗn hợp kháng khuẩn tự nhiên được xem là một trong những chiến lược quản lý dịch bệnh triển vọng nhất, vừa bảo vệ năng suất và lợi nhuận cho người nuôi, vừa góp phần xây dựng ngành tôm không kháng sinh, đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu khắt khe.
MI LAN (Theo AsiaAquaculture)
PROTEIN VI KHUẨN METHANOTROPH
Giải pháp thay thế bền vững
cho bột cá
Một nghiên cứu dinh dưỡng đột phá cho thấy protein đơn bào (BSCP) chiết xuất từ vi khuẩn ôxy hóa methane có thể trở thành nguyên liệu thức ăn bền vững và chức năng thay thế bột cá trong nuôi tôm.
Dinh dưỡng vượt trội Công trình là kết quả hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Thực phẩm và Nông nghiệp (IRTA, Tây Ban Nha), Khoa Khoa học Động vật - Đại học Wageningen & Research (Hà Lan), Công ty Unibio A/S (Đan Mạch), Đại học Kỹ thuật Manabí (Ecuador) và Viện Sinh thái & Tiến hóa A.N. Severtsov RAS (Nga). Nghiên cứu do Tiến sĩ Enric Gisbert (IRTA) dẫn dắt, tập trung đánh giá việc bổ sung protein đơn bào từ vi khuẩn methanotroph trong khẩu phần nuôi TTCT (Litopenaeus vannamei). Kết quả cho thấy có thể thay thế tới 50% bột cá mà không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tối ưu. Khi nâng tỷ lệ thay thế lên 75%, tốc độ tăng trưởng giảm 18,1%, song tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) vẫn tương đương nhóm đối chứng. Các tác giả nhấn mạnh, thành phần thức ăn mới này không chỉ góp phần giảm phụ thuộc vào nguồn lợi thủy sản biển mà còn tăng cường sức khỏe cho tôm nuôi.
Kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định tiềm năng dinh dưỡng của protein đơn bào. BSCP có thành phần axit amin gần tương đồng với bột cá, đảm bảo cung cấp nguồn protein chất lượng cao. Đặc biệt, ngoài giá trị dinh dưỡng, BSCP còn thể hiện vai trò chức năng: tôm ăn khẩu phần giàu
BSCP có phản ứng chống ôxy hóa điều hòa tốt hơn và cấu trúc hệ vi sinh đường ruột thay đổi theo hướng tích cực, giúp tăng sức đề kháng với vi khuẩn gây bệnh Vibrio harveyi. Theo nhóm nghiên cứu, điều này cho thấy protein đơn bào không chỉ là nguồn thay thế protein, mà còn là thành phần thức ăn chức năng hỗ trợ sức khỏe và khả năng chống chịu của tôm.
An toàn và thân thiện môi trường Kết quả phân tích mô học khẳng định việc bổ sung BSCP không gây biến đổi cấu trúc mô gan tụy hay ruột, chứng minh tính an toàn của nguyên liệu này trong công thức thức ăn thủy sản. Nhóm tác giả khẳng định BSCP là lựa chọn đáng tin cậy và hiệu quả cho ngành công nghiệp thức ăn nuôi trồng thủy sản.
Ý nghĩa bền vững của nghiên cứu cũng được đánh giá cao. Ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu lâu nay luôn tìm cách giảm phụ thuộc vào bột cá - nguồn nguyên liệu gây áp lực lên trữ lượng cá biển tự nhiên. Protein đơn bào từ vi khuẩn methanotroph, với khả năng sử dụng methane làm nguồn carbon, mở ra giải pháp kinh tế tuần hoàn, giúp giảm đáng kể dấu chân môi trường của nghề nuôi tôm.
Chia sẻ về nghiên cứu, Tiến sĩ Enric Gisbert cho biết: “Công trình này đánh dấu bước tiến quan trọng trong nghiên cứu dinh dưỡng tôm của nhóm chúng tôi. Việc mở rộng sang lĩnh vực dinh dưỡng giáp xác mang đến nhiều cơ hội hợp tác mới, đồng thời đặt ra những thách thức và câu hỏi khoa học thú vị. Đây mới chỉ là khởi đầu cho một hướng nghiên cứu đầy triển vọng mà chúng tôi kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong tương lai”.
MI LAN (Theo Efeedlink)
Ứng dụng chiết xuất
từ
rong bún trong
ương tôm
Shutterstock
Chiết xuất từ rong bún (Enteromorpha intestinalis) được chứng minh có khả năng cải thiện tăng trưởng, sức khỏe và khả năng chịu đựng môi trường của TTCT trong giai đoạn ương. Đây là giải pháp tiềm năng giúp nâng cao hiệu quả và giảm rủi ro trong nuôi tôm.
Tiềm năng từ rong biển
TTCT (Litopenaeus vannamei) là loài
được nuôi phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam, do có khả năng thích nghi tốt với môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên, hiện nay, mô hình TTCT thâm canh vẫn đang
đối mặt với nhiều thách thức như: các vấn đề về môi trường, chất lượng con giống, thức ăn và dịch bệnh, làm giảm hiệu quả sản xuất. Trong đó, chi phí thức ăn chiếm khoảng 58% tổng chi phí sản xuất trong mô hình nuôi thâm canh (Sơn và cộng sự, 2011). Để đạt hiệu quả tối ưu và thành công trong việc xây dựng chiến lược dinh dưỡng cho tôm, thức ăn cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về thành phần dinh dưỡng, đảm bảo độ ngon miệng và tính hấp dẫn, đặc biệt là cần bổ sung các hợp chất sinh học tự nhiên có nguồn gốc thực vật nhằm tăng cường sức khỏe vật nuôi (Tacon và cộng sự, 2013).
Rong bún (Enteromorpha intestinalis) là một loài rong lục phổ biến ở các vùng nước lợ và ven biển, đặc biệt phân bố dày ở khu vực ĐBSCL. Loài rong này có tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng thích nghi tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt, và dễ thu hoạch với chi phí thấp.
Về mặt thành phần sinh học, E. intestinalis giàu polysaccharides, protein,
vitamin, khoáng chất và các hợp chất hoạt tính sinh học như polyphenol và flavonoid, có tác dụng chống ôxy hóa, kháng khuẩn và tăng cường miễn dịch. Nhờ những đặc tính này, E. intestinalis có tiềm năng lớn trong các lĩnh vực như thực phẩm chức năng, dược phẩm, sản xuất mỹ phẩm tự nhiên, và đặc biệt là trong nuôi trồng thủy sản. Theo Ashour và cộng sự (2024), các hợp chất chiết xuất từ rong biển với hoạt tính sinh học cao khi được bổ sung vào khẩu phần ăn của tôm nuôi sẽ giúp kích thích tăng trưởng, nâng cao hệ miễn dịch và cải thiện khả năng chống chịu với stress. Tương tự, polysaccharide từ rong bún với hoạt tính sinh học cao cũng được sử dụng như chất bổ sung trong thức ăn cho tôm với liều lượng phù hợp, giúp cải thiện tăng trưởng, thúc đẩy hoạt tính enzyme tiêu hóa và tăng sức đề kháng (Liu và cộng sự, 2020; Deepak và cộng sự, 2024).
Tăng hiệu quả
Trước thực tế này, nhóm tác giả của Đại học Cần Thơ đã thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung hỗn hợp polysaccharides chiết xuất từ rong bún ở các mức khác nhau vào thức ăn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng chống sốc của TTCT giai đoạn giống.
Trong nghiên cứu này, các tác giả đã sử dụng TTCT (khối lượng 0,019 ± 0,005 g). Tôm được cho ăn thức ăn không bổ sung hỗn hợp chất chiết từ rong bún là nghiệm thức đối chứng, ở các nghiệm thức còn lại tôm được cho ăn với các mức bổ sung hỗn hợp chất chiết lần lượt là 0,4% và 0,8%.
Tôm được bố trí ngẫu nhiên vào 9 bể composite (dung tích 120 L), với độ mặn 15‰ và được sục khí liên tục. Ấu trùng tôm được thả với mật độ 150 con/bể (tương đương với mật độ 1.250 con/m³), có khối lượng và chiều dài ban đầu lần lượt là 0,019 g và 1,41 cm. Tôm được cho ăn 4 lần/ngày (vào lúc 7h00, 11h00, 15h00 và 19h00), với khẩu phần ban đầu là 10% khối lượng thân/ngày. Chế độ thay nước được thực hiện 1 lần/tuần, thay khoảng 20 - 30% lượng nước trong bể.
Kết quả cho thấy, sau 30 ngày ương, việc bổ sung 0,4% và 0,8% chất chiết từ rong bún vào thức ăn của tôm giúp tôm tăng trưởng nhanh hơn, có hệ số tiêu tốn thức ăn, hiệu quả sử dụng protein và khả năng chống sốc độ mặn tốt hơn so với nhóm đối chứng.
Do đó, trong giai đoạn ương giống TTCT, khuyến cáo nên bổ sung hỗn hợp polysaccharides chiết xuất từ rong bún với mức 0,4% nhằm nâng cao hiệu quả. NGUYỄN AN
Xử lý bệnh phân trắng trên tôm
Bệnh phân trắng trên tôm không chỉ gây sụt giảm tốc độ tăng trưởng mà còn kéo theo hàng loạt
hệ lụy như hao hụt đàn, chi phí điều trị tăng cao và nguy cơ mất trắng vụ nuôi. Nếu không phát
hiện và xử lý kịp thời, người nuôi có thể đối mặt với thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, đặc biệt trong giai đoạn giao mùa hoặc mật độ thả nuôi cao.
Thực hiện cải tạo ao tôm đúng kỹ thuật Ảnh: Tép bạc
Tác động
Không lạ khi phân trắng xuất hiện dày đặc trong các ao nuôi thời điểm này. Phân tôm đứt khúc, trắng đục, nổi bềnh bồng trên mặt nước hay bám quanh bờ ao là dấu hiệu đầu tiên. Tôm giảm ăn, bơi yếu, ruột mờ, gan nhạt màu hoặc bị teo.
Nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đến từ chất lượng nước xấu. Sau những cơn mưa, pH tụt sâu, kiềm giảm, hàm lượng ôxy hòa tan thấp. Đặc biệt ở những ao nhiều hữu cơ, tảo tàn hoặc thức ăn dư thừa, hiện tượng bùng phát khí độc (NH3, NO2) thường xuyên xảy ra, làm đường ruột tôm mất ổn định. Các loài vi khuẩn cơ hội như Vibrio spp., nấm men, ký sinh trùng tấn công đường ruột, phá vỡ hàng rào vi sinh tự nhiên.
Điều nguy hiểm là bệnh không gây chết hàng loạt ngay, mà kéo dài âm ỉ, gây suy tôm, làm bội nhiễm các bệnh gan tụy, đục cơ, thậm chí hoại tử. Nếu không xử lý sớm, năng suất cuối vụ giảm nghiêm trọng.
Giải pháp
Giải pháp đầu tiên là giảm tải đường ruột. Cắt thức ăn 1 bữa, sau đó giảm khẩu phần 30 - 50%. Tuyệt đối không tiếp tục cho ăn lượng như cũ trong khi tôm đã yếu và ruột rối loạn. Việc “ép ăn” chỉ khiến thức ăn tồn đọng, gây ô nhiễm đáy nặng hơn.
Kế tiếp là ổn định môi trường nước. Bổ sung chế phẩm sinh học đáy có chứa Bacillus spp., vi sinh phân hủy hữu cơ. Tạt men vi sinh nước liều tăng gấp đôi bình thường để tái lập hệ vi sinh có lợi trong nước. Nếu nước đục, nhiều bọt, có thể thay 10 - 20% nước kết hợp bơm xả đáy nhẹ.
Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) luôn là ưu tiên hàng đầu. Tăng cường quạt nước, đặc biệt sau mưa hoặc thời điểm chiều tối - sáng sớm. Nếu có điều kiện, lắp thêm sục khí đáy để duy trì DO > 4 mg/L, giúp hạn chế khí độc và hỗ trợ tôm phục hồi nhanh hơn. Thức ăn trong giai đoạn này cần phối trộn hợp lý. Người nuôi trộn men tiêu hóa
(enzyme amylase, protease, lipase), Vitamin C, B-Complex, chất điện giải và các sản phẩm thảo dược như chiết xuất tỏi, nghệ, hồi phục chức năng gan ruột. Dùng liên tục 5 - 7 ngày, giảm dần khi thấy phân tôm trở lại bình thường.
Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh nếu chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Việc lạm dụng kháng sinh không chỉ làm mất cân bằng hệ vi sinh đường ruột mà còn làm tăng tỷ lệ kháng thuốc, ảnh hưởng tiêu cực đến cả chu kỳ nuôi sau.
Sau khi kiểm soát thành công, vẫn nên duy trì phác đồ ổn định đường ruột định kỳ 7 - 10 ngày/lần bằng cách luân phiên: 3 ngày men vi sinh - 3 ngày nghỉ - 3 ngày bổ sung vitamin, khoáng, thảo dược. Biện pháp này giúp đường ruột tôm luôn khỏe, tiêu hóa tốt, miễn dịch ổn định.
Về lâu dài, chủ động phòng bệnh là ưu tiên cao nhất. Ngay từ đầu vụ cần cải tạo ao đúng kỹ thuật: hút bùn đáy, phơi ao ít nhất 10 ngày, bón vôi CaO liều thấp, diệt tạp đúng liều lượng. Sau khi cấp nước cần xử lý vi sinh cấy nền, đo các chỉ số cơ bản như pH, kiềm, độ mặn, NH3 trước khi thả giống. Trong suốt vụ nuôi, theo dõi diễn biến thời tiết, chủ động giảm thức ăn khi có mưa, âm u kéo dài. Không nuôi quá dày, hạn chế dùng thức ăn độ đạm cao liên tục, vì dễ làm gan tôm quá tải, phân thải ra nhiều, tạo nền tích tụ khí độc.
HOÀNG NGÂN
Phân trắng không phải bệnh lạ, nhưng luôn là thách thức, đặc biệt trong giai đoạn giữa vụ - khi tôm chuẩn bị tăng tốc sinh trưởng. Chìa khóa để kiểm soát hiệu quả nằm ở việc giữ môi trường ổn định, hỗ trợ tiêu hóa và tăng miễn dịch tự nhiên. Một hệ ruột khỏe chính là hàng rào tốt nhất giúp tôm chống lại mọi tác nhân gây bệnh từ nước.
Vi khuẩn Vibrio luôn tiềm ẩn trong môi trường ao nuôi và là nguyên nhân chính gây ra nhiều bệnh nguy hiểm trên tôm. Tuy nhiên, không phải người nuôi nào cũng hiểu rõ cách nhận diện và phòng ngừa hiệu quả loại vi khuẩn này. Vậy Vibrio ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe tôm? Làm sao để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro từ đầu vụ?
Đặc điểm
Giống Vibrio thuộc họ Vibrionaceae, bộ Vibrionales, lớp Gammaproteobacteria, ngành Proteobacteria, có đặc điểm chung: Gram âm, có dạng hình que thẳng hoặc hơi uốn cong, kích thước 0,3 - 0,5 µm × 1,4 - 2,6 µm, không hình thành bào tử. Những loài thuộc giống Vibrio chuyển động nhờ một tiêm mao hoặc nhiều tiêm mao mảnh. Vibrio sống phổ biến trong môi trường nước mặn và nước lợ, đặc biệt vùng ven biển, các ao nuôi thâm canh, bán thâm canh. Vibrio phát triển mạnh ở nhiệt độ 16 - 40°C, tối ưu ở 37°C. Đặc biệt, mật độ vi khuẩn tăng trong những tháng mùa hè khi nhiệt độ ấm hơn và lượng mưa giảm. Nguyên nhân và điều kiện bùng phát
Vi khuẩn Vibrio luôn tồn tại trong môi trường nước ao nuôi, nhưng chỉ khi có điều kiện thuận lợi thì chúng mới bùng phát mạnh và gây bệnh trên tôm. Các yếu tố thường tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Vibrio bao gồm:
Ô nhiễm hữu cơ cao: Lượng thức ăn dư thừa, phân tôm và xác tảo chết tích tụ làm tăng lượng chất hữu cơ trong nước, tạo điều kiện cho Vibrio sinh sôi mạnh.
Môi trường nước không ổn định: Khi
môi trường nước ao nuôi có sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ, độ mặn, pH gây stress cho tôm và làm suy giảm hệ miễn dịch, giúp vi khuẩn dễ dàng tấn công.
Mật độ nuôi cao: Khi mật độ tôm quá cao dẫn đến sự cạnh tranh thức ăn và không gian sống tăng, khiến tôm dễ bị yếu, giảm sức đề kháng.
Quản lý ao nuôi kém: Không kiểm soát chất lượng nước và thiếu biện pháp phòng bệnh hiệu quả khiến vi khuẩn phát triển.
Tác động
Các chủng Vibrio spp. gây nhiều bệnh nguy hiểm trên tôm, ảnh hưởng nặng nề
đến hiệu quả vụ nuôi. Rất nhiều bệnh trên tôm có nguyên nhân từ Vibrio spp. như: Hoại tử gan tụy cấp, TPD, phân trắng, đốm đen, phát sáng,… Trong đó, những loài gây bệnh thường gặp là: V. parahaemolyticus, V. harvey, V. alginolyticus; V. anguillarum; V. cholera; V. salmonicida, V. vulnificus,…
Thống kê từ các vùng nuôi tôm trọng
điểm cho thấy, hơn 70% các đợt bùng phát dịch bệnh tôm trong những năm gần đây liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vi khuẩn Vibrio
Vibrio parahaemolyticus và Vibrio
harveyi đã được mô tả như các tác nhân gây bệnh chính trên tôm. Những tác nhân gây
bệnh này gây nhiễm trùng nghiêm trọng và giảm năng suất cả trong các trại giống và ao nuôi. Ngoài ra, dịch bệnh còn dẫn đến giảm tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và tốc độ tăng trưởng ở các cá thể sống sót.
Khi bị nhiễm bệnh, tôm thường có các triệu chứng như bỏ ăn, phân trắng hoặc phân loãng, giảm sức đề kháng, tốc độ phát triển chậm, thậm chí chết hàng loạt trong vài ngày nếu không được can thiệp kịp thời.
Một điểm đáng chú ý là Vibrio thường kháng lại nhiều loại kháng sinh, điều này khiến cho việc kiểm soát nhiễm trùng trong ao nuôi trở nên khó khăn. Hơn nữa, chúng có khả năng gắn chặt vào bề mặt dạ dày của động vật nuôi, tạo ra các màng bao sinh học vững chắc. Các màng bao này không chỉ bảo vệ vi khuẩn khỏi tác động của kháng sinh và chất khử trùng mà còn làm tăng độ khó khăn trong việc kiểm soát nhiễm trùng bằng các chất chiết xuất từ thảo dược và các phương pháp khác. Đồng thời, Vibrio có khả năng ký sinh vào các loài giáp xác khác trong ao, tăng nguy cơ gây thiệt hại và gây ảnh hưởng tiêu cực đối với những lần thả nuôi tiếp theo.
Phòng ngừa
Cải tạo và xử lý ao trước vụ nuôi: Tiến hành cào xới bùn đáy, phơi đáy ao khô nứt
Trong bối cảnh thời tiết ngày càng
bất ổn và dịch bệnh phức tạp, chủ động kiểm soát Vibrio ngay từ đầu
vụ là yếu tố then chốt để bảo vệ đàn tôm. Sự kết hợp giữa kỹ thuật nuôi an toàn sinh học, quản lý môi trường
chặt chẽ và chế độ dinh dưỡng hợp lý
sẽ giúp người nuôi giảm thiểu rủi ro, ổn định năng suất và hướng đến vụ nuôi thành công.
chân chim từ 5 - 7 ngày giúp tiêu diệt vi khuẩn, ký sinh trùng và các mầm bệnh còn
tồn lưu. Sử dụng vôi CaO hoặc Dolomite để điều chỉnh pH đất (đạt 7,5 - 8,5), kết hợp với các chất diệt khuẩn như Chlorine, BKC nồng độ 3 - 5 ppm để tiêu diệt vi khuẩn còn
tồn tại. Nước trước khi cấp vào ao cần được lọc kỹ qua túi vải. Tốt nhất nên lấy nước từ ao lắng qua ao nuôi.
Lựa chọn con giống chất lượng: Tôm post từ các trại giống có thể là nguồn lây nhiễm mầm bệnh phổ biến trong trại. Để
ngăn chặn điều này, cần sử dụng tôm post sạch bệnh (SPF) từ các trại giống được chứng nhận để đảm bảo an toàn và chất lượng.
Quản lý chất lượng nước: Thường xuyên kiểm tra và duy trì các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ (25 - 32°C), pH (7,58,5), độ mặn phù hợp (15 - 25‰). Định kỳ
sử dụng chế phẩm sinh học chứa vi khuẩn phân giải hữu cơ như Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, giúp làm sạch đáy ao và giảm lượng bùn tích tụ. Sử dụng Zeolite, Yucca hoặc các sản phẩm hấp thụ khí độc để giảm NH3, NO2 và H2S. Duy trì mật độ tảo hợp lý, tránh bùng phát tảo lam.
Tăng cường sức khỏe tôm: Đảm bảo khẩu phần dinh dưỡng đầy đủ, sử dụng thức ăn chất lượng cao. Tránh cho ăn dư thừa, điều chỉnh lượng ăn theo sức ăn và điều kiện thời tiết. Bổ sung Vitamin C, khoáng chất giúp tăng cường miễn dịch. Sử dụng các chế phẩm men tiêu hóa, probiotics giúp cải thiện hệ vi sinh đường ruột, hạn chế vi khuẩn gây hại.
Theodõivàkiểmsoátmậtđộvikhuẩn:
Lấy mẫu nước và mẫu tôm định kỳ để kiểm tra mật độ vi khuẩn Vibrio bằng các phương pháp vi sinh học hoặc xét nghiệm nhanh. Khi phát hiện mật độ vi khuẩn tăng cao, cần áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời như sử dụng chế phẩm sinh học hoặc thuốc kháng sinh theo hướng dẫn chuyên môn, tránh lạm dụng thuốc.
NGUYỄN HẰNG
Bổ sung muối cho ao tôm
Muối (NaCl) là thành phần quan trọng trong môi trường nước nuôi tôm, đặc biệt trong các vùng nuôi tôm nước lợ và nước mặn. Việc bổ sung muối hợp lý giúp duy trì ổn định môi trường sinh học, nâng cao sức khỏe tôm và hạn chế dịch bệnh.
Vai trò
Cân bằng độ mặn: Muối là thành phần chính để điều chỉnh độ mặn trong ao nuôi tôm. Nồng độ muối phù hợp sẽ giúp tôm phát triển tốt nhất và hạn chế nguy cơ mắc bệnh.
Cung cấp khoáng chất: Muối cung cấp nhiều khoáng chất thiết yếu cho tôm, bao gồm natri, clorua, kali, magie,… đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sinh học của tôm. Natri và clorua giúp cân bằng nội môi, điều chỉnh áp suất thẩm thấu và chức năng thần kinh của tôm. Kali và magie tham gia vào quá trình trao đổi chất, phát triển cơ bắp và hệ thần kinh của tôm. Tăng cường sức đề kháng và khả năng chịu stress: Muối giúp tôm tăng cường khả năng chống chịu với các tác nhân gây bệnh, hạn chế các tổn thương do môi trường thay đổi như nhiệt độ, pH, độ kiềm,… Phòngngừadịchbệnh: Một số vi khuẩn gây bệnh như Vibrio nhạy cảm với nồng độ muối cao, nên việc bổ sung muối giúp hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây hại.
Liều lượng bổ sung: Liều lượng muối cần được tính toán dựa trên độ mặn hiện tại, thể tích ao và mức mặn mục tiêu. Nguyên tắc chung là không tăng quá 2 - 3 ppt/ngày để tôm kịp thích nghi (1 ppt = 1 g muối/L nước). Mỗi loài tôm có ngưỡng chịu mặn khác nhau. Việc bổ sung quá liều không những không có lợi mà còn gây stress và làm chậm tăng trưởng.
Phương pháp bổ sung: Hòa tan muối với nước, rải đều khắp ao để tránh tạo vùng nước có nồng độ muối quá cao tập trung tại một chỗ gây sốc cho tôm.
Khi nào cần bổ sung muối
Ao mới chuẩn bị thả giống, cần bổ sung muối để ổn định môi trường, giúp tôm giống thích nghi nhanh với điều kiện nước ao.
Do mưa lớn hoặc thay nước nhiều, độ mặn giảm xuống dưới ngưỡng an toàn (thường < 5‰), cần bổ sung muối để tránh stress cho tôm.
Trong nuôi tôm thâm canh, mật độ cao, bổ sung muối giúp duy trì sức khỏe tôm, hạn chế dịch bệnh phát sinh.
Khi phát hiện dấu hiệu tôm bị stress hoặc bệnh do thay đổi môi trường. Việc bổ sung muối có thể giúp tôm phục hồi nhanh hơn.
Cách bổ sung muối
Loại muối sử dụng: Chọn muối tinh khiết, không chứa tạp chất, không pha lẫn các hóa chất độc hại.
Thời điểm bổ sung: Thường vào buổi sáng hoặc chiều mát, tránh thời điểm nắng gắt để hạn chế sốc nhiệt cho tôm.
Lưu ý
Không bổ sung muối quá nhanh hoặc quá nhiều trong thời gian ngắn để tránh gây sốc tôm.
Theo dõi độ mặn và các chỉ số môi trường khác thường xuyên để điều chỉnh liều lượng phù hợp.
Kết hợp bổ sung muối với các biện pháp cải thiện môi trường khác như sục khí, thay nước định kỳ, bổ sung vi sinh.
Muối không thể thay thế hoàn toàn cho các biện pháp quản lý khác, mà là một phần trong hệ thống quản lý môi trường ao nuôi tổng thể.
LÊ LOAN
Bổ sung muối giúp duy trì sức khỏe tôm,
Nuôi dưỡng từng tế bào gan tôm
Đây là giải pháp dinh dưỡng chuyên biệt cho giai đoạn tôm ương trong hành trình nuôi tôm hiện đại, nền móng sinh học hình thành hệ miễn dịch, sức đề kháng và khả năng phát triển bền vững của tôm.
Thách thức của người nuôi
Thực tế, tôm ương thường phát triển không đồng đều, dễ hao hụt và chịu tác động lớn từ môi trường. Gan tụy - cơ quan trung tâm của quá trình trao đổi chất và miễn dịch - càng cần được bảo vệ ngay từ đầu. Điều đó đặt ra nhu cầu về một giải pháp dinh dưỡng chuyên biệt, vừa đảm bảo tăng trưởng, vừa duy trì sức khỏe gan và đường ruột cho tôm.
Giải pháp từ C.P. Việt Nam
Từ thực tiễn ấy, C.P. Việt Nam đã nghiên cứu và cho ra đời PRO-55 - dòng thức ăn dinh dưỡng chuyên biệt, được giới thiệu trong chuỗi Hội nghị khách hàng nuôi tôm 2025 vừa qua.
PRO-55 được phát triển với định hướng “ Nuôi dưỡng từng tế bào gan tôm” , tập trung vào ba lợi ích nổi bật: “ Hấp thụ nhanh - Ruột khỏe - Gan tốt”
Niềm tin từ người nuôi
Ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại,
PRO-55 tối ưu khả năng hấp thụ dinh dưỡng, đồng thời có kích thước viên phù hợp, giúp tôm bắt mồi tự nhiên và phát triển khỏe mạnh.
Thực tế cho thấy sản phẩm giúp rút
ngắn thời gian ương, ổn định hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), giảm rủi ro hao hụt và nâng cao tỷ lệ sống.
Ngay sau khi đưa vào sử dụng, PRO-55 đã nhanh chóng nhận được sự tin tưởng và phản hồi tích cực từ người nuôi trên nhiều vùng nuôi trọng điểm. Nhiều khách hàng chia sẻ rằng tôm ương ăn PRO-55 lớn đồng đều, gan khỏe, đường ruột sạch và sức đề kháng tốt hơn rõ rệt, giúp họ giảm chi phí quản lý và tăng hiệu quả vụ nuôi. Những kết quả thực tế này là minh chứng rõ ràng cho chất lượng và uy tín của PRO-55, đồng thời khẳng định cam kết của C.P. Việt Nam trong việc mang đến các giải pháp dinh dưỡng toàn diện, bền vững cho người nuôi.
Cam kết đồng hành
Với PRO-55, C.P. Việt Nam không chỉ mang đến một sản phẩm mới, mà còn khẳng định định hướng cung cấp giải pháp toàn diện cho người nuôi - từ con giống, thức ăn, đến quy trình quản lý ao nuôi - góp phần xây dựng một ngành tôm Việt Nam hiện đại, hiệu quả và bền vững.
Trong nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh, màu nước ao nuôi không chỉ là yếu tố thẩm mỹ mà còn là “chỉ số sức khỏe” của cả hệ sinh thái ao. Màu nước ổn định phản ánh sự cân bằng vi sinh - tảo có lợi, giúp tạo nguồn thức ăn tự nhiên, bảo vệ tôm khỏi tác động môi trường và hạn chế bệnh tật. Ngược lại, ao khó lên màu, thường xuyên thay nước hoặc màu nước biến động liên tục là dấu hiệu mất cân bằng sinh thái, khiến tôm dễ bị sốc và nhiễm bệnh.
Để giúp người nuôi giải quyết bài toán này, Sitto Việt Nam đã nghiên cứu và phát triển
Sitto Aqua Tone - chế phẩm sinh học chuyên biệt tạo màu nước chuẩn, mang đến giải pháp toàn diện và an toàn cho người nuôi.
Sitto Aqua Tone có
vượt trội
1. Tạo màu nhanh - duy trì bền vững: Chỉ sau 2 - 3 ngày sử
dụng, Sitto Aqua Tone giúp ao đạt màu trà tự nhiên, ổn định liên tục trên 15 ngày, đặc biệt phù hợp với ao khó gây màu hoặc thay nước thường xuyên.
2. Ổn định hệ sinh thái ao nuôi: Sản phẩm cung cấp mầm tảo, duy trì hệ tảo có lợi phát triển bền vững, từ đó tạo nguồn thức ăn tự nhiên giàu dinh
dưỡng cho tôm, hỗ trợ tăng trưởng nhanh và khỏe mạnh.
3. Giảm stress cho tôm: Màu nước trà giúp giảm cường độ ánh sáng chiếu thẳng xuống
đáy ao - nguyên nhân gây căng
thẳng, làm tôm yếu sức. Khi
được “che chắn” bởi lớp màu
nước ổn định, tôm ít bị sốc môi
trường, khả năng đề kháng
được cải thiện.
4. An toàn tuyệt đối: Không
chứa hóa chất độc hại, Sitto
Aqua Tone an toàn cho tôm, hệ vi sinh và môi trường, không
gây tồn dư. Đây là lựa chọn bền
vững cho người nuôi hướng tới
sản phẩm tôm an toàn, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu.
5. Kích thích vi sinh phát triển: Ngoài việc tạo màu, chế phẩm còn thúc đẩy hệ vi sinh có lợi, giúp phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa, hạn chế phát sinh khí độc (NH 3, H 2S). Nhờ đó, chất lượng nước được cải thiện rõ rệt, giảm rủi ro bệnh tật trong suốt vụ nuôi.
Cách dùng rất đơn giản
- Trước khi thả tôm: 1 gói cho 2.000 m³ nước, liên tục 2 - 3 ngày để gây màu.
- Trong quá trình nuôi: 1 gói cho 2.000 m³ nước, định kỳ 10 - 15 ngày/lần để giữ màu ổn định.
- Lưu ý: Không dùng chung với hóa chất, chất diệt khuẩn. Nếu ao khó lên màu, bà con nên kiểm tra pH, độ kiềm, ôxy và khí độc trước khi xử lý. Đồng thời, tránh để dư nhiều thức ăn, vì
đây là nguyên nhân dễ làm nước xấu và tảo độc bùng phát.
Đồng hành cùng người nuôi tôm
Sitto Aqua Tone không chỉ là sản phẩm mà còn là công cụ giúp người nuôi chủ động kiểm soát màu nước, ổn định hệ sinh thái ao nuôi, giảm thiểu rủi ro. Song song đó, Sitto Việt Nam cung cấp dịch vụ tư vấn kỹ thuật miễn phí, luôn sẵn sàng hỗ trợ bà con trong suốt vụ nuôi.
Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong ngành, Sitto cam kết mang đến giải pháp sinh học an toàn - hiệu quảbền vững, giúp tối ưu chi phí, gia tăng lợi nhuận, và hướng đến một ngành tôm phát triển xanh, sạch, bền vững.
Sitto Aqua Tone - Màu nước chuẩn cho tôm khỏe!
PHÒNG KỸ THUẬT CÔNG TY SITTO VIỆT NAM
CÔNG NGHỆ NANO BUBBLES
Giải pháp toàn diện cho ao tôm
Trong nuôi tôm hiện đại, việc kiểm soát chất lượng nước là yếu tố then chốt quyết định năng suất và sức khỏe của tôm. Một trong những công nghệ tiên tiến và hiệu quả nhất hiện nay chính là Nano Bubbles –công nghệ tạo ra các bọt khí siêu nhỏ kết hợp với ôxy tinh khiết và ozone để cải thiện môi trường ao nuôi một cách toàn diện.
Các hạt nano bubble có kích thước cực nhỏ, khoảng 200 nanomet, có khả năng tồn tại trong nước lâu hơn rất nhiều so với bọt khí thông thường. Khi kết hợp với ôxy, các bọt khí này giúp tăng mạnh lượng ôxy hòa tan (DO) trong nước, duy trì ổn định cả ngày lẫn đêm. Nhờ đó, tôm hô hấp tốt hơn, ăn khỏe hơn, giảm stress và tăng tốc độ tăng trưởng.
Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp ôxy, công nghệ Nano
Bubbles còn có thể kết hợp
với ozone – một chất ôxy hóa mạnh có khả năng diệt khuẩn,
khử mùi và phân hủy các hợp chất hữu cơ có hại. Khi ozone được đưa vào dưới dạng nano bubble, hiệu quả khử khuẩn tăng lên gấp nhiều lần nhờ
khả năng phân tán đều và
tiếp xúc sâu trong nước.
Công nghệ này giúp loại bỏ vi khuẩn gây bệnh, nấm và
tảo độc , giữ cho môi trường ao luôn sạch, trong và an toàn cho tôm.
Sự kết hợp giữa ôxy và ozone trong hệ thống Nano
Bubbles mang lại giải pháp
kép: vừa tăng cường sức
khỏe tôm , vừa bảo vệ môi
trường ao nuôi . Người nuôi
không cần lạm dụng hóa chất hoặc kháng sinh, giảm chi phí vận hành và hạn chế rủi ro ô nhiễm nguồn nước. Ngoài ra, hệ thống vận hành tự động,
tiết kiệm điện năng và dễ bảo trì, phù hợp với nhiều quy mô trang trại.
Có thể nói, Nano Bubbles là bước tiến mới trong công nghệ nuôi trồng thủy sản , mở ra hướng đi bền vững và hiệu quả cho người nuôi tôm. Với khả năng kết hợp ôxy để tăng trưởng và ozone để khử khuẩn, công nghệ này không chỉ giúp tôm khỏe mạnh, lớn nhanh mà còn mang lại môi trường nuôi an toàn, sạch và thân thiện với tự nhiên .
Công ty TNHH B.H.N tự hào là đơn vị chuyên cung cấp thiết bị và giải pháp Nano Bubbles hiện đại cho ngành nuôi trồng thủy sản. Với kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến, B.H.N cam kết mang đến hiệu quả tối ưu, chất lượng nước vượt trội và vụ mùa thành công cho người nuôi tôm.
Nano Bubbles – Giải pháp hiện đại cho vụ nuôi tôm thành công, năng suất vượt trội và phát triển bền vững.
BHN
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96
Website: bhnenc.com
Email: bhnenc@gmail.com
Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn
Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh
Xử lý nền đáy ao đất trong nuôi tôm
Xử lý bùn đáy ao nuôi tôm là việc rất quan trọng và cần thiết, giúp hạn chế mầm bệnh và ô nhiễm nước ao nuôi, tôm khỏe mạnh, tăng năng suất và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm ao nuôi và làm phát sinh dịch bệnh là bùn đáy ao. Bên cạnh đó, tôm thường có thói quen đào bới nền đáy ao để tìm thức ăn, tập tính này trong môi trường ao có nhiều bùn bã hữu cơ sẽ ảnh hưởng xấu đến đường ruột của chúng, gây thiệt hại cho vụ nuôi của bà con. Tuy nhiên, việc lót bạt đáy ao để tránh ảnh hưởng của tình trạng này là rất tốn kém, không phải hộ nuôi nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện.
Nguyên nhân xuất hiện bùn đáy ao
- Lượng bùn đáy dơ còn thừa do cải tạo ao không kỹ.
- Thức ăn dư thừa quá nhiều, chất thải tôm và vỏ tôm lắng xuống đáy làm cho lớp bùn bã đáy ao ngày càng nhiều.
- Nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ.
- Đất ao bị xói mòn do dòng chảy của nước từ việc
SLUDGE
chạy quạt, đất trên bờ ao bị rửa trôi.
- Xác chết của các loại sinh vật.
- Các loại vôi, khoáng chất còn thừa.
Tác hại
Đáy ao dơ bẩn sẽ gây suy thoái ao nuôi, ô nhiễm môi trường nước làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm nuôi.
Lớp bùn đáy là nơi cư trú của vi khuẩn có hại, nấm và các động vật nguyên sinh.
Sự phân hủy bùn đáy ao sẽ sản sinh ra các khí độc như NH3, H2S, gây ngộ độc và stress cho tôm, cá.
Làm giảm hàm lượng ôxy tầng đáy.
Tạo điều kiện cho tảo phát triển.
Dễ gây ra các bệnh cho tôm như đen mang, mòn râu, các bệnh về đường ruột,... làm ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi và giảm năng suất vụ nuôi.
Cách xử lý
- Cải tạo ao thật kỹ cho mỗi vụ nuôi mới.
- Hạn chế sự xói mòn do dòng chảy bằng việc rửa ao nhiều lần, xây dựng chắc chắn hệ thống ao nuôi, gia cố kỹ bờ ao.
- Quản lý chặt chẽ việc cho ăn, giảm lượng thức ăn dư thừa.
- Loại bỏ chất thải bùn đáy ra khỏi ao bằng cách thay nước, hút bùn và xi phông đáy ao.
- Sử dụng chế phẩm sinh học: Chế phẩm với thành phần chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả năng phân hủy bùn đáy, xử lý mùi hôi và chất hữu cơ dư thừa trong nước.
Đề xuất giải pháp
Việc xử lý chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao là hết sức cần thiết, nhằm giữ môi trường nước trong sạch, nâng cao sức khỏe và sự phát triển của động vật thủy sản. Tuy nhiên, sản phẩm khi đưa vào ao nuôi ngoài hiệu quả sử dụng còn phải đảm bảo thân thiện với môi trường, không gây ảnh hưởng xấu động vật thủy sản. Do đó, việc sử dụng sản phẩm vi sinh từ đầu và bổ sung thường xuyên là lựa chọn tối ưu cho việc giải quyết các vấn đề trong ao nuôi.
ĐT: 0888 59 63 66
Email: info@thainamviet.com
Website: thainamviet.com
Doanh nghiệp tăng đầu tư vào chế biến sâu
Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt
Nam (VASEP), lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản
đạt 8,33 tỷ USD, tăng 15,5%.
Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực với 3,38 tỷ USD, tăng 20,3%, nhờ nhu cầu ổn định tại các thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU và đà phục hồi đơn hàng ở châu Á.
Các chuyên gia thương mại thủy sản nhận định, trong quý IV/2025, nhu cầu thị trường sẽ tăng về cuối năm nhờ sức mua phục hồi. Các nhà nhập khẩu Mỹ và Trung Quốc dự báo tăng mua trở lại để phục vụ cho dịp lễ và Tết, cùng sự ổn định trong việc nhập khẩu đến từ thị trường EU. Theo VASEP, thị trường tôm toàn cầu đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ sản phẩm nguyên liệu thô sang các dòng sản phẩm giá trị gia tăng. Với xu thế đó, các doanh nghiệp sản xuất và chế biến tôm trong nước cũng đã bắt nhịp rất tốt,
SAO TA
Sản lượng tôm thành phẩm tiêu thụ giảm so cùng kỳ
Tháng 9/2025, lượng tôm thành phẩm bán ra của Công ty CP Thực phẩm Sao Ta chỉ đạt 2.248 tấn, giảm 15% so cùng kỳ, nông sản tiêu thụ cũng giảm 26%, xuống còn 93 tấn. Doanh thu hợp nhất tháng 9 đạt 29,54 triệu USD, thấp hơn 2% so cùng kỳ. Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2025, lãnh đạo Sao Ta cho biết, thị trường Mỹ tuy có biên lợi nhuận thấp nhưng sở hữu quy mô lớn, sản phẩm chế biến đơn giản và nhu cầu ổn định quanh năm. Sao Ta chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ các dòng sản phẩm thuộc phân khúc cao, khác biệt với đối thủ từ Ấn Độ và Ecuador vốn tập trung vào phân khúc thấp. Đối với Trung Quốc - quốc gia tiêu thụ tôm lớn nhất thế giới - phần lớn nhu cầu tập trung vào nguyên liệu thô và bán thành phẩm để chế biến lại. Điều này khiến các sản phẩm chế biến hoàn chỉnh khó cạnh tranh về giá. Dù vậy, nếu có cơ hội, doanh nghiệp vẫn sẵn sàng thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
LÊ LOAN
Các sản phẩm tôm giá trị gia tăng ngày càng mở rộng thị phần Ảnh: QV
khi mặt hàng giá trị gia tăng đã chiếm từ 30 - 40% trong tổng sản lượng tôm xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam.
THANH HIẾU
GROBEST VIỆT NAM
Ra mắt bộ đôi vi sinh dạng nước
Vừa qua, Grobest chính thức giới thiệu bộ đôi sản phẩm vi sinh mới dạng nước gồm GROBIO và GROAQUA, hứa hẹn sẽ là giải pháp đột phá trong việc nâng cao sức khỏe vật nuôi và cải thiện môi trường ao nuôi. Sản phẩm GROBIO dạng nước có khả năng tăng cường sức đề kháng, cân bằng hệ vi sinh đường ruột và giảm stress cho tôm, góp phần nâng cao hiệu quả. Trong khi đó, GROAQUA dạng nước được thiết kế chuyên biệt để ức chế vi khuẩn có hại, giảm khí độc như amonia, H2S và làm sạch môi trường ao nuôi. Cả hai sản phẩm đều có thể sử dụng hàng ngày, với mức giá phù hợp cho mọi mô hình nuôi. Nhằm khuyến khích bà con trải nghiệm giải pháp mới, từ 10 - 31/10/2025, Grobest triển khai chương trình ưu đãi đặc biệt: tặng ngay 4 chai vi sinh (2 GROBIO + 2 GROAQUA) khi khách hàng mua 1 tấn thức ăn Grobest bất kỳ. Vì số lượng quà tặng có hạn, người nuôi cần sớm liên hệ các đại lý trên toàn quốc để không bỏ lỡ cơ hội này.
THẢO ANH
C.P. VIỆT NAM
Chung tay kiến tạo tương lai bền vững
Vừa qua, Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam (CPV) đã tham gia sự kiện SX Roadshow 2025, một phần quan trọng trong chuỗi hoạt động hướng đến triển lãm phát triển bền vững lớn nhất khu vực ASEAN - Sustainability Expo 2025 (SX2025). SX Roadshow 2025 mang đến một không gian đầy cảm hứng, nơi những sáng kiến về phát triển bền vững được chia sẻ và lan tỏa. Buổi tọa đàm về cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực phát triển bền vững cũng thu hút sự quan tâm đặc biệt, giúp sinh viên định hình lộ trình nghề nghiệp, tiếp thêm động lực để theo đuổi ngành nghề đầy tiềm năng này. Tại sự kiện, gian hàng của CPV đã để lại nhiều ấn tượng khi giới thiệu chiến lược phát triển bền vững, mô hình kinh tế tuần hoàn cũng như chương trình Future Leader Program - Lãnh đạo Tương lai dành cho các bạn trẻ. Đây là cách CPV khẳng định vai trò tiên phong trong việc xây dựng một doanh nghiệp bền vững, gắn kết lợi ích doanh nghiệp với cộng đồng và môi trường.
NGUYỄN HẰNG
VMC VIỆT NAM
Đồng hành cùng công tác đào tạo sinh viên
Ngày 22/9, Công ty CP Sản xuất và Thương mại VMC Việt Nam đã tiếp đoàn tham quan của Trường Đại học Nghệ An, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc gắn kết đào tạo đại học với thực tiễn sản xuất và mở rộng hợp tác quốc tế. Tại đây, đoàn đã tham quan VMC Laboratory và dây chuyền sản xuất tại nhà máy GMP-WHO, qua đó tìm hiểu sâu hơn về hoạt động nghiên cứu, kiểm nghiệm và sản xuất của VMC Việt Nam. Đại diện doanh nghiệp chia sẻ mong muốn
đồng hành cùng nhà trường trong công tác đào tạo sinh viên gắn liền thực tiễn, tài trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện để sinh viên tiếp cận công nghệ và môi trường làm việc hiện đại. Lãnh đạo Trường Đại học Nghệ An nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác với doanh nghiệp nhằm trang bị kỹ năng và kinh nghiệm thực tế cho sinh viên. Hai bên bày tỏ kỳ vọng về sự hợp tác bền chặt, lâu dài, từ chương trình thực tập, tham quan đến các dự án nghiên cứu chung. NAM CƯỜNG
VIỆT ÚC
Cùng người nuôi tôm vượt qua mùa mưa
Vừa qua, Tập đoàn Việt Úc đã tổ chức Hội thảo kỹ thuật chuyên đề tại Vĩnh Long, thu hút đông đảo sự tham gia của người nuôi tôm. Hội thảo nhằm chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm cũng như tháo gỡ những khó khăn trong quá trình nuôi tôm, đặc biệt trong bối cảnh thời tiết mưa nhiều kéo dài gây ảnh hưởng đến chất
lượng nước và sức khỏe tôm. Tại buổi Hội thảo, các kỹ sư của Việt Úc đã giới thiệu dòng tôm giống VUS Leader - một trong những sản phẩm nổi bật với chất lượng vượt trội, giúp nhiều hộ nuôi tôm
đạt kết quả tích cực trong mùa vụ vừa qua. Bên cạnh đó, Hội thảo cũng tập trung thảo luận các giải pháp phòng và điều trị bệnh EHP, đồng thời hướng dẫn cách tăng sinh khối vi sinh và sử dụng vi sinh theo từng giai đoạn nuôi. Các giải pháp kỹ thuật được đưa ra đều nhằm mục tiêu hỗ trợ người nuôi tôm giảm rủi ro, tiết kiệm chi phí và nâng cao lợi nhuận, hướng đến phát triển bền vững ngành nuôi tôm ĐBSCL.
DUY MẠNH
KHOA THỦY
SẢN, HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Góp phần thúc đẩy hợp tác
khoa học thủy sản
Ngày 9 - 11/10/2025, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I tổ chức Hội nghị Khoa học trẻ Toàn quốc ngành Thủy sản lần thứ 14 (VIFINET 14). Hội nghị có sự ủng hộ và tài trợ từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổ chức ARES (Vương quốc Bỉ). Đây là minh chứng rõ ràng cho xu hướng hội nhập và kết nối toàn cầu trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học. Hội nghị là dịp để các nhà khoa học trẻ, giảng viên, nghiên cứu sinh và sinh viên trong lĩnh vực thủy sản gặp gỡ, trao đổi kết quả nghiên cứu mới, qua
đó thúc đẩy hợp tác khoa học và định hướng phát triển công nghệ phục vụ sản xuất thủy sản bền vững. Các công trình nghiên cứu
được chia thành 5 tiểu ban chuyên môn, gồm: Công nghệ và môi trường; Di truyền và sản xuất giống thủy sản; Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản; Bệnh thủy sản và Kinh tế, chế biến và quản lý nguồn lợi thủy sản.
NGUYỄN AN
BQ&Q
Triển khai chương trình khuyến mãi lớn trong tháng 10
Công ty CP BQ&Q triển khai chương trình khuyến mãi hấp dẫn dành cho khách hàng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Cụ thể, từ ngày 1/10 đến 31/10/2025, khách hàng khi mua 10 xô vi sinh viên nén 3 g BIO PRO TABLET sẽ được tặng thêm 1 xô cùng loại. BIO PRO TABLET là sản phẩm nhập khẩu từ Aquaintech Inc (Mỹ), chứa hỗn hợp lợi khuẩn Bacillus spp., có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), xử lý khí độc, hạn chế tảo và duy trì môi trường nước ao nuôi. Đặc biệt, khi đặt hàng trực tuyến qua Zalo mini app “BQQ AQUA”, khách hàng sẽ nhận thêm 1 áo mưa, 1 mũ và có cơ hội tham gia vòng quay trúng thưởng với phần quà là đồng hồ để bàn Hàn Quốc. Đây là chương trình ưu đãi lớn trong năm, nhằm hỗ trợ người nuôi thủy sản nâng cao hiệu quả sản xuất, tiếp cận các sản phẩm vi sinh chất lượng cao. BQ&Q khuyến khích khách hàng nhanh chóng đăng ký để không bỏ lỡ cơ hội này.
NGUYỄN LAM
TRƯỜNG THỦY SẢN, ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Tập
“Khởi nghiệp Thủy sản thanh niên”
Ngày 27 - 28/9/2025 tại Trường Thủy sản, Đại học Cần Thơ đã diễn ra hoạt động Tập huấn “Khởi nghiệp Thủy sản thanh niên”. Đây là hoạt động trong khuôn khổ Dự án “Kích hoạt đổi mới sáng tạo cho lộ trình tác động phát triển bao trùm và bền vững” (gọi tắt MAIC phase II) do Trường Đại học Cần Thơ chủ trì. Tại các buổi Tập huấn, đại biểu đã được nghe các chuyên gia trình bày báo cáo về: Nuôi tôm công nghệ cao và bền vững; Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong thủy sản,… Đồng thời, được tham quan các cơ sở, trại thực nghiệm nuôi tôm của Trường Thủy sản, Đại học Cần Thơ và Tập đoàn Thủy sản Việt - Úc, Cà Mau. Tập huấn “Khởi nghiệp Thủy sản Thanh niên” là một trong những hoạt động rất có ý nghĩa của Dự án MAIC. Từ khi triển khai đến nay, dự án đã triển khai được 3 khóa với 96 thanh niên hoạt động trong lĩnh vực thủy sản ở ĐBSCL.
HUYỀN THƯƠNG
GROWMAX
Trao học bổng hỗ trợ học sinh khó khăn tại Hà Tĩnh
Ngày 24/9, tại tỉnh Hà Tĩnh, Tập đoàn GrowMax và Báo Sài Gòn Giải Phóng phối hợp Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tổ chức trao học bổng hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó khăn và chịu thiệt hại bởi thiên tai. Tổng giá trị học bổng và hỗ trợ cơ sở vật chất cho các trường trong chương trình này là 510 triệu đồng. Kinh phí trên do Tập đoàn GrowMax tài trợ, thông qua sự kết nối của Báo Sài Gòn Giải Phóng, nhằm động viên tinh thần và tiếp thêm niềm tin, nghị lực để học sinh nghèo hiếu học vượt qua khó khăn. Được biết, đây là hoạt động thường niên của Tập đoàn GrowMax; số tiền được trích từ quỹ do tập thể cán bộ, công nhân viên tập đoàn quyên góp. Những món quà ý nghĩa là sự sẻ chia của các cơ quan, đơn vị, Tập đoàn GrowMax, là nguồn động viên để các em học sinh có thêm ý chí, nghị lực và niềm tin tiếp tục phấn đấu vươn lên trong học học tập và cuộc sống.
THÁI THUẬN
THỦY SẢN HOẰNG PHONG
Mở rộng diện tích nuôi tôm công nghệ cao
Xã Hoằng Châu (tỉnh Thanh Hóa) hiện có gần 1.000 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó khoảng 265 ha ứng dụng công nghệ cao, sản lượng hằng năm đạt hơn 3.000 tấn. Nổi bật là Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ nông nghiệp thủy sản Hoằng Phong, quản lý hơn 400 ha vùng nuôi nước lợ và nước ngọt, với các đối tượng chủ lực như tôm sú, TTCT, cua, cá,… Trong đó, có 286 ha nuôi tôm nước lợ với 147 hộ tham gia. Tổng sản lượng tôm thu được hằng năm khoảng 300 tấn. Thống kê của HTX cho thấy, nuôi tôm công nghệ cao trong ao nổi có mái che mang lại hiệu quả cao gấp nhiều lần so với hình thức nuôi quảng canh do người nuôi dễ dàng tăng vụ, tôm sinh trưởng và phát triển khỏe mạnh, ít nhiễm bệnh,… Trung bình các hộ thu về khoảng 700 - 800 triệu đồng/năm, cá biệt có hộ thu tiền tỷ. Theo lãnh đạo HTX, với diễn biến thời tiết ngày càng khó lường, trong thời gian tới, số hộ nuôi tôm công nghệ cao của HTX chắc chắn sẽ tăng lên.
DIỆU CHÂU
“Vua tôm cù lao” và hành trình nuôi tôm bền vững
Nhằm hướng tới phát triển bền vững và thân thiện với môi trường, ngành thủy sản tỉnh Đồng Tháp đang tích cực hỗ trợ người dân chuyển đổi sang các mô hình nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao. Nổi bật trong số đó là mô hình “Trình diễn hệ thống nuôi tôm tiết kiệm năng lượng sử dụng sinh khối” tại trang trại của Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Tuấn Hiền (xã Tân Phú Đông).
Tỷ lệ sống của tôm nuôi trong mô hình đạt 85%, năng suất và chấ t lượng tôm
Hành trình bền bỉ
Ông Ngô Minh Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Tuấn Hiền, là chủ 5 trang trại nuôi 36 ha TTCT công nghệ cao theo kiểu nhà lưới khép kín, đây là mô hình nuôi thủy sản lớn nhất và kiểu mẫu nhất ở địa phương. Trong năm qua, ông thu hoạch đạt sản lượng hơn 400 tấn tôm, thu lợi nhuận nhiều tỷ đồng. Thành công này đã đưa tên tuổi ông trở thành một “điểm sáng” trong cả nước về lĩnh vực nuôi tôm công nghệ cao của vùng ĐBSCL và được mệnh danh là “vua tôm cù lao”.
Ông Tuấn cho biết, bắt đầu từ năm 2015, ông chuyển đổi từ mô hình nuôi tôm truyền thống sang nuôi công nghệ cao. Ban đầu do vốn còn ít nên chỉ nuôi
được vài ao. Sau này, thấy mô hình ổn định, ông từ từ đầu tư mở rộng, đến nay tổng diện tích đã là 36 ha, sản lượng ổn định, hạn chế được rủi ro.
Theo ông Tuấn, để nuôi tôm thành công yếu tố quan trọng nhất là phải thiết
kế, nâng cấp ao nuôi. Ao phải che mái, có ao ương dưỡng tôm post, xử lý nguồn nước sạch, sử dụng máy bơm ôxy, cánh quạt đảm bảo, thu gom chất thải tốt. Thứ hai là phải chọn con giống chất lượng, đảm bảo sạch bệnh, khỏe mạnh, được giám sát chặt chẽ hằng ngày để kịp thời nắm bắt và xử lý, hạn chế rủi ro. Đặc biệt, nguồn nước đầu vào phải kiểm tra kỹ, đạt chuẩn, trong sạch bằng xử lý hóa chất, loại bỏ tảo và vi khuẩn thì mới cấp vào ao nuôi.
Công nghệ là then chốt
Dự án “Trình diễn hệ thống nuôi tôm tiết kiệm năng lượng sử dụng sinh khối”
được Công ty TNHH Nuôi trồng thủy sản Tuấn Hiền kết hợp với đối tác Nhật Bản triển khai từ năm 2022.
Dự án được triển khai với các mục tiêu giảm phát thải và tiết kiệm năng lượng. Qua đó, dự án trình diễn mô hình nuôi mật độ cao (500 con/m³), ứng dụng IOT để giám sát chất lượng nước và môi trường
ao nuôi theo thời gian thực. Nhờ đó, tỷ lệ sống đạt 85%, năng suất và chất lượng tôm đều tăng rõ rệt.
Ông Sugawara Toshihide, Phó Giám đốc Yuko Keiso thông tin, mô hình là một nghiên cứu trình diễn hệ thống nuôi tôm ứng dụng công nghệ điện pin nhiên liệu ôxit rắn (SOFC) chạy bằng khí sinh học từ phụ phẩm nông nghiệp kết hợp hệ thống IOT giám sát toàn diện.
Hệ thống sản xuất điện gồm túi biogas dung tích 60 m 3 lên men chất thải để tạo khí metan, được dẫn vào máy phát điện. Quá trình này được tích hợp cảm biến hiện đại theo dõi nhiệt độ, áp suất và nồng độ khí để đảm bảo tự động hóa hoàn toàn. Điện năng tạo ra được sử dụng ngược lại cho các thiết bị vận hành trong khu nuôi tôm. Theo ước tính, mô hình giúp giảm phát thải khoảng 15,5 tấn CO 2/năm với mỗi ao 1.000 m 2 , thậm chí lên đến 26,9 tấn CO 2 nếu so với mô hình thâm canh hiện đại.
rõ rệt Ảnh: Báo Ấp Bắc Ông Ngô Minh Tuấn chia
Được biết ông Tuấn đã chia sẻ quy trình, sản phẩm, công nghệ đã áp dụng để bà con nuôi tôm tại địa phương có thể liên kết chặt chẽ, hỗ trợ nhau nhằm đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu và phát triển ngành tôm. Đồng thời, liên kết với nhiều công ty trong và ngoài nước tạo chuỗi khép kín, ổn định giá cả, đầu vào - đầu ra hợp lý.
VÂN ANH
TÔM - RỪNG
Mô hình phát triển bền vững ven biển
Nuôi tôm và phục hồi rừng ngập mặn song hành, vừa giúp nông dân tăng lợi nhuận, vừa mang lại
lợi ích sinh thái, gia cố lá chắn sinh kế và an toàn cho vùng ven biển.
Nuôi tôm kết hợp phục hồi rừng
Tại Ecuador và Indonesia, tổ chức
Conservation International (CI) đang hợp tác với nông dân để tái thiết kế mô hình nuôi tôm tăng năng suất trên một phần diện tích ao, đồng thời phục hồi rừng ngập mặn trên
phần đất còn lại. Theo ông Dane Klinger, Giám đốc thủy sản của CI, ngành tôm phát
triển quá nhanh khiến luật pháp không kịp điều chỉnh, dẫn đến tình trạng phá rừng ngập mặn để mở ao nuôi. Tuy nhiên, việc nhồi nhét tôm trong diện tích nhỏ lại làm gia tăng chất thải và nguy cơ ô nhiễm môi trường. “Chúng tôi tìm ra cách để giải quyết các thách thức này”, ông nói.
Cách tiếp cận mới là kết hợp nâng cấp sản xuất với hệ thống xử lý nước thải, đồng thời khôi phục rừng ngập mặn trên diện tích đất bỏ hoang hoặc ít hiệu quả. Rừng vừa giúp lọc nước, vừa khôi phục hệ sinh thái. Tại vùng châu thổ Mahakam (Đông Kalimantan, Indonesia), nơi từng 98% diện tích là rừng ngập mặn nhưng nay chỉ còn 45%, mô hình Silvofishery (ngư lâm kết hợp) đang được áp dụng. Nông dân trồng đan xen rừng ngập mặn trong ao nuôi tôm, kết hợp đa dạng đối tượng nuôi như cá, cua, rong biển. Nghiên cứu của Giáo sư Esti Handayani Hardi, Đại học Mulawarman, cho thấy mô hình “komplangan” giữ lại rừng xung quanh ao cho năng suất gấp đôi so với kiểu “empang parit” (đào mương và trồng rừng ven bờ). Rừng giúp duy trì chất lượng nước, giảm chi phí thức ăn và hóa chất, đồng thời nâng cao chất lượng tôm, đa dạng hóa thu nhập cho nông dân. Thí điểm tại làng
Muara Badak Ulu, năng suất đã tăng từ 200 lên 400 kg/ha/vụ, trong khi tôm và cá có hàm lượng axit amin và DHA cao hơn so với nuôi truyền thống. Quan trọng hơn, cộng đồng tham gia trực tiếp vào quản lý rừng, tạo sự gắn kết và nâng cao an ninh lương thực địa phương.
Nuôi tôm song hành bảo tồn rừng
Ngoài lợi ích sinh thái, các dự án thí điểm còn mang lại hiệu quả kinh tế. Ở Ecuador, CI hợp tác cùng hợp tác xã ngư dân để phục hồi thủy văn vùng rừng ngập mặn, đồng thời ký thỏa thuận sử dụng bền vững với chính phủ. Điều này cho phép ngư dân khai thác tài nguyên dưới sự giám sát môi trường, vừa hưởng lợi từ rừng vừa bảo vệ hệ sinh thái.
Năm 2023, tổ chức Sustainable Fisheries Partnership (SFP) cũng công bố báo cáo kêu gọi tích hợp phục hồi rừng ngập mặn vào các dự án cải thiện nuôi trồng thủy sản (AIP) trên quy mô toàn vùng sinh thái. Theo ông Paul Bulcock, quản lý thông tin thủy sản của SFP, việc khôi phục rừng trên diện tích đủ lớn mới đem lại toàn diện các dịch vụ sinh thái. Các ao tôm bỏ hoang hoặc đang khai thác đều có thể trở thành không gian cho rừng tái sinh, góp phần giảm phân mảnh và tạo chuỗi cung ứng bền vững hơn.
Tuy nhiên, phục hồi rừng ngập mặn không dễ dàng. Chi phí cao, cần vốn đầu tư lớn và mất đến 10 năm để rừng hồi phục đáng kể. Mặt khác, tăng sản lượng tôm cũng tiềm ẩn rủi ro dịch bệnh và phúc lợi động vật. Để giải quyết, CI hợp tác với Công ty công nghệ thủy sản Indonesia JALA, cung cấp giải pháp giám sát và cải tiến kỹ thuật cho nông dân, đồng thời xây dựng quỹ cho vay để mở rộng mô hình. Mục tiêu là giảm chi phí đầu tư, tạo ra phương thức sản xuất, phục hồi cân bằng hơn, có lợi cho rừng, tôm và người nuôi.
“Chúng tôi tin rằng nhiều quốc gia sẵn sàng tiếp nhận và điều chỉnh mô hình này. Nó không chỉ giúp phục hồi rừng ngập mặn mà còn giúp người nuôi giảm rủi ro, ít bệnh tật hơn và lợi nhuận cao hơn”, ông Klinger khẳng định. Trong khi đó, ông Bulcock nhấn mạnh: “Đây là cơ hội để ngành tôm trở thành người bảo vệ bờ biển, khắc phục những tác động trước đây và tiến xa hơn nữa”. VŨ ĐỨC (Theo GlobalSeafood) Các ao tôm bỏ hoang hoặc đang khai thác đều có thể trở thành kh ông gian cho rừng tái sinh Ảnh: GlobalSeafood
Giảm thiểu NH 3 trong ao tôm
Amoniac (NH3) là một trong những khí độc phổ biến và nguy hiểm trong ao nuôi tôm. Nếu vượt
ngưỡng cho phép, NH3 không chỉ làm giảm sức đề kháng của tôm mà còn gây chết hàng loạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và hiệu quả kinh tế.
NH3 - Khí độc âm thầm trong ao nuôi
Amoniac (NH₃) và ammonium (NH₄⁺) là
sản phẩm của quá trình phân hủy các hợp
chất chứa nitơ như thức ăn dư thừa, phân tôm, xác tảo và các chất hữu cơ trong ao.
Trong môi trường nước, NH₄⁺ và NH₃ tồn tại
đồng thời, trong đó NH₃ (dạng không ion) là
dạng độc hại nhất đối với tôm.
Nồng độ NH3 cho phép trong ao nuôi tôm lý tưởng là dưới < 0,1 mg/L, và cao nhất không được vượt quá 0,3 mg/L. Nồng độ này
cần được giữ ổn định để tránh ảnh hưởng đến sự phát triển và sức khỏe của tôm. Khi nồng độ NH3 vượt ngưỡng sẽ gây nhiều tác động tiêu cực đến sức khỏe tôm như: Tổn thương mang tôm, khiến tôm khó hô hấp; Giảm khả năng hấp thu ôxy, tôm yếu, chậm lớn; Tăng stress, tôm dễ nhiễm bệnh (Vibrio, phân trắng,…); Trường hợp nặng hơn, tôm có thể chết rải rác đến hàng loạt.
Nguyên nhân làm tăng NH3
Đạm là yếu tố chính hình thành nên NH3 trong ao nuôi tôm. Thức ăn cho tôm thường chứa lượng đạm rất cao, khi cho ăn dư thừa sẽ khiến thức ăn hòa tan trong nước. Sau một thời gian sẽ phân hủy thành NH3.
Tôm thải phân nhiều, nhất là ở các mô
hình nuôi mật độ cao và giai đoạn tôm lớn.
Trung bình, 30% đạm trong phân tôm được hấp thụ, phần còn lại hòa tan trong môi trường nước.
Ngoài ra, xác tôm lột, xác tôm chết và tảo tàn khi phân hủy cũng là nguồn cung cấp đạm và tạo ra NH3
Một nguyên nhân nữa là do nguồn nước từ kênh sông không được lắng lọc kỹ và xử lý sạch nên có thể sẽ chứa hàm lượng khí độc NH3. Khi người nuôi sử dụng nguồn nước này để cấp vào ao, đồng thời cũng sẽ mang luôn cả khí độc vào.
Đối với nuôi ao đất sau khi kết thúc vụ nuôi mà cải tạo ao chưa kỹ, còn sót lại nhiều bùn bã hữu cơ cũng có thể tạo điều kiện cho sự hình thành NH3 ở vụ mới. Hoặc đáy ao bị ô nhiễm do không xi phông thường xuyên cũng sẽ gây nên tình trạng tương tự.
Giải pháp giảm thiểu
Quản lý cho ăn hợp lý: Cho ăn theo nhu cầu thực tế, kiểm tra sàng ăn để điều chỉnh lượng cho ăn hằng ngày. Sử dụng thức ăn chất lượng cao, dễ tiêu hóa để giảm lượng nitơ thải ra môi trường.
Tăngcườnghệvisinhvậtcólợi:Bổ sung định kỳ các chế phẩm sinh học chứa chủng vi khuẩn nitrat hóa như Nitrosomonas, Nitrobacter, Bacillus spp. Nitrosomonas chuyển hóa NH₃ thành NO₂; Nitrobacter tiếp tục chuyển NO₂ thành NO₃ (ít độc hơn). Bổ sung vi sinh sau khi thay nước hoặc khi NH₃ tăng cao, kết hợp với bổ sung men tiêu hóa cho tôm để hỗ trợ đường ruột.
Cải thiện ôxy đáy ao: Tăng cường quạt nước, sục khí để cung cấp đủ ôxy cho quá trình phân hủy hữu cơ và hoạt động của vi sinh vật. Kiểm tra hàm lượng DO (hàm lượng ôxy hòa tan), đảm bảo ≥ 5 mg/L, đặc biệt vào sáng sớm.
Sử dụng vật liệu hấp phụ và khoáng chất: Zeolite: hấp thụ NH₃, H₂S, cải thiện chất lượng đáy; Yucca schidigera: thảo dược hấp thụ và trung hòa khí độc trong ao; Khoáng vi lượng: giúp tôm giảm stress, hỗ trợ gan thận tôm thải độc tốt hơn.
Quản lý pH và nhiệt độ: Duy trì pH ổn định từ 7,8 - 8,2, dao động không quá 0,3 đơn vị/ngày. Tránh hiện tượng tăng pH đột ngột vào buổi chiều do tảo quang hợp mạnh (có thể gây tăng NH₃ dạng độc).
Theo dõi và giám sát
Kiểm tra NH₃/NH₄⁺ định kỳ 3 - 5 ngày/ lần bằng bộ test nhanh hoặc gửi mẫu phòng thí nghiệm.
Kết hợp theo dõi các chỉ số hỗ trợ như: pH, DO, độ kiềm, độ trong, mật độ tảo, khí độc khác (H₂S, NO₂).
Khi NH₃ vượt ngưỡng, cần xử lý ngay theo phác đồ kỹ thuật.
NAM CƯỜNG
Trong điều kiện nuôi thâm canh, mật độ cao, việc phát sinh NH3 là không tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu người nuôi chủ động áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thì hoàn toàn có thể kiểm soát NH 3 ở ngưỡng an toàn.
Kiểm tra sàng để tránh dư thừa thức ăn
Ảnh: Thefishite
Tối ưu khoáng, tăng năng suất tôm
Bổ sung khoáng chất đúng loại, đúng liều lượng và đúng thời điểm là giải pháp thiết thực giúp người nuôi duy trì năng suất và ổn định sức khỏe tôm.
Vai trò
Khoáng chất là thành phần không thể thiếu trong quá trình trao đổi chất của tôm. Canxi và magie giúp hình thành và ổn định cấu trúc vỏ; natri và kali điều chỉnh áp suất thẩm thấu và cân bằng điện giải; kẽm và sắt hỗ trợ quá trình enzyme hoạt động và miễn dịch. Ngoài ra, một số khoáng vi lượng như đồng, mangan, selen cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng bắt mồi, tiêu hóa và chống ôxy hóa.
Trong điều kiện nuôi mật độ cao, tôm hấp thụ khoáng từ thức ăn và môi trường không đủ, dẫn đến nhiều rủi ro sức khỏe. Do đó, cần có kế hoạch bổ sung hợp lý để tạo nên công thức cân bằng giữa môi trường nước - đáy ao - cơ thể tôm.
Các loại khoáng cần thiết
Canxi (Ca) và Magie (Mg): Đây là hai khoáng chất chủ lực cho quá trình hình thành và tái tạo vỏ. Thiếu canxi, tôm chậm lột vỏ, vỏ mỏng hoặc bị biến dạng. Magie lại liên quan trực tiếp đến sự cứng chắc và đàn hồi của vỏ. Trong thực tiễn, có thể dùng Dolomite (CaMg(CO₃)₂) hoặc vôi nung CaO/Ca(OH)₂. Liều lượng: Dolomite 20 - 30
kg/1.000 m² sau khi cải tạo ao, định kỳ 7 - 10 ngày bón lại 10 - 15 kg/1.000 m². Thời điểm bổ sung sau mỗi lần thay nước hoặc khi pH biến động. Đặc biệt, trước và sau khi tôm lột xác, nên tạt thêm 2 - 3 kg Dolomite/1.000 m² để giúp vỏ nhanh cứng. Kali (K): Kali đóng vai trò trong cân bằng áp suất thẩm thấu, giúp tôm chống sốc khi độ mặn thay đổi và hỗ trợ hệ thần kinh hoạt động bình thường. Trong nuôi tôm, thường sử dụng KCl (kali clorua) liều lượng 2 - 4 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 10 - 15 ngày/lần. Thời điểm khi tôm có biểu hiện bơi lờ đờ sau thay nước, mưa lớn hoặc độ mặn dao động nhanh. Bổ sung ngay sau những đợt mưa để tránh hiện tượng mềm vỏ và tôm bỏ ăn.
Natri (Na): Natri giúp điều chỉnh cân bằng điện giải, hỗ trợ hệ thần kinh và cơ bắp. Thiếu natri, tôm dễ bị yếu cơ, cong thân hoặc chết rải rác sau mưa. Trong ao nuôi, có thể sử dụng muối hột để bổ sung liều lượng 2 - 3 kg muối/1.000 m³, hòa tan trước khi tạt. Áp dụng khi độ mặn ao giảm đột ngột, sau mưa lớn hoặc khi cần ổn định áp suất thẩm thấu cho tôm đang lột xác.
Photpho (P): Photpho cần thiết cho sự tăng trưởng, vì tham gia vào quá trình tạo năng lượng ATP và cấu tạo xương vỏ. Thức ăn công nghiệp có bổ sung P, nhưng trong điều kiện nuôi thâm canh, lượng này thường không đủ. Có thể bổ sung bằng DAP (Diammonium phosphate) hoặc chế phẩm khoáng hữu cơ chứa photpho với lượng 1 - 2 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 15 ngày/lần. Thời điểm trước giai đoạn tôm tăng trưởng mạnh (sau 30 ngày tuổi), hoặc khi thấy tôm chậm lớn, vỏ mỏng. Kẽm (Zn), sắt (Fe), đồng (Cu), mangan(Mn),selen(Se): Nhóm vi khoáng này tuy cần với lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng trong hệ enzyme, miễn dịch và chống ôxy hóa. Thường khó bổ sung trực tiếp qua môi trường, nên cần bổ sung qua thức ăn bằng premix khoáng hữu cơ. Liều lượng 2 - 3 g premix/1 kg thức ăn, cho ăn liên tục 5 - 7 ngày/tháng. Tăng cường bổ sung khi thời tiết biến động, tôm yếu, hoặc đang trong giai đoạn lột xác hàng loạt.
Silic (Si): Silic ít được chú ý nhưng lại cần thiết để ổn định cấu trúc vỏ kitin. Thường bổ sung gián tiếp qua Dolomite hoặc khoáng tổng hợp. Tùy sản phẩm, thường 35 kg/1.000 m³ nước, định kỳ 15 ngày/lần.
Cách bổ sung
Bổ sung khoáng có thể thực hiện theo ba con đường: qua nước, qua thức ăn hoặc kết hợp cả hai.
Bổ sung qua nước ao: Thường áp dụng với các loại khoáng dễ hòa tan như Dolomite, KCl, muối hột. Nên tạt vào buổi tối hoặc sáng sớm để hạn chế thất thoát.
Bổ sung qua thức ăn: Giúp khoáng hấp thu trực tiếp vào cơ thể, thích hợp với các vi khoáng như Zn, Cu, Mn, Se. Nên trộn khoáng với dầu cá hoặc chất kết dính để tránh thất thoát trong nước.
Kết hợp: Đây là hướng tối ưu, vừa ổn định môi trường vừa tăng khả năng hấp thu của tôm.
PHƯƠNG ĐÔNG
Ngăn ngừa hiện tượng nhớt bạt ao tôm
Nuôi tôm lót bạt ngày càng phổ biến nhờ ưu điểm như dễ xi phông, chống sạt bờ và hạn chế mầm bệnh từ đất. Tuy nhiên, nhược điểm lớn của mô hình này là hiện tượng nhớt bạt ao thường xuyên xuất hiện, nếu không xử lý kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm nuôi.
Nhớt bạt ao tôm là gì?
Nhớt bạt ao tôm là hiện tượng xuất hiện một lớp nhớt mỏng, trơn, màu trắng đục hoặc vàng nâu bám trên bề mặt bạt ao nuôi (đáy và thành ao). Đây là hiện tượng phổ biến trong ao nuôi tôm lót bạt HDPE và thường xảy ra sau một thời gian nuôi hoặc sau khi ao có nhiều chất hữu cơ tích tụ.
Nguyên nhân
- Nguyên nhân hàng đâu chính là do lượng chất hữu cơ dư thừa tích tụ với thời gian dài ở ao. Cụ thể như lượng thức ăn thừa, vỏ tôm lột, phân tôm, xác tảo tàn,… Nếu để lâu không xử lý sẽ khiến bạt lót trong ao bị nhớt và tạo điều kiện thuận lợi để mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
- Ao nuôi bị nhiễm phèn và chứa nhiều kim loại nặng cũng sẽ dễ khiến cho nhớt nhầy bám trên bạt ao nuôi.
- Nguồn nước trước khi cấp vào ao nuôi chưa được xử lý kỹ càng, còn đọng lại nhiều chất lơ lửng và một số tác nhân khác có thể làm bạt ao nuôi dính nhớt.
- Trong quá trình nuôi, nhiều loại vi khuẩn dạng sợi như Microthrix parvicella, Nocardioform sinh sôi mạnh mẽ, phát triển thành các màng sợi dày đặc. Chúng khiến quá trình hô hấp của tôm gặp khó khăn, đôi khi có thể gây chết tôm và được xem là nguyên nhân gián tiếp gây nên hiện tượng nhớt bạt trong ao.
- Bên cạnh đó, một số người nuôi đã vô tình sử dụng các sản phẩm xử lý nhớt bạt kém chất lượng, việc này không chỉ không xử lý dứt điểm được tình trạng nhớt bạt mà còn khiến chúng phát triển ngày một dày đặc hơn.
- Nguồn nước trong ao quá trong, dẫn đến ánh sáng mặt trời dễ dàng chiếu tới đáy ao, nơi có lớp bạt lót. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho các loại tảo đáy, vi khuẩn phát triển mạnh trên bề mặt bạt.
- Việc không xi phông đáy, không bổ sung vi sinh hoặc không thay nước định kỳ khiến ao tích tụ chất thải, tạo điều kiện hình thành nhớt bạt.
Tác hại
Nhớt bạt bao gồm cả nơi bạt đáy và bạt bờ ao sẽ gây nhiều tác hại đối với tôm. Tôm thường bị bệnh đường ruột, chậm lớn, thậm chí là chết (rớt đáy), giảm hiệu quả kinh tế. Tình trạng nhớt bạt tiếp diễn trong thời gian dài sẽ dẫn đến những hậu quả xấu với ao nuôi. Làm thay môi trường, pH và độ kiềm, nhiều vi khuẩn và tạp chất bất lợi cho tôm nuôi sẽ phát triển, cản trở hoạt động di chuyển, bắt mồi của tôm. Kéo theo hàm lượng ôxy hòa tan trong nước bị giảm thấp, từ đó làm biến động nhiều hơn các yếu tố thủy lý, thủy hóa của ao
nuôi, tôm dễ mắc các bệnh như vàng mang, đen mang, đốm thân,… Điều này ảnh hưởng rất lớn đến giai đoạn sinh trưởng và phát triển về sau của tôm.
Rong nhớt bám trên bạt chính là nơi cư trú của nhiều mầm bệnh nguy hiểm với tôm, chúng có thể là ký sinh trùng, vi khuẩn hoặc cả virus. Nếu rong nhớt phát triển quá dày sẽ cạnh tranh dinh dưỡng với sự phát triển của những nhóm tảo có lợi cho tôm.
Tôm ăn phải lớp nhớt bạt thì đường ruột sẽ không khỏe mạnh, dễ tạo cơ hội cho vi khuẩn tấn công làm xuất hiện phân trắng, các bệnh về gan và mang gây rối loạn sức khỏe tôm nuôi.
Xác của rong nhớt cũng phân hủy thành một số loại khí độc như: NH3, H2S gây nguy hiểm cho sự phát triển của tôm nuôi.
Xử lý
Cho đến nay, việc xử lý nhớt bạt chủ yếu là áp dụng phương pháp chà bạt và sử dụng men vi sinh. Việc chà bạt thủ công mặc dù có thể làm giảm nhanh nhớt bạt ngay lập tức nhưng chỉ được thời gian ngắn, không mang lại hiệu quả cao và tốn nhiều chi phí cho nhân công.
Trong khi đó, phương pháp dùng men vi sinh để giảm và kiểm soát nhớt bạt là biện pháp cho hiệu quả cao hơn và bền vững. Hơn nữa thời gian xử lý bằng men vi sinh nhanh
SÁCH KỸ THUẬT
Kỹ thuật nuôi tôm hùm
hơn so với phương pháp chà bạt. Men vi sinh xử lý nhớt bạt thường có thành phần như Bacillus megaterium, Bacillus polymyxa, Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Saccharomyces,…
Phòng ngừa
Để phòng nhớt bạt, trước vụ nuôi cần vệ sinh, chà rửa nền bạt đúng quy trình kỹ thuật. Dùng bàn chải, máy xịt cao áp hoặc các dụng cụ chuyên dụng để cọ rửa sạch bạt ao, loại bỏ rong rêu, nhớt cũ, chất hữu cơ tồn dư từ vụ trước. Sát trùng bạt bằng các hóa chất an toàn (vôi, thuốc tím, Chlorine liều thấp,…), sau đó phơi bạt ao 3 - 5 ngày. Rửa sạch lại ao sau xử lý hóa chất, đảm bảo không còn tồn dư gây độc cho tôm.
Tạo hệ vi sinh có lợi trong ao từ những ngày
đầu thả giống để cạnh tranh với vi khuẩn gây hại và hạn chế màng nhớt hình thành. Dùng vi sinh xử lý đáy chứa các chủng như Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Bacillus megaterium,… Có thể ủ vi sinh với mật rỉ đường, sục khí trước khi tạt để tăng hiệu quả. Duy trì mực nước thích hợp từ 1,3 m trở lên sao cho ánh sáng không xuyên được tới đáy. Gây màu nước, giữ độ trong ổn định 30 - 40 cm. Quản lý chất thải trong quá trình nuôi, tốt nhất nên xây dựng hệ thống lắng, lọc để loại bỏ chất thải có trong nước cấp trước khi nuôi tôm.
Tăng cường chạy quạt, sục khí đáy để tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan và tạo điều kiện để giải phóng nhanh các loại khí độc khỏi môi trường nước ao nuôi, đồng thời nên tiến hành xi phông đáy ao định kỳ và thường xuyên. Thiết kế hệ thống xi phông ở đáy ao giúp gom tụ chất thải tại giữa ao nuôi nhằm dễ dàng loại bỏ chất thải suốt trong quá trình nuôi tôm. Lắp đặt và vận hành hệ thống quạt nước đúng kỹ thuật sẽ hạn chế nhớt bạt đáy ao nuôi tôm.
Cần lựa chọn loại thức ăn của các hãng sản xuất uy tín, phù hợp với loài tôm nuôi và kích cỡ tôm. Quản lý thức ăn chặt chẽ, hạn chế lượng thức ăn dư thừa bởi đây là nguồn dinh dưỡng cho rong nhớt phát triển.
Sử dụng men vi sinh thường xuyên góp phần ổn định chất lượng nước trong ao nuôi và hình thành hệ vi sinh vật có lợi trong ao. Ngoài ra nên sử dụng các dòng men vi sinh chuyên dùng để xử lý chất thải hữu cơ trong suốt vụ nuôi nhằm giảm tối đa tích tụ bùn nơi đáy ao nuôi. Đồng thời, tránh để tảo bùng phát quá mức. Quan sát bề mặt bạt định kỳ (đặc biệt là buổi sáng) để phát hiện sớm lớp màng nhớt. Nếu thấy bạt trơn bất thường, có lớp màng trắng đục/vàng nâu thì cần xử lý ngay bằng hút đáy và bổ sung vi sinh. DIỆU CHÂU
Tôm Aesop
Tôm hùm là một trong những loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế vùng ven biển, đặc biệt là ở khu vực Nam Trung Bộ. Với giá trị xuất khẩu lớn và tiềm năng sinh lời cao, nghề nuôi tôm hùm đang ngày càng thu hút sự quan tâm của nông dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên, để nuôi tôm hùm thành công đòi hỏi người nuôi phải nắm vững các kiến thức chuyên môn, kỹ thuật tiên tiến và có khả năng ứng phó hiệu quả với những rủi ro về dịch bệnh, môi trường và thị trường. Cuốn sách “Kỹ thuật nuôi tôm hùm” ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó, cung cấp một hệ thống kiến thức bài bản, cập nhật và dễ ứng dụng cho người đọc. Với lối trình bày rõ ràng, dễ hiểu và hình ảnh minh họa sinh động, cuốn sách không chỉ là tài liệu tham khảo hữu ích cho người nuôi tôm mà còn là nguồn tài liệu quý giá cho cán bộ kỹ thuật, sinh viên và các nhà quản lý.
Sách do Nhà xuất bản Thanh Hóa phát hành!
LÊ LOAN
Danh pháp khoa học Pandalus montagui. Là một loài tôm biển thuộc họ Pandalidae, phân bố rộng rãi
ở các vùng biển lạnh và ôn
đới thuộc Bắc Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương. Chúng thường được tìm thấy ở độ sâu từ 20 đến 700 m, sống trên nền đáy bùn, cát hoặc đá sỏi. Đây là loài tôm có giá trị sinh thái và kinh tế, thường được khai thác phục vụ cho ngành thực phẩm tại một số quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ. Loài tôm này có kích thước trung bình, chiều dài cơ thể dao động từ 4 đến 9 cm. Cơ thể có màu hồng nhạt đến đỏ hồng đặc trưng, với các sọc hoặc đốm sẫm màu trên mai và chân. Chúng có tập tính kiếm ăn chủ yếu về đêm, thường ẩn mình dưới lớp trầm tích hoặc trong các khe đá vào ban ngày và bắt đầu ra ngoài kiếm ăn khi ánh sáng giảm. Loài tôm này có chế độ ăn tạp, thiên về động vật, bao gồm các sinh vật phù du, giun nhiều tơ (polychaetes), động vật giáp xác nhỏ, ấu trùng cá và tảo đáy. THANH HIẾU
BÁCH KHOA THƯ
HỎI - ĐÁP
Hỏi: Xin tư vấn phương pháp xử lý ao nuôi khi có dịch bệnh nguy hiểm?
(Trần Công Hiền, xã Quảng Ninh, tỉnh Quảng Trị)
Trả lời:
Trong quá trình nuôi tôm thương phẩm khi gặp trường hợp tôm bị bệnh, nhất là các bệnh nguy hiểm như hoại tử gan tụy hay bệnh đốm trắng, người nuôi phải làm tốt khâu kỹ thuật xử lý ao nuôi.
Nếu tôm bị bệnh hoại tử gan tụy: Có thể thu hoạch nếu tôm to, còn tươi sống. Trường hợp ngược lại, tôm nhỏ cần ngừng cho ăn, ngưng quạt nước hoặc thổi khí, dùng hóa chất sát khuẩn mạnh để sát khuẩn ao nuôi, có thể 2 - 3 ngày lặp lại một lần, ít nhất sau 15 ngày mới rút nước khỏi ao chứa và ao chứa nước thải. Vớt sạch tôm chết ra khỏi ao để tiêu hủy, tiến hành cải tạo đáy ao và bón vôi. Sau đó phơi ao khoảng 1 tháng. Dùng hóa chất để tiêu diệt mầm bệnh trong ao. Việc phun hóa chất có thể lặp lại 2 - 3 lần trong 1 tháng phơi ao. Sau quá trình cải tạo, cách ly ít nhất 1 tháng có thể tiến hành thả nuôi trở lại. Chú ý, cần ngâm rửa đáy ao cho đến khi pH ổn định rồi mới lấy nước vào ao. Nếu tôm bị bệnh đốm trắng: Dùng Chlorine để xử lý ao nuôi tôm. Ít nhất sau 15 ngày mới rút nước khỏi ao và ao chứa nước thải. Vớt sạch tôm chết ra khỏi ao để tiêu hủy sau đó tiến hành cải tạo đáy ao và phơi ao, thời gian 1 tháng. Dùng hóa chất để tiêu diệt mầm bệnh trong ao. Việc phun hóa chất lặp lại giống như đối với xử lý ao tôm bị bệnh hoại tử gan tụy. Lưu ý, không sử dụng các chất diệt giáp xác có nguồn gốc là bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu trong quá trình xử lý nước ao nuôi. Không nên lấy nước trực tiếp vào nuôi để xử lý. Đối với tôm đang nuôi, người nuôi cần thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết, môi trường, tình hình dịch bệnh để có biện pháp xử lý nước ao cho phù hợp, cung cấp khoáng chất cần thiết nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm.
Hỏi: Biện pháp phòng ngừa dịch bệnh trong nuôi tôm?
(Phan Văn Cường, xã Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long)
Trả lời:
Chọn ao nuôi với chất đất và nguồn nước phù hợp. Ao nuôi cần phải có ao lắng nước. Cải tạo và chuẩn bị ao đúng phương pháp. Phải lấy nước từ ao lắng đã được xử lý không cấp nước trực tiếp từ ngoài vào.
Cần tuân thủ đúng lịch thời vụ thả giống do Sở Nông nghiệp và Môi trường ban hành, đồng thời hạn chế thả giống vào đầu mùa mưa. Đảm bảo thả đúng mật độ theo từng hình thức nuôi.
Lựa chọn con giống theo quy chuẩn Việt Nam. Xét nghiệm con giống trước khi thả.
Để tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi thì trước hết phải cho tôm ăn đủ cả về lượng và chất. Ngoài ra, bổ sung Vitamin C, khoáng và các chất tăng cường hệ miễn dịch (như beta-glucan) cho tôm sẽ giúp tôm nuôi nâng cao đề kháng, hạn chế dịch bệnh xảy ra.
Sử dụng chất diệt khuẩn hoặc chất ôxy hóa mạnh trong quá trình cải tạo ao, xử lý nước để tiêu diệt các tác nhân gây bệnh. Trong suốt vụ nuôi, chất diệt khuẩn cũng được sử dụng một cách hợp lý để ngăn chặn mầm bệnh phát triển trong ao. Ngoài ra, sử dụng vi sinh để tăng mật số vi khuẩn có lợi lấn át vi khuẩn gây bệnh cũng là biện pháp phòng bệnh được áp dụng rộng rãi hiện nay.
Xử lý hiện tượng tôm ăn yếu và bị bám bẩn bằng các phương pháp cải thiện chất lượng nước: diệt bớt tảo, thay nước,… Dụng cụ phải được cách ly theo từng ao đặc biệt là không dùng chung 1 chài để chài tôm trong nhiều ao, phải vệ sinh sạch sẽ tay chân trước khi cho tôm ăn hay thực hiện các công việc trên ao nuôi.
Trong quá trình nuôi, cần quản lý tốt các yếu tố môi trường, đảm bảo nằm trong ngưỡng phát triển của tôm.
Người nuôi tôm cần thu gom sạch xác tôm chết trong đầm, sau đó đem chôn nơi xa bờ ao, đầm nuôi để tránh lây lan, tạo cơ hội cho virus, vi khuẩn và mầm bệnh phát triển.
Hỏi: Tôi muốn nuôi tôm trong ao tròn nổi thì phải thiết kế ao như thế nào?
(Phạm Công Việt, xã Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau)
Trả lời: Ao nuôi được thiết kế ở những vị trí đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật như những ao nuôi thông thường. Nuôi tôm trong ao tròn có diện tích khoảng 500 - 2.000 m2, tốt nhất 500 - 1.000 m2. Chiều sâu của ao 2 - 2,2 m, mực nước trong ao khoảng 1,5 - 2 m. Ao được trang bị máy quạt nước và máy tạo ôxy đáy. Đáy ao nên được lót bạt hoàn toàn bằng tấm bạt nhựa dày 0,5 mm (bền, có thể sử dụng trên 5 năm), hoặc được đổ xi măng.
Ao nuôi không thiết kế cống thoát nước mà sử dụng ống PVC đường kính miệng lớn để cấp thoát nước. Ống PVC được chôn ở vị trí phần giữa đáy ao, nơi chất thải tập trung để hút chất thải ra ngoài. Từ đó nước được hút sang hệ thống xử lý, rồi chảy lại vào ao nuôi. Như vậy ao có tính khép kín tốt, đồng thời tránh ô nhiễm môi trường. Đặc biệt là hệ thống chất thải ô nhiễm phần đáy dưới tác dụng của máy quạt nước, nước quay tròn, giúp tập trung chất thải vào chính giữa và thải liên tục ra ngoài.
Ao lắng có diện tích bằng 30% so diện tích ao nuôi. Lấy nước vào ao lắng qua túi lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ ấu trùng tôm, cua, còng,… Nước trước khi vào ao nuôi cần được xử lý trong ao lắng bằng Chlorine, liều lượng 2 kg/1.000 m3 nước để khử trùng, quạt nước liên tục trong 1 ngày. Sau đó dùng tiếp BKC, liều lượng 2 lít/1.000 m3 nước, sau 2 ngày dùng vôi CaCO3 hòa tan, té xuống nước để ổn định pH. Cuối cùng sử dụng EDTA, liều lượng 5 kg/1.000 m3 để khử kim loại nặng và ổn định độ kiềm. Sau đó lọc qua lưới rồi hút nước vào ao nuôi. Với những ao nuôi từ vụ thứ hai, trước khi thả nuôi khoảng 15 ngày, tiến hành vệ sinh ao. Sau đó khử trùng và tiêu diệt các động vật và giáp xác tạp, rồi phơi nắng.