Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM
Văn phòng Hà Nội:
Điện thoại: 0243.7713699
Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Phòng Quảng cáo:
Quảng cáo: 028.62777616
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT
ISSN: 0866-8043
Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV
Lê Quang Lộc (TP HCM)
Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ
Thư tòa soạn
Thưa quý vị bạn đọc,
Mới đây, Bộ Thương mại Mỹ đã có thông báo gửi Bộ Nông nghiệp và
Môi trường Việt Nam về việc từ chối công nhận tương đương 12 nghề
khai thác hải sản của Việt Nam theo Đạo Luật bảo vệ động vật có vú biển (MMPA) của Mỹ. Theo đó, các loài hải sản khai thác từ những nghề cá này sẽ bị dừng nhập khẩu vào Mỹ kể từ ngày 1/1/2026.
Việt Nam là một trong 34 quốc gia được công nhận tương đương “một phần” khi có 11 nghề khai thác được công nhận tương đương và 12 nghề không tương đương. Việc Mỹ đánh giá tính tương đương của
Việt Nam ở mức “một phần”, trong khi có tới 89 quốc gia và vùng lãnh thổ được công nhận “tương đương hoàn toàn” sẽ tác động lớn đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, nhất là tại thị trường trọng điểm Mỹ. Quyết định của Bộ Thương mại Mỹ không những ảnh hướng lớn đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang nước này (ước tính có thể làm giảm 500 triệu USD/năm), mà còn tác động trực tiếp đến sinh kế của ngư dân, hoạt động của các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu. Ngành thủy sản Việt Nam chỉ còn khoảng 3 tháng để hoàn thiện hồ sơ bổ sung gửi phía Mỹ trước khi quyết định dừng nhập khẩu có hiệu
lực. Đưa 12 nghề khai thác hải sản ra khỏi danh sách từ chối công nhận
tương đương không chỉ là thách thức mang tính kỹ thuật mà còn là vấn
đề chiến lược về thương mại và uy tín của toàn ngành.
Để vượt qua các rào cản kỹ thuật khắt khe tại thị trường trọng điểm
Mỹ và được NOAA công nhận “tương đương hoàn toàn”, ngành thủy sản Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải thay đổi phương thức khai thác, hoàn thiện hệ thống giám sát và tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp MMPA.
“Chuẩn hóa nghề cá” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 10. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới bạn đọc chỉ đạo quyết liệt từ Chính phủ, các Bộ, ban ngành nhằm nâng cao khả năng được công nhận tương đương theo MMPA và gỡ thẻ vàng IUU. Cùng với đó, các chuyên gia, nhà khoa học sẽ đưa ra những phân tích, góc nhìn chuyên sâu về chuẩn hóa nghề cá, hướng tới mục tiêu bền vững.
Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 10 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.
Trân trọng! Ban Biên tập
Nguy cơ từ MMPA: Thủy sản Việt Nam trước “giờ G” Oanh Thảo
MMPA: Bài học từ Nhật Bản
Thái Bình
Chuẩn hóa nghề cá:
đi không thể chậm trễ
Hồng
Rong biển: Sinh kế từ “lộc biển xanh” Bảo Hân
54
VINAFIS EXPO 2026: Thủy sản Việt Nam vươn mình
Xuất khẩu tôm: Khó, nhưng vẫn kịp về đích
Xuân Trường
58
Ngư trường bền vững: Cơ sở cho chuẩn hóa khai thác
Thùy Khánh
Artemia salina: Lợi thế và giải pháp phát triển
Màu nước chuẩn: Giải pháp bền vững cho ao tôm khỏe
Phòng kỹ thuật - Công ty Sitto Việt Nam
sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi
MMPA và nghề cá toàn cầu: Thách
Tuấn Minh
53
Công nghệ Nano Bubbles: Giải pháp Oxy & Ozone
toàn diện cho ao tôm sạch khỏe BHN
Rong biển nâng cao hiệu quả nuôi tôm
Vũ Đức
60
Nuôi rươi kết hợp trồng lúa giúp nông dân làm giàu bền vững
Thùy Khánh
62
Xử lý nền đáy ao đất trong nuôi tôm
TNV
Xuất khẩu thủy sản vượt khó, cán mốc 8,3 tỷ USD
9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam ghi nhận kết quả ấn tượng với kim
ngạch đạt 8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này cho thấy sự phục hồi vững chắc và khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều thách thức. Động lực tăng trưởng chính
đến từ mặt hàng tôm khi mang về hơn 3,38 tỷ USD, tăng mạnh 20,3%. Các sản phẩm khác như cá tra, cá biển, mực - bạch tuộc cũng duy trì đà tăng trưởng tốt. Về thị trường, Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là đối tác lớn nhất với kim ngạch 1,76 tỷ USD, tăng 32,1%. Trong khi đó, thị trường Mỹ có dấu hiệu chững lại do các rào cản về thuế và quy định kỹ thuật. Dù đạt kết quả tích cực, ngành thủy sản vẫn đối mặt với nhiều khó khăn: áp lực từ thuế chống bán phá giá, thẻ vàng IUU của EU chưa được gỡ bỏ và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để duy trì đà tăng trưởng, việc đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là các thị trường ngách tiềm năng như ASEAN, Trung Đông, và nâng cao giá trị sản phẩm chế biến sâu được xem là yếu tố then chốt.
Thủy sản thiệt hại nặng nề do bão số 10 (Bualoi)
Cơn bão số 10 (Bualoi) đã gây ra tổn thất nặng nề cho ngành thủy sản miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Chỉ riêng nuôi trồng thủy sản, tổng diện tích thiệt hại đã vượt 16.800 ha. Nhiều hộ dân rơi vào cảnh “trắng tay” khi ao đầm vỡ bờ, cuốn trôi toàn bộ vốn liếng. Riêng tại Thanh Hóa, hơn 3.840 ha bị ảnh hưởng và 2,3 triệu con tôm giống chết. Tại Nghệ An, trên 2.000 ha nuôi trồng cũng bị phá hủy. Các
vùng nuôi lồng bè trên biển cũng chịu cảnh lưới rách, cá thoát ra ngoài hoặc chết do sốc môi trường. Về khai thác cũng không tránh khỏi tổn thất khi nhiều sự cố tàu cá nghiêm trọng xảy ra. Tại Quảng Trị, đã có tàu bị chìm do va chạm khi vào cảng trú bão, cùng nhiều tàu khác bị đứt dây neo, bị sóng lớn đánh chìm ngay tại nơi neo đậu. Thiệt hại này đang giáng một đòn mạnh vào sinh kế của hàng nghìn ngư dân trong khu vực.
Cần hỗ trợ
cấp để khôi phục thủy sản sau bão
Sau thiệt hại nặng nề do bão số 10, việc khôi phục sản xuất cho ngành thủy sản đang là bài toán cấp bách, đòi hỏi các giải pháp hỗ trợ đồng bộ và kịp thời để giúp người dân gượng dậy. Đối với các hộ nuôi tôm đang đối diện nguy cơ phá sản, các chuyên gia khuyến nghị một quy trình phục hồi chặt chẽ. Trước khi tái thả giống, cần phải đánh giá lại chất lượng nguồn nước, xử lý ao đầm bằng vôi, chế phẩm vi sinh, và gia cố lại bờ bao. Đặc biệt, cần xét nghiệm mầm bệnh (như bệnh đốm trắng) để giảm thiểu rủi ro dịch bệnh bùng phát do môi trường ao nuôi bị “sốc”. Các biện pháp kỹ thuật cho nuôi lồng bè cũng được đưa ra như kiểm tra lại toàn bộ khung phao, neo và điều chỉnh mật độ nuôi. Tuy nhiên, giải pháp kỹ thuật phải đi đôi với hỗ trợ khẩn cấp. Các đề xuất cấp thiết nhất hiện nay bao gồm cung cấp con giống, hóa chất xử lý môi trường và đặc biệt là các gói tín dụng ưu đãi, lãi suất thấp trong 6 - 12 tháng để người nuôi có đủ nguồn lực tài chính tái đầu tư.
Thủy sản Việt chinh phục thị trường Chile
Ngành thủy sản Việt Nam đã có màn giới
thiệu ấn tượng tại Hội chợ Espacio Food & Service 2025, sự kiện thực phẩm quan trọng
nhất Chile diễn ra từ ngày 30/9 đến 2/10. Đây là cơ hội để khẳng định vị thế của Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới, đặc biệt với các sản phẩm chủ lực như cá da trơn và tôm. Tại sự kiện, Thương vụ Việt Nam tại Chile đã trưng bày hàng trăm mẫu sản phẩm của gần 50 doanh nghiệp Việt. Trong đó, lĩnh vực thủy sản có sự góp mặt
giá cao từ đông đảo đối tác và khách hàng Chile về chất lượng và sự đa dạng. Sự kiện đã mở ra nhiều cơ hội kết nối, giao thương mới, hứa hẹn thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường đầy tiềm năng này.
Hưng Yên Bảo vệ thủy sản sau mưa bão
Sau ảnh hưởng của bão số 10 (Bualoi) gây mưa lớn, nhiều vùng nuôi trồng thủy sản tại Hưng Yên bị ngập cục bộ, đe dọa đến sinh trưởng của vật nuôi. Trước tình hình này, các địa phương và người dân đang khẩn trương triển khai nhiều biện pháp đồng bộ để bảo vệ sản xuất. Tại các vùng nuôi, người dân tập trung bơm tiêu, khơi thông dòng chảy và mở các cống tiêu để thoát nước, chống ngập. Song song đó, các biện pháp kỹ thuật được ưu tiên hàng đầu là xử lý môi trường nước bằng vôi và hóa chất khử trùng nhằm ổn định các yếu tố như pH, độ kiềm và ngăn ngừa dịch bệnh bùng phát. Người nuôi cũng chủ động gia cố bờ ao, lồng bè bằng lưới chắn và bổ sung Vitamin C vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá, tôm. Theo ngành chuyên môn, đây là những giải pháp cấp thiết nhằm giảm thiểu rủi ro, giúp thủy sản không bị sốc môi trường, qua đó bảo vệ an toàn thành quả nuôi trồng từ nay đến cuối năm. Hà Tĩnh Khắc phục thủy sản sau bão lũ
Sau bão số 10, ngành nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh chịu thiệt hại nặng nề với hơn 700 ha ao nuôi và 9.000 m³ lồng bè bị ảnh hưởng, hư hỏng. Để giúp người dân nhanh chóng ổn định sản xuất và ngăn ngừa dịch bệnh, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh đã ban hành các hướng dẫn kỹ thuật khẩn cấp. Theo đó, người nuôi được khuyến nghị khẩn trương thu hoạch thủy sản đã đạt kích cỡ thương phẩm. Đối với diện tích còn lại, cần tập trung sửa chữa, gia cố ao đầm, lồng bè. Ưu tiên
phẩm tiềm năng đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế khắt khe nhất. Các mặt hàng thủy sản cùng nông sản Việt Nam
Xử lý dứt điểm 4 vấn đề IUU
Chiều tối 7/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chủ trì phiên
họp hàng tuần lần thứ 16 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác IUU. Tại đây, Thủ tướng yêu cầu phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xử lý dứt điểm 4 vấn đề tồn tại, bất cập trong công tác này
trước ngày 15/11/2025. Phiên họp ghi nhận hơn một tháng qua
cả nước không phát hiện thêm tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài. Tuy nhiên, Thủ tướng thẳng thắn chỉ rõ tiến độ chuyển biến còn chậm so với yêu cầu, khi vẫn còn hàng nghìn tàu cá chưa được cấp phép, chưa đủ điều kiện hoạt động. Do đó, Thủ tướng yêu cầu phải cương quyết “tuyên chiến” với khai thác IUU và xử lý nghiêm người đứng đầu nếu địa phương làm không tốt. Theo chỉ đạo, kế hoạch phải tập trung giải quyết 4 nhóm vấn đề chính: Quản lý đội tàu; theo dõi, kiểm soát hoạt động tàu cá; truy xuất nguồn gốc thủy sản; thực thi pháp luật, xử lý nghiêm các vi phạm. Kế hoạch này phải được hoàn thành và trình trước ngày 11/10 để triển khai ngay lập tức.
môi trường thay đổi đột ngột. Các giải pháp này nhằm giúp người dân giảm thiểu thiệt hại, nhanh chóng khôi phục sản xuất và chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho vụ nuôi tiếp theo.
Quảng Ngãi
Phạt 3 thuyền trưởng gần
1,1 tỷ đồng
Ngày 4/10, Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Sa Kỳ (Quảng Ngãi) đã ra quyết định xử phạt 3 thuyền trưởng tàu cá với tổng số tiền gần 1,1 tỷ đồng vì hàng loạt vi phạm trong khai thác thủy sản. Cả 3 người cũng bị tước quyền sử dụng chứng chỉ thuyền trưởng trong thời hạn 9 tháng. Trường hợp nặng nhất là thuyền trưởng
Võ Cao Trung bị phạt 681,5 triệu đồng với các lỗi nghiêm trọng như: không lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS), giấy phép khai thác và chứng nhận an toàn đã hết hạn, không có sổ thuyền viên và xuất bến không làm thủ tục. Hai thuyền trưởng còn lại bị phạt mỗi người
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại Phiên họp thứ 15 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU).
205 triệu đồng do không chấp hành việc kiểm tra của cơ quan chức năng và không duy trì tín hiệu VMS theo quy định. Đại diện Đồn Biên phòng Sa Kỳ cho biết, việc xử lý nghiêm các vi phạm nhằm lập lại trật tự, đảm bảo an toàn cho ngư dân. Đây cũng là biện pháp kiên quyết nhằm chấn chỉnh tình trạng tàu cá hoạt động không phép, góp phần vào nỗ lực chung của cả nước trong việc chống khai thác IUU và gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu.
Đắk Lắk
Quyết liệt hành động gỡ “thẻ vàng”
IUU
Trước thềm đợt thanh tra lần thứ 5 của Ủy ban châu Âu (EC), tỉnh Đắk Lắk đang quyết liệt triển khai các giải pháp chống khai thác thủy sản bất hợp pháp (IUU) nhằm chung tay cùng cả nước gỡ bỏ “thẻ vàng”. Trong chuyến thị sát “nóng” ngày 5/10, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thiên Văn đã chỉ đạo siết chặt quản lý tại các điểm trọng yếu. Thực tế tại cảng cá Phú Lạc cho thấy tình trạng quá tải nghiêm trọng do tàu thuyền công suất lớn và luồng lạch bị bồi lắng, gây khó khăn cho hoạt động của ngư dân. Trong khi đó, tại “thủ phủ” tôm hùm Vũng Rô với 38.500 lồng bè, một tín hiệu tích cực là không phát sinh lồng bè nuôi mới. Phó Chủ tịch tỉnh đã yêu cầu khẩn trương rà soát, đề xuất phương án nâng cấp cảng cá Phú Lạc, xử lý dứt điểm tình trạng
trực 24/24 để kiểm soát toàn bộ tàu cá ra vào cảng, khẳng định quyết tâm quản lý chặt đội tàu để gỡ thành công “thẻ vàng”.
Cà Mau
đợt cao điểm chống khai thác IUU
Tỉnh Cà Mau triển khai đợt cao điểm chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU), kéo dài từ ngày 26/9 đến 15/10/2025. Mục tiêu của đợt ra quân này là xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế, góp phần cùng cả nước gỡ cảnh báo “Thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu. Trong thời gian này, tỉnh sẽ tập trung hoàn thành việc đăng ký, đăng kiểm, cấp phép và cập nhật 100% thông tin tàu cá vào cơ sở dữ liệu quốc gia. Lực lượng chức năng sẽ tăng cường tuần tra, kiểm soát, đặc biệt nhắm vào các tàu cá có nguy cơ cao, các tàu neo đậu tại đảo để né tránh kiểm tra, và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm vùng biển nước ngoài hay quy định về thiết bị giám sát hành trình (VMS). Đáng chú ý, kế hoạch của tỉnh nhấn mạnh sẽ kiên quyết xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến nỗ lực chung của địa phương trong cuộc chiến chống khai thác IUU.
Mỹ
Siết chặt nhập khẩu hải sản để
bảo vệ động vật biển
Hội đồng Quản lý Thủy sản Khu vực Tây
Thái Bình Dương kêu gọi cơ quan liên bang Mỹ tăng cường kiểm soát hải sản nhập khẩu
không đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ động vật biển. Tại cuộc họp tuần trước, hội đồng yêu
cầu Cơ quan quản lý Khí quyển và Đại dương quốc gia (NOAA) siết chặt các quy định mới của Đạo luật bảo vệ động vật có vú biển, đồng thời minh bạch hóa quy trình đánh giá ngư trường nước ngoài với sự tham vấn công chúng. Lần đầu tiên, NOAA công bố các “Kết luận so sánh” cấm nhập khẩu từ một số quốc gia, dự kiến áp dụng từ 1/1/2026, ảnh hưởng khoảng 15% hải sản nhập khẩu Mỹ. Tuy nhiên, các hạn chế chưa áp dụng với nghề câu cá ngừ bằng dây câu dài ở Tây - Trung Thái Bình
Dương, khiến các thành viên hội đồng lo ngại. Ngoài ra, hội đồng cũng tập trung theo dõi rủi ro môi trường từ khai thác khoáng sản biển sâu, đồng thời đặt giới hạn đánh bắt cá đáy ở quần đảo Bắc Mariana để đảm bảo bền vững.
Nhật Bản
Tăng hạn ngạch mực ống 34%
Cục Thủy sản Nhật Bản vừa phê duyệt quyết định nâng hạn ngạch đánh bắt mực ống mùa 2025 thêm 34% ngay giữa vụ, từ mức thấp kỷ lục 19.200 tấn lên 25.800 tấn. Đây là lần đầu tiên Tokyo điều chỉnh hạn ngạch giữa mùa, phản ánh tín hiệu phục hồi bất ngờ của nguồn lợi sau nhiều năm lao dốc. Theo cơ quan này, các khảo sát mới và sản lượng vượt trội tại vùng biển Aomori, Iwate – nơi ngư dân đã khai thác hơn nửa hạn ngạch ban đầu là cơ sở cho quyết
định tăng thêm 6.600 tấn. Từng rơi xuống mức thấp nhất lịch sử 18.000 tấn năm 2024, nghề
mực ống đại dương nay được “giải cứu” nhờ
hiện tượng dòng hải lưu Kuroshio trở lại quỹ đạo ổn định, giúp nhiệt độ nước biển thuận lợi cho sự phát triển quần đàn. Brazil
Ngành nuôi trồng thủy sản Brazil ghi dấu mốc lịch sử năm 2024 khi sản lượng đạt 724.900 tấn, tăng 10,3% so với năm trước, đưa giá trị toàn ngành lên 7,7 tỷ real (1,5 tỷ USD), theo số liệu từ
Viện Thống kê và Địa lý Brazil (IBGE). Trong đó, cá rô phi và tôm nuôi giữ vai trò then chốt, tạo nên bước nhảy vọt ấn tượng. Cá rô phi tiếp tục khẳng định vị thế đối tượng nuôi chủ lực, chiếm gần 69% tổng sản lượng thủy sản, đạt 499.400 tấn, tăng 12,8%. Sản lượng tôm nuôi cũng lập kỷ lục 146.800 tấn, tăng 15,2% và đạt giá trị 3,1 tỷ real (600 triệu USD).
Mỹ Ngành tôm thúc ép Quốc hội bịt lỗ hổng vận đơn nhập khẩu
Các hiệp hội tôm vùng Vịnh và Nam Đại Tây Dương đang đồng loạt kêu gọi Quốc hội Mỹ thông qua sửa đổi Manifest Modernization Amendment, nhằm buộc Hải quan công bố dữ liệu vận đơn không chỉ với đường biển mà cả hàng không, đường sắt và đường bộ.
Lỗ hổng tồn tại từ thập niên 1990 này khiến gần một nửa lượng nhập khẩu vào Mỹ rơi vào “vùng mù”, tạo kẽ hở cho tôm ngoại chứa kháng sinh, dính lao động cưỡng bức hoặc gian lận trung chuyển. Hiệp hội Chế biến Tôm Mỹ và Liên minh Tôm miền Nam nhấn mạnh, quyền tiếp cận dữ liệu rộng hơn sẽ giúp phát hiện sớm thủ đoạn gian lận, bảo vệ người tiêu dùng và tạo sân chơi công bằng. Ngoài ra,
ngành tôm còn kiến nghị tăng cường kiểm tra FDA (hiện chưa tới 0,1% trong 1,5 tỷ pound tôm nhập khẩu), siết truy xuất nguồn gốc theo chương trình NOAA, cũng như mạnh tay với các nhà máy nước ngoài né tránh thanh tra. Ngư dân vùng Vịnh cho rằng minh bạch vận đơn kết hợp kiểm soát chặt chẽ mới có thể giúp tôm nội địa duy trì sức cạnh tranh.
Nga Sản lượng fillet cá minh thái dự báo tăng gấp đôi đến năm 2028
Sản lượng fillet cá minh thái tại Nga được dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2028, đạt 90.000-100.000 tấn, nhờ lượng đánh bắt cũng như nhu cầu tiêu thụ nội địa liên tục tăng. Chuyên gia Hiệp hội Chủ tàu cá Nga (ASRF) cho biết, năm ngoái hơn 40.000 tấn fillet đã được cung ứng trong nước, gấp đôi năm 2023, chủ yếu nhờ các nhà chế biến Nga chuyển hướng sản phẩm từ thị trường nước ngoài trước các lệnh trừng phạt và hạn chế thương mại. Xuất khẩu fillet giảm 35% nhưng thị trường nội địa hứa hẹn tăng trưởng nhờ nhu cầu từ các tổ chức nhà nước, hiện chủ yếu ở các trường học, cùng với quá trình hiện đại hóa ngành và ra đời cơ sở chế biến mới. Bên cạnh đó, Nga cũng đặt mục tiêu mở rộng xuất khẩu, nhờ giá cạnh tranh, chất lượng cao và vị trí gần các thị trường châu Á, giúp củng cố vị thế trong top 3 nước xuất khẩu fillet cá toàn cầu.
8,33 TỶ USD
Là kim ngạch xuất khẩu thủy sản 9 tháng đầu năm, tăng 15,5% so với năm ngoái. Con số này cho thấy sự hồi phục vững chắc của ngành thủy sản và khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường nhiều rào cản.
2,7 TRIỆU TẤN
Là tổng sản lượng thủy sản quý III/2025, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2025, sản lượng thủy sản ước đạt 7.261,8 nghìn tấn, tăng 3,2%.
84.536 TÀU CÁ Là số lượng tàu cá cần phải kiểm soát chặt chẽ để khắc phục thẻ vàng IUU, dự kiến Đoàn thanh tra EU sẽ kiểm tra tháng 10/2025. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu chấm dứt vi phạm khai thác IUU vào 15/11/2025.
17.000 HA
Là diện tích thủy sản bị ảnh hưởng do bão số 10 (Bualoi) gây ra. Tổng thiệt hại kinh tế do bão này gây ra khoảng 15.864 - 16.510 tỷ đồng tại 9 tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ (Hà Tĩnh thiệt hại nặng nhất với 6.000 tỷ đồng).
Tuấn Minh
Nguy cơ từ MMPA Thủy
G”
Ngành thủy sản Việt Nam đang
đối mặt thử thách chưa từng có
khi Cơ quan Quản lý Đại dương và
Khí quyển Hoa Kỳ (NOAA) công
bố kết quả đánh giá theo Đạo
Luật bảo vệ động vật có vú biển (MMPA), trong đó 12 nghề cá chủ lực không được công nhận tương
đương – đe dọa kim ngạch xuất
khẩu hàng trăm triệu USD sang
Hoa Kỳ từ năm 2026.
Cú sốc lớn với ngành
Theo thông báo của NOAA ngày 26/8/2025, Việt Nam có 12 nghề cá bị đánh giá “không đạt tương đương”, bao gồm: Nghề lưới rê cá ngừ, lưới vây cá ngừ, câu vàng cá kiếm, nghề lưới rê ghẹ, lưới kéo mực, nghề cá mú, cá thu, cá đối, cùng một số nghề khai thác vùng ven bờ có nguy cơ cao gây ảnh hưởng đến động vật có vú biển. Đây là nhóm nghề chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu hải sản sang Hoa Kỳ với kim ngạch hơn 512 triệu USD (năm 2024), trong đó riêng cá ngừ đạt 387 triệu USD, chiếm gần 3/4 tổng giá trị. Ở chiều ngược lại, một số nghề cá khác của Việt Nam như cá cơm, cá trích lưới vây, cá ngừ vàng câu tay, bạch tuộc bằng bẫy, tôm biển lưới kéo đáy được công nhận tương đương, song không đủ bù đắp thiệt hại nếu nhóm bị loại bị cấm nhập khẩu. Với quyết định này, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất tại châu Á, bên cạnh Thái Lan và Indonesia. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đánh giá đây là “cú sốc lớn”, bởi thị trường Hoa Kỳ lâu nay chiếm 20 – 23% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm cá ngừ, mực và ghẹ.
Nguyên nhân chính
Theo giải trình của NOAA, việc 12 nghề cá của Việt Nam không được công nhận tương đương chủ yếu do chưa cung cấp đủ bằng
chứng về cơ chế giám sát và giảm thiểu tình trạng đánh bắt ngẫu nhiên (bycatch) đối với các loài động vật có vú biển.
Cơ quan này cho biết, trong hoạt động khai
thác của Việt Nam vẫn ghi nhận sự hiện diện
của một số loài thú biển thuộc danh mục
được bảo vệ của Đạo luật Bảo vệ Động vật
Có vú Biển (MMPA). Ngoài ra, các loại ngư
cụ truyền thống như lưới rê, lưới kéo, lưới vây
được đánh giá là có nguy cơ cao gây tương
tác với các loài này, trong khi Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu khoa học và giải pháp kỹ thuật cụ thể để chứng minh mức độ an toàn. Dù Việt Nam đã triển khai nhật ký khai thác, phỏng vấn ngư dân và kiểm tra tại cảng nhằm tăng cường giám sát, song chủ yếu tập trung ở các đội tàu lớn. Đáng chú ý, nhóm tàu nhỏ dưới 15m chiếm phần lớn trong hơn 90.000 tàu khai thác vẫn chưa được bao phủ bởi hệ thống giám sát này.
Một hạn chế khác là việc thiếu thiết bị hỗ trợ giảm bycatch và cơ chế báo cáo sự cố va chạm với động vật biển, vốn là yêu cầu bắt buộc theo MMPA. Hệ thống báo cáo hiện mới ở giai đoạn thử nghiệm, chưa hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia, dẫn đến việc NOAA đánh giá Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về quản lý nghề cá có trách nhiệm và bảo tồn động vật có vú biển. Động thái khẩn cấp
Ngay sau thông báo của NOAA, các cơ quan chức năng Việt Nam đã nhanh chóng vào cuộc. Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đồng loạt triển khai các biện pháp khẩn cấp nhằm ngăn chặn nguy cơ gián đoạn thương mại thủy sản với Hoa Kỳ.
Ngày 15/9/2025, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã gửi thư chính thức tới Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Howard Lutnick, đề nghị DOC và NOAA xem xét lại quyết định để tránh ảnh hưởng tiêu cực đến hợp tác song phương. Trong thư, Bộ trưởng khẳng định Việt Nam luôn cam kết bảo vệ môi trường biển, phát triển nghề cá bền vững và mong muốn cùng Hoa Kỳ tháo gỡ vướng mắc trên tinh thần hợp tác, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cũng nhấn mạnh, Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường giám sát nghề cá, mở rộng lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS), camera, nhật ký điện tử, đồng thời cập nhật dữ liệu khoa học để chứng minh nỗ lực giảm thiểu bycatch. “Việt Nam luôn nghiêm túc tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo tồn biển, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững”, bà Hằng khẳng định.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), nếu Hoa Kỳ áp dụng lệnh cấm nhập khẩu vào năm 2026, ngành thủy sản Việt Nam có thể thiệt hại hàng trăm triệu USD, ảnh hưởng trực tiếp đến hàng trăm doanh nghiệp chế biến và hơn 150.000 ngư dân tại các tỉnh ven biển miền Trung và Nam Bộ.
Để ứng phó, VASEP kiến nghị Chính phủ sớm thành lập tổ công tác liên ngành gồm
đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, cùng các chuyên gia kỹ thuật và doanh nghiệp nhằm đàm phán, phản biện khoa học với NOAA.
Hiệp hội cũng đề xuất thuê các chuyên gia và luật sư Hoa Kỳ từng làm việc tại NOAA để
hỗ trợ Việt Nam chuẩn bị hồ sơ, bổ sung dữ liệu và vận động chính sách hiệu quả hơn.
Cùng với đó, VASEP khuyến nghị tăng đầu tư cho chương trình giám sát nghề cá, mở rộng lắp đặt thiết bị định vị và camera trên tàu, đồng thời hỗ trợ ngư dân chuyển đổi sang ngư cụ thân thiện với môi trường. Ông Nguyễn Hoài Nam – Tổng Thư ký VASEP nhấn mạnh rằng, việc đáp ứng các tiêu chuẩn của MMPA tuy là thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội để nghề cá Việt Nam tiến gần hơn với chuẩn quốc tế. Nếu vượt qua được rào cản này, uy tín của thủy sản
Việt Nam sẽ được củng cố mạnh mẽ, không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở các thị trường khó tính như châu Âu và Nhật Bản nơi những yêu cầu tương tự đang dần được áp dụng.
Bước ngoặt cho nghề cá Việt Nam
Tại nhiều địa phương ven biển như Gia Lai, Khánh Hòa, Đắk Lắk, TP. HCM, hay An Giang, các doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ, mực, ghẹ… đang bước vào giai đoạn “chạy nước rút”
để đáp ứng yêu cầu của Hoa Kỳ theo MMPA. Hàng loạt nhà máy chế biến và đơn vị thu mua đã khẩn trương rà soát lại toàn bộ chuỗi cung ứng, yêu cầu ngư dân ghi chép đầy đủ nhật ký khai thác, báo cáo sản lượng và vị trí đánh bắt chính xác nhằm đảm bảo tính minh bạch trong truy xuất nguồn gốc, yếu tố then chốt để giữ vững
Theo các chuyên gia, trong thách thức luôn ẩn chứa cơ hội và MMPA có thể trở thành “cú hích” để nghề cá Việt Nam chuyển mình. MMPA không chỉ là một rào cản thương mại, mà còn là động lực thúc đẩy ngành thủy sản tái cấu trúc theo hướng hiện đại, minh bạch và thân thiện với môi trường. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này sẽ buộc ngành nghề chuyển sang mô hình khai thác có trách nhiệm hơn, giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái biển và góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, đây những yếu tố nền tảng cho phát triển bền vững.
Các tổ chức quốc tế như WWF, FAO và USAID đều nhận định, đây là thời điểm để Việt Nam chuẩn hóa dữ liệu nghề cá, mở rộng các chứng nhận quốc tế như MSC, thúc đẩy khai thác IUU-free và định vị hình ảnh quốc gia về “hải sản bền vững và có trách nhiệm”. Ông Nguyễn Hoài Nam – Tổng Thư ký VASEP khẳng định: “Nếu vượt qua được tiêu chuẩn MMPA, Việt Nam sẽ có vị thế mới trên bản đồ thủy sản thế giới. Đây là bước ngoặt – ai đi nhanh, minh bạch và bài bản, người đó sẽ trụ lại”.
Chỉ còn ít thời gian trước “giờ G”, toàn ngành thủy sản đang chạy đua để hoàn thiện dữ liệu, nâng cấp năng lực kỹ thuật và chứng minh sự tuân thủ MMPA. Cơ hội vẫn còn, nhưng khoảng trống về khoa học và công nghệ cần được lấp đầy nhanh chóng nếu không muốn bị bỏ lại phía sau.
Nếu thành công, Việt Nam không chỉ giữ vững thị trường Hoa Kỳ trị giá hàng trăm triệu USD, mà còn khẳng định vị thế quốc gia có nghề cá minh bạch, bền vững và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ngược lại, nếu chậm chân, hậu quả sẽ không chỉ là mất thị trường, mà còn là đánh mất niềm tin – tài sản vô hình nhưng vô cùng quý giá của thương hiệu thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế. MMPA không chỉ là một rào cản, mà là phép thử bản lĩnh để khẳng định, Việt Nam đủ năng lực bước vào kỷ nguyên nghề cá minh bạch, bền vững và toàn cầu hóa.
Ảnh: Trần Nguyên
Bài học từ Nhật Bản
Ảnh: Minh Anh
Các chuyên gia Nhật Bản
đã đưa ra những khuyến
nghị quan trọng để Việt
Nam có thể tham khảo trong quá trình khắc
phục và giải trình với
NOAA trong thời gian tới nhằm đạt được công nhận tương đương.
Mới đây, tại Cục Thủy
sản và Kiểm ngư (Bộ
Nông nghiệp và Môi
trường) đã diễn ra cuộc họp tham
vấn kỹ thuật cấp cao giữa đại diện
Việt Nam và Nhật Bản nhằm thảo
luận về kinh nghiệm của Nhật
Bản trong việc đáp ứng các yêu
cầu khắt khe về Đạo Luật bảo vệ
động vật có vú biển (MMPA) của
Cơ quan Khí quyển và Đại dương
Quốc gia Hoa Kỳ (NOAA).
Tại cuộc họp tham vấn, Nhật
Bản đã chia sẻ kinh nghiệm của
mình trong việc cung cấp dữ liệu
nghề cá cho NOAA, nhấn mạnh
vào cấu trúc quản lý 02 cấp: cấp
Bộ và cấp Tỉnh. Theo đó, thông
tin sẽ do địa phương cung cấp, có sự tham vấn với các chuyên gia và nhà quản lý tại cấp Trung ương.
Các thông tin này được thu thập và gửi đến NOAA để phục vụ cho quá trình đánh giá tương đương. Nhật Bản đã nộp các thông tin cần thiết về ngư cụ và các loài mục tiêu vào khoảng tháng 11/2021. Mặc dù có sự bao phủ hầu hết các loài trong vùng biển của mình, song Nhật Bản tập trung chủ yếu vào các loài có giá
trị thương mại cao và là đối tượng
xuất khẩu chính vào thị trường
Hoa Kỳ. Việc cung cấp thông tin
này cũng được thực hiện dựa trên
các biện pháp và giấy phép nghề cá được quản lý bởi các tổ chức quản lý nghề cá khu vực (RFMOs)
như WCPFC và IOTC.
Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, đặc biệt là việc xuất khẩu một số mặt
hàng thủy sản quan trọng vào thị trường Hoa Kỳ, kể từ sau ngày 01/01/2026 sẽ gặp nhiều khó khăn sau khi 12 nghề cá của Việt Nam bị NOAA từ chối công nhận tương đương trong phiên công bố kết quả ban đầu và kết quả cuối cùng.
Những lý do chính khiến NOAA từ chối công nhận tương của nghề cá Việt Nam bao gồm: Thiếu chương trình giám sát viên; Các biện pháp giảm thiểu khai thác không chủ ý còn thiếu và tính hiệu quả chưa rõ ràng; Thu thập dữ liệu chưa đầy đủ, đặc biệt là dữ liệu liên quan đến các loài thú biển bị đánh bắt không chủ ý, bị thương hoặc
Ngọc Hân
Ảnh:
tương đương là do khác biệt lớn giữa nghề cá Việt Nam và Hoa Kỳ, khi Việt Nam có đặc trưng là nghề cá quy mô nhỏ, thô sơ, đa loài, đa ngư cụ và Hoa Kỳ là nghề cá lớn, đơn loài, mức độ hiện đại hóa cao hơn.
Trước những chia sẻ và trao đổi với Việt Nam, các chuyên gia Nhật Bản đã đưa ra những khuyến nghị quan trọng để Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình khắc phục và giải trình với NOAA trong thời gian tới nhằm đạt được công nhận tương đương.
Đối với vấn đề giảm thiểu khai thác không chủ ý, Nhật Bản đặc biệt nghiêm cấm các hành vi cố ý đánh bắt hoặc gây hại thú biển trong hoạt động khai thác thương mại. Ngư dân phải báo cáo cho cơ quan quản lý nếu xảy ra tình trạng khai thác không chủ ý và hàng năm phải nộp báo cáo khai thác không chủ ý cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan có thẩm quyền. Nhật Bản cũng đã cung cấp các tài liệu hướng dẫn cho ngư dân về cách thức thả và giảm thiểu tổn thương cho thú biển khi chúng mắc vào lưới.
Đối với chương trình giám sát, Nhật Bản thừa nhận việc đạt độ bao phủ 100% đối với toàn bộ đội tàu rất khó để thực hiện. Thay vào đó, họ đã yêu cầu ngư dân tự báo cáo về số lượng thú
biển bị bắt. Tuy nhiên, đối với
hoạt động nghề cá ở vùng biển
quốc tế thuộc quản lý của các
tổ chức quản lý nghề cá khu vực như nghề lưới vây cá ngừ tại vùng
biển do WCPFC quản lý, Nhật
Bản thực hiện độ bao phủ quan sát viên 100%.
Nhật Bản đã đạt được kết quả tích cực khi không có nghề cá nào bị từ chối trong kết quả
công bố cuối cùng. Yếu tố then chốt cho thành công này là nhờ
Nhật Bản đã tiến hành tham vấn kỹ thuật và liên lạc rộng rãi với
NOAA trong quá trình đánh giá kể từ năm 2017.
Cũng tại cuộc tham vấn, phía
Việt Nam đã đề nghị Nhật Bản
hỗ trợ cung cấp các tài liệu, quy
định pháp lý của họ liên quan
đến chương trình giảm thiểu
khai thác không chủ ý để có thể
học hỏi và điều chỉnh chính sách
trong nước, đặc biệt khi Việt
Nam còn rất ít thời gian để tái
khởi động quá trình đàm phán/
đánh giá lại với NOAA. Nhật Bản
đã cam kết cung cấp thông tin này. Ngoài ra, các chuyên gia
Nhật Bản cũng bày tỏ tinh thần
sẵn sàng hỗ trợ phía Việt Nam
tối đa để giúp Việt Nam cũng
có thể được công nhận tương
đương như Nhật Bản.
Hai quy chuẩn mới về
phân cấp và đóng tàu cá
Vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (BNN&MT)
đã chính thức ban hành
Thông tư 57/2025/TTBNNMT, giới thiệu 02 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) về phân cấp và đóng tàu cá. Văn bản này, có hiệu lực từ ngày 10/3/2026, không chỉ cập nhật các tiêu chuẩn kỹ thuật mà còn nhấn mạnh vai trò của giám sát, kiểm tra nhằm giảm thiểu rủi ro tai nạn, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững cho một trong những ngành
kinh tế trụ cột của đất nước.
Thông tư 57/2025/TTBNNMT được Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Môi trường
ký ban hành ngày 11/9/2025.
Quy chuẩn: QCVN 91: 2025/ BNNMT dành cho tàu cá có
chiều dài lớn nhất từ 24 mét
trở lên và Quy chuẩn: QCVN
92:2 025/BNNMT áp dụng
cho tàu từ 12 mét đến dưới
24 mét. Thay thế Thông
tư 07/2021/TT-BNNPTNT, đồng thời kế thừa và cập
nhật từ Quy phạm phân cấp và đóng tàu cá biển (TCVN 6718:2000).
Phạm vi điều chỉnh của hai Quy chuẩn này tập trung vào hoạt động giám sát kỹ thuật và kiểm tra phân cấp tàu cá, bao gồm thiết kế, đóng mới, cải hoán, phục hồi, sửa chữa và khai thác. Đối tượng áp dụng bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về đăng kiểm tàu cá, cơ sở thiết kế và đóng tàu, chủ tàu cá, cũng như các tổ chức và cá nhân liên quan.
Cụ thể, QCVN 91:2025/ BNNMT quy định cho tàu vỏ thép, gỗ hoặc chất dẻo cốt sợi thủy tinh (FRP) với chiều dài lớn nhất từ 24 mét trở lên, trong khi QCVN 92:2025/ BNNMT dành cho tàu nhỏ hơn, từ 12 mét đến dưới 24 mét, với các yêu cầu linh hoạt hơn về vật liệu và
Thái Bình
Chuẩn hóa nghề Bước đi
không thể chậm trễ
Trong bối cảnh thị trường thủy sản thế giới ngày càng đặt ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe trong nhập khẩu hàng hóa, để không bị loại khỏi “cuộc chơi”, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải
tuân thủ mọi quy tắc của thị trường. Chính vì thế việc chuẩn hóa nghề cá đang và sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc.
ể có góc nhìn rõ hơn về vấn đề này, Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Phạm
Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Thủy sản Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư - Bộ Nông nghiệp và Môi trường), xung quanh nội dung chuẩn hóa trong nuôi trồng và khai thác thủy sản.
Hướng tới phát triển bền vững
Phóng viên: Hiện nay, thị trường thủy sản thế giới ngày càng có nhiều quy định nghiêm ngặt về các sản phẩm nhập khẩu, để giữ vững vị thế trong xuất khẩu, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải có sự chấn chỉnh. Theo ông, những yếu tố quốc tế nào đang tạo áp lực buộc ngành thủy sản Việt Nam phải “chuẩn hóa”? TS. Phạm Anh Tuấn: Đối với thủy sản thế giới, khi muốn xuất khẩu sang thị trường nào thì đầu tiên là phải tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng tại thị trường đó. Ví dụ như quy định về chất cấm, kháng sinh, các chất không được dùng, các ngưỡng giới hạn không được vượt quá, đó là tiêu chuẩn đầu tiên. Ngoài ra còn rất nhiều các quy định, các yêu cầu khác. Ví dụ như đối với thị trường EU là vấn đề về chống đánh bắt bất hợp pháp, đối với Hoa Kỳ là các quy định về vấn đề bảo vệ động vật có vú biển. Một điểm nữa là các quy định về vấn đề chống bán phá giá, châu
Các quy định này nhìn chung đều hướng đến hai mục tiêu. Một là chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường phải đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Thứ hai là bảo vệ môi trường và những người liên quan trong quá trình sản xuất.
Phóng viên: Vậy theo ông việc chuẩn hóa nghề cá nếu thực hiện được sẽ giúp gì với xuất khẩu thủy sản cũng như hoạt động ngư dân?
TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi nghĩ, vấn đề chuẩn hóa trong ngành thủy sản kể cả khai thác và nuôi trồng là tuân thủ các quy định và đáp ứng được các chứng nhận bền vững của các tổ chức cũng như thị trường thì đầu tiên là tốt cho chính mình. Bởi tất cả những điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành. Như nhấn mạnh của Thủ tướng Chính phủ trong cuộc họp với Ban Chỉ đạo IUU mới
đây là “phải xác định rõ ràng làm cho mình
chứ không phải làm chống đối với thị trường”.
Vì khi đạt được các chứng nhận tức là không chỉ sản xuất an toàn hơn, mà còn phải
chú ý vấn đề bảo vệ môi trường, phải quan tâm đến các phúc lợi xã hội của người lao động… Về khía cạnh nội tại, làm tốt để ngành phát triển bền vững, nhưng đồng thời cũng giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.
Phải tuân theo nguyên tắc thị trường
Phóng viên: Theo ông, để đạt được sự chuẩn hóa đúng nghĩa, trong nuôi trồng thủy sản, các tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ như ASC, BAP, Global GAP) đòi hỏi những quy trình sản xuất, an toàn sinh học, truy xuất nguồn gốc gì mà các hộ nuôi cần đáp ứng?
TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi thì sự chuẩn hóa gồm những quy định và tiêu chuẩn. Trong đó, quy định là phải tuân thủ. Ví dụ như họ yêu cầu không được dùng chất cấm này hoặc chất này chỉ cho phép ở một mức giới hạn nhất định thì ta sẽ phải theo. Còn những cái mà chúng ta thường gọi là tiêu chuẩn, hay còn gọi là chứng nhận như ASC, BAP, GlobalGAP, thì đấy là các tiêu chuẩn thực hành nuôi trồng thủy sản tốt. Và chứng nhận sẽ là tự nguyện.
Tự nguyện nghĩa là ta có thể theo hoặc không. Đó là về nguyên tắc. Tuy nhiên, mặc dù gọi là tự nguyện nhưng người ta lại biến thành công cụ thị trường. Tức là nếu như anh không đạt được những chứng nhận đó, thì
các nhà nhập khẩu không mua hàng. Hoặc là người tiêu dùng người ta ý thức hơn, ngoài chuyện mua sản phẩm an toàn cho tiêu dùng, họ còn muốn những sản phẩm đó phải được chứng nhận. Ví dụ như Walmart, hoặc một nhà nhập khẩu nào đó, họ chỉ mua hàng đạt được những chứng nhận cụ thể thì rõ ràng chúng ta phải theo chứng nhận đó. Thế nên gọi là tự nguyện nhưng thật ra nó lại trở thành điều kiện phải có để bán được hàng.
Nói chung, nếu như các quy định về mặt chất lượng chúng ta phải tuân thủ, nhưng về mặt tiêu chuẩn thì phải có sự lựa chọn cho phù hợp với người mua, với thị trường.
Phóng viên: Những khó khăn và chi phí lớn nhất mà nông hộ và doanh nghiệp đang gặp phải khi áp dụng các tiêu chuẩn nuôi trồng này là gì, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi trước tiên là người nuôi, hoặc nói chung là cả ngành hàng phải hiểu rõ những quy định nào bắt buộc, những chứng nhận nào tự nguyện để có sự lựa chọn, nếu không rất dễ bị nhầm lẫn. Thứ hai là phải hiểu thật chi tiết. Ví dụ như chứng nhận ASC, người ta đòi hỏi những vấn đề gì? Chứng nhận BAP hoặc GlobalGAP đòi hỏi điều gì?
Nhìn chung, các chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt đều xoay quanh 4 vấn
đề chính, là đảm bảo sản phẩm nuôi an toàn về mặt thực phẩm, đảm bảo an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường và vấn đề xã hội. Chỉ có điều là chi tiết từng tiêu chuẩn sẽ ở mức
độ khác nhau.
Và khi đã hiểu rõ chi tiết thì phải nhìn lại hệ thống sản xuất hay hệ thống vận hành để xem cái gì còn trống, cái gì chưa được mới có thể khắc phục và tuân thủ.
Một điều nữa là về mặt tài chính, tức là chi phí cho những chứng nhận đó. Chi phí ở đây gồm chi phí để thay đổi, chuyển đổi, nâng cấp hệ thống sản xuất của cơ sở và chi phí để đánh giá cũng như duy trì đánh giá đó. Những chi phí này thường vượt quá cái khả năng của những người sản xuất, đặc biệt là sản xuất nhỏ lẻ. Trong khi đặc thù ở Việt Nam thì đa phần là sản xuất nhỏ. Mặc dù các tổ chức chứng nhận có đánh giá theo nhóm, tức là thay vì riêng một hộ, họ sẽ tiến hành đánh giá một lần cả chục hay trăm hộ. Thế nhưng cái khó ở nước ta là vấn đề tổ chức để hàng chục hay hàng trăm hộ cùng làm.
Gỡ khó từ phía ngư dân
Phóng viên: Còn trong khai thác, việc chuẩn hóa để gỡ “thẻ vàng” IUU và đáp ứng quy định MMPA (Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển của Mỹ) có tác động thế nào đến ngành thủy sản nước ta và hoạt động của ngư dân, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Với IUU, chúng ta vẫn xuất khẩu được hàng, nhưng tần suất và thời gian kiểm tra xuất xứ bị kéo dài làm cho chi phí cùng tổn thất tăng lên. Ngân hàng Thế giới đã có báo cáo đánh giá tác động “thẻ vàng” IUU với thủy sản Việt Nam, cho thấy xuất khẩu thủy sản Việt Nam tổn thất đáng kể về kinh tế và uy tín thị trường. Còn với các quy định về bảo vệ động vật có vú biển, hầu như các mặt hàng hải sản, đặc biệt là đối tượng đánh bắt và các nhóm ngư cụ không tương thích hoàn toàn không xuất khẩu được vào thị trường Mỹ. Theo tôi nghĩ đấy sẽ là một tổn thất rất lớn và các nhà chuyên môn nhìn vào sản phẩm có thể tính được con số cụ thể. Chính vì thế, bắt buộc ngành thủy sản Việt Nam cần phải có sự thay đổi.
Phóng viên: Vậy, khi thực hiện đúng “chuẩn hóa” trong khai thác hải sản, ngư dân phải đối mặt với những thách thức nào, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Với IUU thì hiện có mấy việc, một là không được đánh bắt bất hợp pháp. Nếu như hiểu đầy đủ thì không phải chỉ có đánh bắt ở nước ngoài không phép là bất hợp pháp, mà ngay ở trong nước nếu không tuân thủ các vùng được đánh bắt và các đối tượng đã quy định cũng là một phần đánh bắt bất hợp pháp, sau đó phải xác định xuất xứ sản phẩm, tức là chứng nhận sản phẩm. Điều này rất khó và mất nhiều thời gian. Một điểm nữa là hiện nay, số lượng tàu thuyền của nước ta rất lớn, đặc biệt nhóm tàu dưới 15m. Mặc dù quy định phải đánh bắt ven bờ nhưng thật ra lại chưa được giám sát, kể cả nhóm tàu trên 15m, dù có thể giám sát toàn bộ nhưng để vận hành và theo dõi vẫn còn khó. Ngay cả với nhóm tàu đã lắp giám sát hành trình cũng còn nhiều nan giải về vấn đề chứng nhận xuất xứ, bởi trình độ ngư dân cũng như các thói quen không phải ngày một ngày hai có thể tuân thủ ngay các quy định.
Nhanh nhạy để thích ứng và xử lý
Phóng viên: Theo ông, cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ như thế nào để người nuôi và ngư dân khai thác dễ dàng thực hiện việc chuẩn hóa này, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Để làm được cái này theo tôi có hai vấn đề. Đầu tiên cần xác định đây là hành động hướng tới phát triển lâu dài chứ không phải chỉ đơn thuần là đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Hiện nay, việc xây dựng các quy định, hay vấn đề luật pháp ở nước ta đã ổn, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhanh nhạy nắm bắt các khuynh hướng và yêu cầu của thị trường hơn nữa để có những bước chuẩn bị phù hợp, không thể để “nước đến chân”
mới bắt đầu xử lý, mà vấn đề “thẻ vàng” IUU là một bài học.
Bởi việc châu Âu đưa ra “thẻ vàng” đã có
từ sớm nhưng chúng ta thiếu chuẩn bị nên
không có những hành động cụ thể và đáp ứng
được yêu cầu của họ. Cụ thể là thiếu hệ thống các số liệu, dữ liệu về tàu cá, về ngành nghề khai thác để chứng minh việc chúng ta đã tuân thủ các quy định này chứ không chỉ nói chung chung. Tương tự như vậy, những vấn
đề có thể sắp xảy ra như phát thải, an sinh động vật hay trợ cấp nghề cá của EU..., cơ quan quản lý nhà nước phải nghiên cứu các quy định và khuynh hướng để có sự chuẩn bị và giải pháp kịp thời.
Thêm nữa, nhà nước cần tăng cường đầu tư hạ tầng, gồm cả hạ tầng vùng nuôi đến hệ thống cảng cá, bến cá… Có như vậy người sản xuất mới có thể có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn. Cùng đó là sự hỗ trợ công tác đào tạo, tổ chức sản xuất, vì ngư dân chỉ có thể lo được trong khu vực nuôi nhỏ của họ thôi. Trong khai thác, quan trọng là cần thêm những hành động thật thiết thực. Đơn giản như việc muốn giảm sản lượng thì phải giảm số lượng tàu thuyền và quy định cấm đánh bắt có thời hạn… Tuy nhiên, trước hết phải có chính sách hỗ trợ ngư dân trong chuyển đổi nghề, đây là điều mà ngư dân cần.
Phóng viên: Trên hành trình tiến đến sự “chuẩn hóa nghề cá”, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đóng vai trò gì trong việc thúc đẩy ngư dân và người nuôi tuân thủ các tiêu chuẩn đó, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi, với doanh nghiệp nuôi họ điều kiện tốt hơn các hộ nên
“Hiện nay, việc xây dựng các quy định, hay vấn đề luật pháp ở nước ta đã ổn, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhanh nhạy nắm bắt các khuynh hướng và yêu cầu của thị trường hơn nữa để có những bước chuẩn bị phù hợp, không thể để “nước đến chân” mới bắt đầu xử lý”.
TS Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Thủy sản Việt Nam
cần là những người tiên phong. Còn các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, họ hiểu rõ thị trường, hiểu rõ nhu cầu tiêu dùng thì nên là lực lượng chuyển tải thông điệp, nhu cầu đó với cả hai phía, cơ quan nhà nước và người sản xuất. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng cần bắt tay với các hộ nhỏ lẻ để tổ chức lại sản xuất thành một vùng nguyên liệu lớn thì sẽ tốt hơn, chứ không chỉ thuần túy là người đi mua. Và tôi thấy hiện đã có nhiều doanh nghiệp làm được điều đó.
Phóng viên: Trong dài hạn, Việt Nam cần chiến lược tổng thể nào để chuẩn hóa toàn bộ chuỗi giá trị thủy sản? Và những giải pháp ưu tiên nào cần triển khai trong ngắn hạn và lâu dài để đạt chuẩn quốc tế, thưa ông?
TS. Phạm Anh Tuấn: Thực ra các chiến lược phát triển Việt Nam đã có hết, và tôi thấy những chiến lược đề ra là chuẩn, đã có hoạch định rõ ràng là lĩnh vực này nên phát triển thế nào, những vấn đề gì cần phải định hướng… Thế nhưng từ chiến lược đó phải thể hiện bằng hành động. Ví dụ như định hướng yêu cầu giảm khai thác, đẩy mạnh nuôi trồng, phát triển nuôi biển rồi chuyển đổi
số… đã rất chuẩn, nhưng phải làm những gì? Lộ trình như thế nào? Nguồn lực và ai thực hiện thì hiện vẫn chưa rõ. Vậy nên theo tôi, cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhìn lại một cách tổng thể những vấn đề đang đối mặt, rà soát lại toàn bộ quy định của các thị trường, để xem cái gì chúng ta đã đáp ứng, cái gì đang còn khoảng trống. Và phải làm những điều gì, thực hiện việc nào trước để đắp vào các khoảng trống đó. Như IUU đã rõ rồi, còn vấn đề MMPA tương tự như vậy, phải xây dựng lộ trình thực hiện. Ngoài ra, có những vấn đề bây giờ còn mới nhưng sắp tới có thể sẽ trở thành quy định hay tiêu chuẩn cao hơn như an sinh động vật, vấn đề phát thải… nên cần chuẩn bị sẵn để nhanh chóng thích ứng và thay đổi. Trân trọng cảm ơn ông!
Rong biển
Sinh kế từ
“lộc biển xanh”
Rong biển được coi là “lộc” của biển cả. Với
đường bờ biển dài, khí hậu thuận lợi và nguồn
lợi tự nhiên phong phú, Việt Nam đang đứng
trước cơ hội biến rong biển thành một ngành
kinh tế biển xanh, mang lại thu nhập bền vững
cho hàng vạn hộ dân ven biển.
Tiềm năng rong biển tại
Việt Nam
Biển Việt Nam được thiên
nhiên ưu đãi với hơn 800 loài rong biển, trong đó có khoảng
90 loài mang lại giá trị kinh tế.
Các nhà khoa học ước tính trữ
lượng rong biển tự nhiên vào
khoảng 80 - 100 tỷ tấn - một con
số đủ cho thấy tiềm năng to lớn để phát triển thành ngành kinh tế biển chủ lực.
Không chỉ dừng lại ở giá trị
thực phẩm, rong biển còn có
vô vàn lợi ích khác. Nó giúp làm
sạch môi trường nước, hấp thụ
khí CO 2 gấp 5 lần cây xanh trên
cạn, giảm thiểu ô nhiễm, góp
phần ứng phó với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, khi nuôi xen canh
với tôm, cá hay nhuyễn thể, rong
biển tận dụng hết phần dinh
dưỡng thừa trong nước, vừa tiết kiệm chi phí, vừa bảo vệ môi
trường, lại mang thêm nguồn thu nhập cho người nuôi.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã biến rong biển thành ngành kinh tế tỷ đô. Chẳng hạn, Trung
Quốc, Indonesia, Hàn Quốc hay Philippines đều có những vùng chuyên canh hàng chục nghìn
héc-ta, tạo ra giá trị thương mại khoảng 8,3 tỷ USD/năm. So với tiềm năng 900.000 ha có thể trồng rong biển, hiện Việt Nam mới khai thác được khoảng 16.500 ha, sản lượng 150.000 tấn/năm - một khoảng cách rất lớn nhưng cũng là dư địa phát triển đầy hứa hẹn. Các chuyên gia dự báo, nếu có chiến lược đúng đắn, chỉ vài năm tới Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên top 10 quốc gia sản xuất rong biển lớn nhất thế giới. Biến thế mạnh thành sinh kế Tại Việt Nam, tỉnh Khánh Hòa nổi bật với các mô hình trồng và chế biến rong biển, xuất khẩu nhiều sản phẩm có giá trị cao. Tại phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa (cũ), trước kia từng bị bỏ hoang do nuôi tôm ồ ạt gây ô nhiễm. Thế nhưng từ năm 2004, một số hộ dân đã mạnh dạn đưa rong nho xuống trồng thử nghiệm. Ban đầu
nhờ rong nho. Điển hình như gia
đình ông Nguyễn Văn Ben, mỗi tháng thu từ 8 tạ đến 1 tấn rong nho, với giá trung bình 30.000 đồng/kg, thu lãi ròng khoảng 10 - 15 triệu đồng. Rong nho có thể thu hoạch 8 - 9 tháng trong năm nên rất ổn định. Không chỉ cải thiện thu nhập, việc trồng rong nho còn góp phần khôi phục môi trường nước, đưa vùng ven biển Ninh Hải trở thành “thủ phủ rong nho” của Khánh Hòa.
Tại TP. Đà Nẵng, xã Tam Hải trước kia có nhiều ao nuôi tôm bị bỏ hoang do dịch bệnh và môi trường ô nhiễm. Tận dụng diện tích này, một số hộ dân đã chuyển sang trồng rong nho. Không phải đầu tư nhiều cơ sở hạ tầng, bà con chỉ cần cải tạo lại hệ thống ao, giữ nguồn nước sạch và độ mặn ổn định là rong nho có thể phát triển tốt. Sau vài tháng, rong thu hoạch đều đặn, mang lại thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi tháng. Mô hình này được coi là hướng đi “hai trong một”: vừa tái sử dụng diện tích ao bỏ hoang, vừa tạo sinh kế mới cho người dân ven biển, giúp nhiều gia đình “gỡ vốn” và ổn định đời sống. Tại miền Bắc, tỉnh Quảng Ninh lại hướng tới mô hình kết hợp nuôi rong với du lịch trải nghiệm, thu hút khách vừa tham quan vừa tham gia thu hoạch rong biển. Đây là mô hình nuôi biển công nghệ cao, tích hợp nhiều hoạt động trong nuôi biển. Nổi bật nhất là dự án của STP Group. Tập đoàn kết hợp nuôi rong sụn với hàu tại vùng biển Vân Đồn, vừa tận dụng hiệu quả không gian biển, vừa cải thiện chất lượng môi trường. Mô hình được các nhà quản lý, nhà khoa học đánh giá cao.
Cũng phát triển nghề trồng rong, nhưng tỉnh Quảng Ngãi lại tập trung phát huy thế mạnh rong mơ - một loài rong nâu bám
Để rong biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và sinh kế bền vững của người dân ven biển, rất cần xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia để đảm bảo chất lượng và giá trị sản phẩm rong biển. Đồng thời, xây dựng chiến lược dài hạn để đưa ngành rong biển trở thành một nền kinh tế biển, tạo ra nhiều việc làm cho người dân.
vào đá, rạn san hô ở độ sâu 3 - 6 mét. Rong mơ từ lâu được người dân xem là “lộc biển”, vừa làm thực phẩm, dược liệu, vừa là nơi trú ngụ của nhiều loài hải sản. Diện tích rong mơ tự nhiên của tỉnh tập trung tại Bình Sơn, lên đến 250 ha, mùa khai thác rộ từ tháng 3 đến tháng 7. Tuy nhiên, trước kia, bà con thường khai thác ồ ạt, rong còn non cũng cắt, dẫn tới cạn kiệt nhanh chóng. Để giải quyết tình trạng
này, dự án “Bảo vệ, khai thác và phát triển rong mơ” đã được triển khai với sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF). Dự án tập trung khảo sát, vẽ bản đồ phân vùng, hướng dẫn kỹ thuật khai thác
đúng mùa vụ, đồng thời nâng
cao nhận thức cộng đồng.
Ngoài việc hướng dẫn kỹ
thuật, dự án còn xây dựng các
mô hình sinh kế bền vững gắn
với rong mơ, giúp người dân có
thêm nguồn thu mà vẫn bảo vệ
được hệ sinh thái biển. Đây là
một ví dụ điển hình cho cách
tiếp cận hài hòa giữa bảo tồn và
phát triển kinh tế.
Hướng đi cho ngành rong
Việt Nam
Để phát triển mô hình trồng
rong biển bền vững, Việt Nam cần
tập trung vào xây dựng chuỗi giá
trị khép kín, ứng dụng khoa học
công nghệ, phát triển sản phẩm
có giá trị gia tăng cao, mở rộng
thị trường, bảo vệ môi trường và
nguồn lợi thủy sản, cùng với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch chi tiết và tiêu chuẩn quốc gia cho ngành rong biển.
Trong đó, cần xây dựng hệ sinh thái rong biển khép kín, bền vững. Cụ thể, tích hợp các khâu từ giống, nuôi trồng, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp, nhà nước và người dân.
Cùng đó, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, có sự tham gia của nhà nước và người dân, tập trung phát triển các loài rong biển có hiệu quả kinh tế và hàm lượng giá trị cao.
Mặt khác, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất, đầu tư nghiên cứu phát triển công nghệ nuôi trồng, đặc biệt là ở vùng biển sâu, công nghệ chế biến để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng cao như agar,
carrageenan, alginate. Nghiên cứu, nhân giống và bổ sung các loài rong biển mới có giá trị cao, có khả năng chịu đựng với điều kiện biến đổi khí hậu. Đồng thời, phát triển các vùng nuôi thâm canh, ứng dụng công nghệ cao, đảm bảo an toàn sinh học và môi trường sinh thái. Quan trọng hơn, ngành rong biển Việt Nam cần đa dạng hóa các sản phẩm từ rong biển, phục vụ nhu cầu công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Từ Khánh Hòa đến Quảng Ngãi, từ rong nho đến rong mơ, ngành rong biển Việt Nam đang chứng minh tiềm năng lớn trong việc vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa bảo vệ môi trường biển. Nếu có chiến lược dài hạn và sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, trong tương lai không xa, rong biển sẽ không chỉ là “lộc biển xanh” mà còn trở thành một ngành kinh tế biển mũi nhọn, đưa Việt Nam vươn tầm thế giới.
Tỉnh Quảng Ngãi đang xây dựng các mô hình sinh kế bền vững gắn với rong mơ Ảnh: Phạm Anh
Bảo Hân
Ngư trường bền vững
CƠ SỞ CHO CHUẨN HÓA KHAI THÁC
Trong bối cảnh nghề cá Việt Nam đang đối mặt với nhiều sức ép, quản lý hạn ngạch khai thác gắn với phục hồi nguồn lợi thủy sản
được coi là giải pháp then chốt.
Áp lực từ suy giảm nguồn lợi
Với đường bờ biển dài trên 3.260 km, ngư trường rộng lớn, Việt Nam từng được xem là quốc gia có nguồn lợi thủy sản phong phú. Thế nhưng, những năm gần đây, tình trạng khai thác quá mức, lạm dụng nghề mang tính hủy diệt và ô nhiễm môi trường biển
đã khiến nguồn lợi thủy sản suy giảm nghiêm trọng.
Ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm
ngư, cho biết: “Nguồn lợi thủy sản ven bờ gần như đã cạn kiệt.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở nhiều vùng biển ven bờ đã giảm từ 20 – 30% so với 20 năm trước. Sản lượng khai thác bình quân từ 3,9 triệu tấn/năm (2010 – 2015) đến nay có dấu hiệu chững lại, trong khi quy mô đội tàu vẫn ở mức cao (tính đến ngày 18/4/2025, cả nước có 82.333 tàu cá), phần lớn hoạt động ven bờ.
Nhiều ngư trường giờ chỉ còn
đánh bắt được cá kích thước nhỏ, giá trị thấp. Nếu không có biện
pháp quản lý mạnh mẽ, nguy cơ ‘trắng’ ngư trường ven bờ là điều khó tránh.” Hệ quả là ngư dân phải vươn
khơi xa, chịu chi phí nhiên liệu
và nhân công cao, trong khi sản
lượng không ổn định. Không ít gia đình lâm vào cảnh bấp bênh, sinh kế gắn bó bao đời với biển bị đe dọa.
Hạn ngạch khai thác Để ngăn chặn tình trạng khai thác quá mức, công cụ quản lý bằng hạn ngạch giấy phép đã được áp dụng từ Luật Thủy sản 2017. Theo đó, Nhà nước cấp hạn ngạch khai thác hải sản vùng khơi theo từng giai đoạn 5 năm, dựa trên cơ sở đánh giá trữ lượng, khả năng phục hồi và cơ cấu nghề khai thác. Theo Quyết định 1037/QĐBNN-TS ngày 11/4/2024, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (Nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã công bố hạn ngạch
khai thác hải sản vùng khơi giai đoạn 2024 – 2029 với tổng cộng 29.552 giấy phép, giảm khoảng 5,6% so với giai đoạn 2019 –2024. Việc giảm hạn ngạch này chủ yếu là giảm với tàu lưới kéo và tăng đối với tàu làm dịch vụ hậu cần nghề cá. Điều này phù hợp với định hướng bảo tồn nguồn lợi, phát triển bền vững ngành thủy sản cũng như góp phần chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).
Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, việc phân bổ hạn ngạch cho các địa phương được dựa trên cơ cấu tàu cùng khơi; điều kiện kinh tế-xã hội, tập quán khai thác; điều kiện ngư trường và nguồn lợi. Địa phương được cấp giấy phép nhiều nhất là tỉnh Kiên Giang với 3.720 giấy phép, tiếp đến là Bình
Định (nay là Gia Lai) với 3.280 giấy phép, Quảng Ngãi với 3.102 giấy phép.
Giảm hạn ngạch không đơn thuần là giảm số lượng tàu, mà còn nhằm tạo áp lực buộc ngư dân thay đổi tư duy. Từ khai thác bằng mọi giá sang khai thác có kiểm soát. Đây là tiền đề quan trọng để hướng tới nghề cá có trách nhiệm.
Phục hồi nguồn lợi
Song hành với việc giảm hạn ngạch, nhiều giải pháp phục hồi nguồn lợi thủy sản đang được đẩy mạnh. Việt Nam đã thiết lập 16 khu bảo tồn biển với tổng diện tích hơn 270.000 ha, đóng vai trò như “ngân hàng gen” cho các loài thủy sản quý hiếm.
Nhiều địa phương như Khánh Hòa, Quảng Nam, Quảng Ninh đã tổ chức thả hàng chục triệu con giống thủy sản bản địa mỗi năm ra biển, tái tạo quần thể tự nhiên. Chỉ riêng năm 2023, cả nước đã
thả hơn 100 triệu con giống thủy sản các loại, từ cá biển, cua, tôm hùm đến nhuyễn thể hai mảnh vỏ.
Ngoài ra, quy định mùa vụ cấm khai thác một số loài trong thời kỳ sinh sản, áp dụng mắt lưới lớn
hơn để tránh khai thác cá non, và
chuyển đổi ngư cụ ít gây hại sinh cảnh biển cũng được triển khai.
Ví dụ điển hình là chương trình hợp tác giữa Tổ chức Quốc tế về
Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) tại
Việt Nam và ngư dân một số tỉnh
tại Bình Định, Gia Lai, Khánh Hòa thử nghiệm móc câu tròn (circle hook) trong nghề câu cá ngừ đại
dương, giúp giảm tỷ lệ bycatch rùa biển, cá mập và các loài nguy
cấp khác.
PGS. TS Nguyễn Chu Hồi, Đại
biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản
Việt Nam, cho rằng: “Không thể có nghề cá bền vững nếu ngư
trường tiếp tục suy kiệt. Bảo tồn và phục hồi nguồn lợi chính là
‘quỹ tiết kiệm’ của ngư dân cho thế hệ mai sau.”
Đồng quản lý
Một trong những thách thức lớn là đội tàu nhỏ dưới 20 CV, hoạt động ven bờ vẫn chiếm tới
40% tổng số tàu cá, khiến công
tác quản lý hành chính gặp nhiều hạn chế. Theo quy định hiện nay, những tàu cá có công suất dưới 20 CV hoặc những phương tiện
Cả nước hiện có trên 82.333 tàu cá; trong đó, tàu chiều dài từ 6 - 12m là 39.330 chiếc; từ 12 - 15m là 14.404 chiếc; từ 15 - 24m là 26.095 chiếc; trên 24m là 2.453 chiếc. Hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản tại vùng khơi cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giai đoạn 2024-2029 là 29.552 giấy phép, giảm 5,6% so với giai đoạn 2019-2024. Trong số này, có 27.132 giấy phép cho tàu đánh bắt nguồn lợi thủy sản, 2.420 giấy phép cho tàu hậu cần đánh bắt nguồn lợi thủy sản.
phát sinh ngoài quy hoạch hành nghề, sát hại nguồn lợi cao như cào, te… sẽ bị cấm không cho khai thác tại vùng biển ven bờ.
Tuy nhiên, những gia đình làm
nghề này hầu hết có hoàn cảnh
khó khăn, không đất sản xuất, buộc lòng họ phải bám biển để mưu sinh.
Giải pháp được nhiều chuyên gia đề xuất là mở rộng mô hình
đồng quản lý nghề cá, trao quyền cho cộng đồng ngư dân tham gia
quản lý ngư trường.
Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch Hội
Nghề cá Đà Nẵng, chia sẻ: “Khi ngư dân được tham gia vào quản
lý, họ coi ngư trường như ‘tài sản chung’ cần gìn giữ, thay vì khai thác tận diệt. Đây chính là cách để chính sách không chỉ nằm trên giấy, mà đi vào cuộc sống.”
Chuẩn hóa nghề cá để hội nhập
Việc quản lý hạn ngạch và phục hồi nguồn lợi không chỉ là giải pháp bảo tồn mà còn là điều kiện
tiên quyết để chuẩn hóa nghề cá. Đây cũng chính là yêu cầu trọng tâm trong nỗ lực gỡ “thẻ vàng” IUU mà EC áp dụng với hải sản Việt Nam từ năm 2017. Theo quy định, tàu cá được cấp hạn ngạch phải đáp ứng nhiều tiêu chí: lắp thiết bị giám sát hành trình (VMS), ghi đầy đủ nhật ký khai thác, bốc dỡ qua cảng cá chỉ định, báo cáo sản lượng minh bạch. Đây là những bước chuẩn hóa nghề cá theo thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh: “Chuẩn hóa nghề cá gắn liền với quản lý ngư trường. Muốn xuất khẩu bền vững, Việt Nam phải khẳng định rằng thủy sản của chúng ta được khai thác hợp pháp, có trách nhiệm.” Quản lý hạn ngạch, phục hồi nguồn lợi và đồng quản lý cộng đồng chính là ba trụ cột để xây dựng ngư trường bền vững. Đó cũng là nền tảng để chuẩn hóa nghề cá – hướng đi tất yếu trong tiến trình hội nhập. Nếu coi ngư trường là “nguồn vốn tự nhiên”, thì việc chuẩn hóa nghề cá chính là cách đầu
Thùy Khánh
Artemia salina
Lợi thế và giải pháp phát triển ở đồng muối ven biển Việt Nam
Artemia là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng, cung cấp protein, axit béo thiết yếu (HUFA/omega-3), vitamin và khoáng chất, giúp ấu trùng tôm, ấu thể cá khỏe mạnh, tăng sức đề kháng và tỷ lệ sống. Các đồng muối ven biển, đặc biệt vùng Nam Trung Bộ, có nhiều lợi thế để phát triển nuôi Artemia, góp phần xây dựng mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững, thân thiện với môi trường và giàu tiềm năng kinh tế.
Ảnh: Shutterstock
Artemia salina thuộc Họ: Artemiidae, Bộ: Anostraca, Lớp: Branchiopoda, Ngành: Arthropoda (còn được gọi là tôm nước mặn).
Artemia trưởng thành dài khoảng 8–12 mm (có thể tới 15 mm). Phân bố tự nhiên ở nhiều vùng nước mặn, hiện được nuôi và khai thác ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chu kỳ sống: Từ trứng → Nauplius → nhiều giai đoạn ấu trùng → trưởng thành. Sinh sản hữu tính (giao phối đực–cái) hoặc sinh sản đơn tính (Parthenogenesis). Sống trong nước mặn hoặc siêu mặn (25–250‰), như đầm muối, hồ nước mặn ven biển. Chịu được nhiệt độ từ gần 0°C đến trên 40°C (nhưng tối ưu 25–30°C). Trứng bào xác (Cyst) chịu được khô hoàn toàn và nhiệt độ khắc nghiệt.
Trong điều kiện nuôi hoặc tự nhiên thích hợp, Artemia trưởng thành thường sống được khoảng 2–4 tháng. Mỗi con cái có thể sản xuất được trung bình 200.000-300.000 trứng trong vòng đời. Cyst ở trạng thái ngủ (Cryptobiosis) có thể tồn tại nhiều năm, thậm chí hơn 10 năm trước khi nở.
Thức ăn của Artemia là Tảo đơn bào: Là các loài tảo lục (Chlorella, Scenedesmus, Dunaliella salina – giàu β-carotene, thường
gặp ở đầm muối); Tảo khuê; Vi khuẩn: Vi khuẩn dị dưỡng và vi khuẩn quang hợp trong môi trường mặn; Các mảnh vụn hữu cơ lơ lững (Detritus) đang phân hủy và các vi sinh vật phù du khác.
Vai trò thiết yếu Với hàm lượng dinh dưỡng cao, khả năng bảo quản dài hạn, thuận tiện trong vận chuyển và sử dụng, cùng kích thước nhỏ
của Nauplius và trứng (phôi), Artemia đã trở thành nguồn thức ăn sống có giá trị đặc biệt trong ngành sản xuất giống thủy sản. Nhu cầu trứng Artemia trong sản xuất thủy sản nội địa cũng như cho xuất khẩu đang tăng nhanh, với dự báo có thể đạt tới khoảng 3.000 tấn trứng khô mỗi năm trong tương lai gần. Tuy nhiên, sản xuất trong nước hiện mới chỉ đạt khoảng 9 tấn, tập trung chủ yếu ở các vùng sản xuất muối Nam Bộ, trong khi hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 700 tấn. Khoảng cách rất lớn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trong nước không chỉ cho thấy sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải mở rộng nghiên cứu, đầu tư và phát triển sản xuất Artemia trong nước.
Ở Việt Nam, việc nuôi Artemia trên ruộng muối bắt đầu từ những năm 1980 tại các địa phương: Cam Ranh (Khánh Hòa), Cà Ná (Ninh Thuận) và Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Các hướng nghiên cứu chủ yếu: Đề tài 08A.04.04 “ Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi Artemia ở ruộng muối ”, giai đoạn 1986–2000 (Vũ Văn Dũng & Bùi Thị Anh Vân); các nghiên cứu tại Trường Đại học Cần Thơ về nuôi, quản lý sinh thái – dinh dưỡng – vi sinh nhằm nâng cao năng suất sinh khối và trứng; chiến lược thu hoạch (thu tỉa định kỳ) và quản lý độ mặn; chọn giống (cyst nhỏ, thích nghi với điều kiện nóng) và so sánh các dòng (Vĩnh Châu và Great Salt Lake)…
Trong giai đoạn 1986–1989, Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III thực hiện đề tài 08A.04.04 thuộc Chương trình 08A, triển khai nuôi Artemia trên ruộng muối tại Cà Ná (Ninh Thuận) và đạt kết quả khả quan. Đề tài đã tuyển chọn được dòng Artemia San Francisco Bay có kích thước trứng nhỏ (mỗi gram trứng chứa khoảng 200.000 – 300.000 cyst), chất lượng cao (hàm lượng protein 55–60%, giàu axit béo không no PUFA và HUFA); đồng thời xây dựng mô hình nuôi Artemia kết hợp sản xuất muối, với năng suất trứng đạt 10–20 kg/ ha, tùy thuộc độ sâu mực nước ruộng sản xuất muối. Các nghiên cứu cho thấy nếu kết hợp nuôi Artemia thì chất lượng muối cũng được cải thiện, trắng và tinh khiết hơn (nhờ Artemia lọc sạch vi tảo và chất hữu cơ lơ lửng trong nước).
Ảnh: Như Huỳnh
Các nghiên cứu cho thấy, nếu kết hợp nuôi Artemia thì chất lượng muối cũng được cải thiện, trắng và tinh khiết hơn.
Ngoài ra, Đề tài bước đầu đã thử nghiệm mô hình nuôi chuyên Artemia trong ao có độ sâu ≥ 60 cm, với thức ăn chính là tảo Dunaliella salina và có bổ sung thêm cám gạo nghiền nhỏ, cho kết quả khả quan. Đặc biệt, tại Ninh Thuận, nhờ lượng mưa thấp và mùa khô kéo dài, Artemia có thể tồn tại quanh năm và hình thành quần thể phân bố tự nhiên lâu dài tại các vùng sản xuất muối và tồn tại như một loài bản địa.
Ở S‰ từ 25 đến 70 – 80 độ mặn thấp nên
Artemia đẻ con làm tăng mật độ quần thể.
Tuy vậy ở độ mặn thấp 25 – 50/60% quần
thể Artemia thường bị các loài địch hại ăn. S‰ từ 70 – 80 các loài cá thường nổ mắt
chết nên Artemia phát triển nhanh. Ở mức
độ mặn 90 – 110‰, Artemia bắt đầu chuyển dần sang hình thức sinh sản bằng trứng bào xác (cyst) song song với Nauplii. Khi độ mặn
đạt ≥ 110‰, Artemia hầu như chỉ sinh sản ra trứng bào xác (cyst). Tuy vậy, trong điều kiện mật độ quần thể thấp, ngay cả ở độ mặn cao, Artemia vẫn có thể sinh sản ra con non – đây
được xem là một giải pháp sinh tồn nhằm duy trì quần thể trong môi trường khắc nghiệt (Vũ Văn Dũng, 1988).
Thiếu chính sách cụ thể
Mặc dù nhu cầu trứng Artemia trong nước ngày càng tăng, Việt Nam có lợi thế tự nhiên và dư địa lớn để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác, nhưng đến nay vẫn chưa hình thành được một ngành sản xuất quy mô thương mại đủ để chủ động đáp ứng nhu cầu trong nước và giảm phụ thuộc nhập khẩu. Thực tế cho thấy, đã có những bước đi ban đầu đáng ghi nhận, như kết quả của đề tài 08A.0404 (từng đoạt huy chương tại Hội chợ ngành thủy sản năm 2000) hay các nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ. Tuy vậy, các kết quả này chưa được chuyển hóa thành chương trình phát triển ở tầm quốc gia. Nguyên nhân chính có thể do việc định hướng chính sách chưa thực sự coi Artemia là một ngành chiến lược. Trong các văn bản quy hoạch và quyết định mang tính quốc gia, nội
dung phát triển Artemia vẫn còn bị xem nhẹ, dẫn đến thiếu cơ chế hỗ trợ về vốn, hạ tầng và công nghệ. Ngoài ra, năng lực sản xuất trong nước còn phân tán, phụ thuộc chủ yếu vào mô hình nhỏ lẻ tại các vùng sản xuất muối, nên không tạo được quy mô kinh tế và chuỗi giá trị hoàn chỉnh.
Dẫu vậy, cũng cần ghi nhận rằng một số văn bản pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật đã
được ban hành, như Tiêu chuẩn Quốc gia
TCVN 11754:2016 quy định yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử đối với trứng bào xác
Artemia (ban hành ngày 28/7/2016). Tuy nhiên, những văn bản này mới chỉ mang tính kỹ thuật, chưa đủ để định hình một chiến lược phát triển toàn diện, nhằm khai thác triệt để tiềm năng và giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Phân vùng địa lý
Câu hỏi là với các tỉnh ven biển Việt Nam có điều kiện khí hậu khác nhau, trong đó ở đâu có lợi thế để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác?
Điều kiện khí hậu tại các tỉnh ven biển Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt, dẫn đến mức độ thuận lợi khác nhau trong phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác: Ven biển Nam Trung Bộ: Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8. Trong đó, khu vực ven biển Ninh Thuận có mùa mưa ngắn, tập trung chủ yếu trong các tháng 9–11, với lượng mưa trung bình hằng năm chỉ khoảng 700–800 mm. Tại Bình Thuận, mùa mưa kéo dài từ tháng 7–11 và mùa khô từ tháng 11–12 năm trước đến tháng 6–7 năm sau; lượng mưa trung bình năm khoảng 1.024 mm.
Ven biển Nam Bộ: Mùa mưa diễn ra từ tháng 5–6 đến tháng 11–12, còn mùa khô từ tháng 11–12
đến tháng 4–5. Một số địa phương, như Bạc Liêu, có mùa khô ngắn (từ tháng 12 đến
+ Dunaliella
tháng 4), trong khi lượng mưa hằng năm lại rất cao, đạt 2.000–2.300 mm. Điều kiện này gây khó khăn cho việc duy trì độ mặn ổn định, vốn là yếu tố quyết định để nuôi Artemia.
Kết quả khảo sát và dữ liệu khí tượng cho thấy: ven biển Ninh Thuận và Bình Thuận có mùa khô kéo dài và lượng mưa thấp nhất so với các tỉnh ven biển Việt Nam (700–1.024 mm/năm). Đây là điều kiện đặc biệt thuận lợi để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác, cả theo mô hình kết hợp với sản xuất muối lẫn nuôi chuyên thâm canh.
Phát triển nuôi Artemia ở ruộng muối ở Việt Nam có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và tiềm năng thị trường, đặc biệt là khả năng phát triển giống thủy sản ngày càng cao. Nhưng không ít những khó khăn, thách thức về thời tiết, hạn chế về kỹ thuật và đầu tư; Thị trường và giá cả; Quy hoạch và chính sách còn tồn tại. Thách thức lớn nhất là thiếu quy hoạch chiến lược, phụ thuộc nhập khẩu và hạn chế trong công nghệ nuôi thâm canh.
5 nhóm giải pháp Để phát triển bền vững, cần đồng thời chú trọng ba trụ cột: khoa học – công nghệ, quản lý – chính sách, và thị trường – tổ chức sản xuất, với 5 nhóm giải pháp chính: - Nghiên cứu – công nghệ: Chọn giống dòng nhiệt đới, trứng nhỏ, dinh dưỡng cao, sức sống tốt; Nghiên cứu gây nuôi các loài tảo làm thức ăn (Dunaliella salina, vi tảo khác), thức ăn bổ sung (cám gạo...); Quản lý sinh thái – vi sinh: tối ưu mật độ, chu kỳ thu hoạch, điều chỉnh độ mặn và sản xuất ổn định thức ăn tự nhiên.
- Quy hoạch – chính sách: Quy hoạch vùng nuôi gắn với sản xuất muối (Ninh Thuận, Bình Thuận, Sóc Trăng, Bạc Liêu); Ban hành chiến lược quốc gia, đưa Artemia vào quy hoạch thủy sản – muối biển; Hỗ trợ hạ tầng
(cải tạo ao nuôi chuyên, ao nuôi kết hợp sản xuất muối, hệ thống cấp thoát nước) và Chính sách tín dụng, bảo hiểm cho hộ nuôi và hợp tác xã.
- Tổ chức sản xuất – liên kết: Mô hình liên kết 4 nhà (khoa học – quản lý – doanh nghiệp – ngư dân); Phát triển hợp tác xã/tổ hợp tác Artemia để sản xuất tập trung và kết hợp mục tiêu kép: xen canh muối – Artemia, nuôi thâm canh chuyên biệt.
- Thị trường – thương mại: Phát triển thị trường nội địa cho ngành tôm giống và thủy sản; Xây dựng thương hiệu quốc gia “Artemia Việt Nam”, hướng tới xuất khẩu và chuẩn hóa chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (TCVN, ISO, HACCP).
- Đào tạo – nâng cao năng lực: Tập huấn kỹ thuật cho diêm dân (quản lý độ mặn, dịch hại, thu hoạch – bảo quản); Đầu tư nghiên cứu tại các trường/viện và chuyển giao công nghệ qua dự án khuyến ngư, hội thảo, tài liệu... Để phát triển bền vững nghề nuôi Artemia, Việt Nam cần xác định đây là ngành sản xuất bổ trợ mang tính chiến lược cho sản xuất tôm giống và cá giống cho nuôi biển. Sự phát triển phải dựa trên việc khai thác lợi thế tự nhiên của Ninh Thuận – Bình Thuận, kết hợp với chính sách hỗ trợ phù hợp, ứng dụng công nghệ nuôi thâm canh, và tổ chức sản xuất theo mô hình liên kết. Chỉ khi đồng bộ cả ba trụ cột nghiên cứu – chính sách quy hoạch –thị trường, nghề nuôi Artemia mới có thể phát triển ổn định, đáp ứng nhu cầu trong nước và từng bước hướng tới xuất khẩu.
Nuôi trồng thủy sản
Đồng bằng sông Cửu Long
trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Trong bối cảnh biến đổi khí
hậu ngày càng phức tạp, ngành
thủy sản tại Đồng bằng sông
Cửu Long cần xác định hướng
đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
là vùng sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước, đóng góp khoảng 65% sản lượng nuôi trồng và 60% kim ngạch xuất khẩu. Điều kiện tự nhiên thuận lợi với diện tích trên 1,2 triệu ha có khả năng nuôi trồng, trong đó 750 nghìn ha vùng triều, hệ thống sông ngòi dày đặc và khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong nhiều năm qua, các sản phẩm chủ lực như cá tra, tôm nước lợ đã giúp thủy sản Việt Nam khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển này đối mặt nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn mặn và xâm nhập mặn ngày càng khốc liệt. Hai đợt hạn mặn nghiêm trọng 2015–2016 và 2019–2020 gây thiệt hại lớn cho thủy sản, cho thấy tính dễ tổn thương của hệ sinh thái. Cùng với đó, chất lượng giống chưa ổn định, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp, sản xuất manh mún và thị trường thiếu ổn định khiến hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng. Để có cơ sở khoa học, Viện Kinh tế & Quy hoạch Thủy sản đã triển khai nghiên cứu điều tra thực trạng và xác định
ở ĐBSCL. Từ danh sách 39 loài được đề xuất, nhóm nghiên cứu lựa chọn 12 đối tượng ưu tiên, gồm 6 loài nước mặn/lợ (nghêu, cá bớp, cua biển, sò huyết, hàu, cá kèo) và 6 loài nước ngọt (lươn, cá lóc, cá rô phi, diêu hồng, cá lăng, ếch, chạch chấu). Đây là những loài có giá trị kinh tế, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và tiềm năng phát triển hàng hóa. Kết quả điều tra cho thấy, diện tích và sản lượng nuôi các đối tượng tiềm năng đang có xu hướng tăng. Nghêu/ngao tập trung ở Vĩnh Long, Cà Mau với sản lượng hàng trăm nghìn tấn/năm. Cua biển, sò huyết, hàu được nhiều tỉnh ven biển chọn làm sản phẩm chiến lược. Ở vùng nước ngọt, lươn và cá lóc được phát triển mạnh ở An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang; cá rô phi/diêu hồng trở thành sản phẩm xuất khẩu tiềm năng; trong khi ếch và cá chạch chấu phù hợp quy mô nhỏ lẻ nhưng cho lợi nhuận cao. Nhiều mô hình nuôi mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, lợi nhuận bình quân/hộ đạt từ 200–300 triệu đồng/năm, cao hơn một số
động, nhiều loài vẫn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên; dịch bệnh như đốm trắng, EMS, EHP còn phổ biến; quy mô sản xuất nhỏ lẻ khiến khó tiếp cận thị trường xuất khẩu; và giá bán thiếu ổn định.
Qua phân tích điểm mạnh là lợi thế tự nhiên, đa dạng sinh thái, nhu cầu thị trường. Điểm yếu là chất lượng giống, công nghệ nuôi và quy mô nhỏ; cơ hội là nhu cầu thủy sản toàn cầu gia tăng, các hiệp định thương mại tự do; thách thức là biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe về chất lượng và cạnh tranh quốc tế. Từ các kết quả trên, có thể khẳng định tiềm năng phát triển các đối tượng nuôi tiềm năng ở ĐBSCL là rất lớn. Nhiều diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi hạn mặn có thể chuyển đổi sang nuôi thủy sản kết hợp, vừa thích ứng vừa nâng cao giá trị. Thị trường tiêu thụ trong nước tăng nhanh, thị trường quốc tế rộng mở nếu đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, mở ra khả năng ứng dụng nuôi tuần hoàn, biofloc, quản lý môi trường bằng trí tuệ nhân tạo.
Định hướng đến năm 2030, cần tập trung phát triển nhóm mặn – lợ (cá bớp, cua biển,
nghêu, sò huyết, hàu, cá kèo) và nhóm nước ngọt (lươn, cá lóc, rô phi, lăng, chạch chấu, ếch), hình thành các vùng nuôi tập trung, gắn sản xuất với chế biến và thị trường.
03 nhóm giải pháp ưu tiên gồm: (i) chọn giống, nhân giống nhân tạo, kiểm soát chất lượng; (ii) ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến, tăng cường liên kết sản xuất; (iii) phát triển chế biến, thương hiệu và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Kết quả nghiên cứu cũng đề xuất 03 dự án trọng điểm: Phát triển giống chất lượng cao, phát triển công nghệ nuôi công nghệ cao, và phát triển chế biến – thị trường theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Đây là những dự án mang tính nền tảng, nếu triển khai thành công sẽ tạo động lực lớn cho ngành thủy sản vùng ĐBSCL.
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Thanh Tùng
1. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 về Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 Về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
3. Quyết định 3550/QĐ- BNN- TCTS, ngày 12/8/2021 phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
4. Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản (2022). Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ: Điều tra thực trạng và xác định tiềm năng phát triển nuôi trồng các đối tượng thủy sản tiềm năng vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là “thủ phủ” của tôm và cá tra, mà còn là nơi hội tụ nhiều đối tượng thủy sản tiềm năng khác có thể trở thành mũi nhọn kinh tế trong tương lai. Để khai thác hiệu quả, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân và các viện trường. Phát triển thủy sản theo hướng bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, gắn với chuỗi giá trị và thị trường quốc tế sẽ là con đường để ĐBSCL khẳng định vai trò trung tâm thủy sản của cả nước và vươn ra thế giới.
ĐẠO LUẬT BẢO VỆ THÚ
Đạo luật tiên phong của Hoa Kỳ, ban hành năm 1972, đặt nền móng cho việc bảo tồn dựa trên hệ sinh thái.
Mục tiêu chính
Duy trì sức khỏe và sự ổn định của hệ sinh thái biển, bảo vệ tất cả các loài thú biển.
Lệnh cấm cốt lõi
Cấm săn bắt, quấy rối, bắt giữ, giết hại và buôn bán các loài thú biển cũng như các sản phẩm từ chúng.
Ngăn chặn các loài suy giảm dưới mức quần thể bền vững và thực hiện các biện pháp để phục hồi chúng.
Giảm thiểu tác động
Xây dựng kế hoạch giảm thiểu số lượng động vật biển vô tình bị mắc vào lưới đánh cá thương mại, hướng tới mục tiêu "zero bycatch" (không có đánh bắt không mong muốn).
Vai trò: Cơ quan giám sát độc lập, đưa ra khuyến nghị để đảm bảo luật được thực thi hiệu quả.
Nghiên cứu khoa học
Liên tục thực hiện các báo cáo đánh giá trữ
lượng để theo dõi sức khỏe và xu hướng
của các quần thể.
Hợp tác và Quản lý
Quốc tế: Yêu cầu các quốc gia xuất khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ phải có tiêu chuẩn
bảo vệ tương đương.
Bản địa: Trao quyền cho các cộng đồng
bản địa Alaska trong việc đồng quản lý, bảo tồn và săn bắt tự cung tự cấp.
BIỂN (MMPA) CỦA HOA KỲ
Tầm ảnh hưởng
Các quốc gia phải chứng minh quy trình đánh bắt không gây hại cho thú biển, tương đương tiêu chuẩn Hoa Kỳ.
Với Việt Nam:
Hoa Kỳ chỉ công nhận một phần thủy sản Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn.
Nguy cơ Cấm nhập khẩu: 12 nghề cá khai thác (bao gồm cá ngừ, mực, bạch tuộc, cá thu) bị từ chối công nhận và không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Ước tính thiệt hại Khoảng 200 - 500 triệu USD/năm.
Thời hạn áp dụng: Từ 01/01/2026.
1. Nhiều loại ngư cụ có nguy cơ cao tương tác với thú biển
2. Thiếu cơ chế giám sát và báo cáo đầy đủ các trường hợp khai thác ngoài ý muốn
3. Những biện pháp giảm thiểu chưa chứng minh được hiệu quả theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ
Động thái của Việt Nam
Rà soát, sửa đổi văn bản
quy phạm pháp luật, đồng thời thiết lập một chương trình giám sát nghề cá đủ mạnh.
Xây dựng kế hoạch ứng phó
tổng thể, chuẩn bị kỹ nội dung kỹ thuật để sẵn sàng làm việc với cơ quan chức năng.
Tăng cường kênh đối ngoại, tham vấn phía Hoa Kỳ để làm rõ cơ sở đánh giá, đồng thời tham khảo kinh nghiệm từ những quốc gia đã được công nhận hoàn toàn nhằm hoàn thiện hồ sơ trong giai đoạn tới.
VINAFIS EXPO 2026
Thủy sản Việt Nam vươn mình
Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chấp thuận
chủ trương, giao Hội Thủy
sản Việt Nam (VINAFIS) chủ trì tổ chức
Triển lãm khoa học công nghệ thủy sản
Việt Nam lần thứ I - VINAFIS EXPO 2026.
Sự kiện diễn ra từ ngày 28 - 30/4/2026 tại
Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn (SECC), TP.HCM, với chủ đề “Thủy sản
Việt Nam vươn mình”.
VINAFIS EXPO 2026 là hội chợ triển lãm
đầu tiên bao quát toàn ngành thủy sản, mở ra cơ hội giao lưu, kết nối toàn diện cho các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và quốc tế nằm trong chuỗi giá trị ngành thủy sản, từ khai thác, nuôi trồng, dịch vụ hậu cần nghề cá đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Hội chợ đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của ngành thủy sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững.
Sự kiện quy tụ hơn 200 gian hàng của các tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế, trưng bày những sản phẩm, công nghệ mới và dịch vụ trong nhiều lĩnh vực như: Nuôi trồng, khai thác, chế biến, giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, logistics và thương mại. Đặc biệt, 40% đơn vị tham gia
VINAFIS EXPO 2026 đến từ các nước như: Philippines, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Điều
này khẳng định vị thế ngày càng vững chắc của thủy sản Việt Nam trên bản đồ thế giới. VINAFIS EXPO 2026 sẽ diễn ra nhiều hoạt động quan trọng, trong đó Hội thảo khoa học quốc tế tập trung vào các chủ đề nóng như: Phát triển nuôi biển bền vững, dinh dưỡng và phòng bệnh thủy sản, công nghệ chế biến - bảo quản, logistics, đổi mới sáng tạo trong chuỗi giá trị. Diễn đàn chuyên ngành tôm Việt Nam (VietShrimp Forum) và Hội thảo quốc tế về công nghệ nuôi biển (VinaMarine Aqua) hứa hẹn thu hút đông đảo chuyên gia, doanh nghiệp và nhà quản lý, bà con nông - ngư dân tham dự. Điểm nhấn nổi bật tại VINAFIS EXPO 2026 là chương trình Farmtour. Đây là cơ hội để khách tham quan trải nghiệm thực tế
tại các mô hình nuôi trồng hiện đại ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Longvùng trọng điểm thủy sản của cả nước. Bên cạnh đó, nhằm ghi nhận những đóng góp tích cực cho ngành thủy sản, Ban Tổ chức sẽ long trọng tổ chức lễ trao Giải thưởng “Chất lượng vàng thủy sản Việt Nam - VINAFIS AWARD” cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thủy sản tiêu biểu, có sản phẩm đạt chuẩn chất lượng cao, thân thiện môi trường và mang lại giá trị kinh tế - xã hội thiết thực. Ban Tổ chức
Uni-President
VN mang đến giải pháp toàn diện - kiến tạo vụ mùa tươi sáng
Trong vài năm trở lại đây, nghề
nuôi tôm tại Việt Nam không
còn là công việc “ăn chắc” như
trước. Thời tiết biến đổi thất
thường, mưa bão dồn dập khiến
môi trường ao nuôi thay đổi khó
lường. Trên bối cảnh đó, các dịch
bệnh như vi bào tử trùng (EHP),
hoại tử gan tụy cấp (TPD) hay
bệnh phân trắng liên tục xuất
hiện, gây thiệt hại nặng nề cho
nhiều vùng nuôi trọng điểm.
Theo Cục Thú y, năm 2024 có khoảng 4.100 ha tôm nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh. Bước sang 2025, dịch bệnh tiếp tục ảnh hưởng đến hàng trăm hécta nuôi tôm, mà đặc biệt tại các tỉnh như Sóc Trăng, Quảng Nam, Trà Vinh. Điều này
đồng nghĩa với hàng loạt hộ nuôi mất trắng, chịu áp lực kinh tế lẫn tâm lý. Không ít bà con chia sẻ: “Mỗi lần bước vào vụ mới, lo nhiều hơn mừng”.
Trong bối cảnh khó khăn đó, việc tìm kiếm một giải pháp tổng thể, vừa phòng bệnh hiệu quả, vừa ổn định năng suất là điều bà con mong mỏi. Và đó cũng chính là lý do UniPresident VN đã dành nhiều năm nghiên cứu
để đưa ra các quy trình hỗ trợ phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam.
Hiểu đúng về những “kẻ thù” thầm lặng
EHP (Vi bào tử trùng): phổ biến tại nhiều vùng nuôi trọng điểm, thường bùng phát giữa đến cuối vụ nuôi, khiến tôm tăng trưởng chậm, đàn không đồng đều, vỏ sần sùi, ruột ít thức ăn và kéo dài thời gian nuôi, làm giảm năng suất cũng như giá trị thương phẩm.
TPD (Hoại tử gan tụy cấp): hay được gọi là “cơn bão đầu vụ”, thường xảy ra trong 30
ngày đầu sau khi thả giống, khiến tôm bơi lờ đờ, sắc tố kém, gan tụy nhợt nhạt, cơ thể trong suốt, đường ruột rỗng và dẫn đến chết nhanh với tỷ lệ hao hụt cao, làm nhiều hộ nuôi mất trắng.
Bệnh phân trắng: xuất hiện phổ biến ở nhiều ao nuôi, đặc biệt khi tôm đạt DOC 40 –60 trở đi, làm đường ruột đứt khúc, phân lỏng hoặc hai màu, tôm giảm ăn rõ rệt và kéo theo tình trạng còi cọc, chu kỳ nuôi kéo dài, chi phí tăng trong khi lợi nhuận giảm.
Đây không chỉ là những cái tên quen thuộc trong các buổi tập huấn, mà còn là nỗi ám ảnh hằng ngày của người nuôi. Bởi vậy, UniPresident không tiếp cận theo hướng “điều trị sau khi phát bệnh”, mà tập trung phòng ngừa - kiểm soát - hỗ trợ sức khỏe tổng thể cho tôm.
Giải pháp toàn diện của Uni-President Hiểu rõ những khó khăn ấy, Uni-President không chỉ là nhà cung cấp mà còn là người bạn đồng hành mang đến những giải pháp toàn diện. Uni-President giúp người nuôi tôm từ thế bị động sang chủ động, nắm quyền kiểm soát và biến những rủi ro thành cơ hội thành công.
Với mỗi “kẻ thù”, Uni-President đều có một “lộ trình” đối phó khoa học nhưng lại rất dễ áp dụng.
Công ty xây dựng đội ngũ chuyên gia kỹ thuật tận tâm, thường xuyên xuống ao hướng dẫn, tư vấn trực tiếp, giải đáp vướng mắc cho bà con.
Bên cạnh đó, bộ phận nghiên cứu liên tục cải tiến quy trình phòng trị bệnh, giúp bà con luôn có giải pháp mới, phù hợp với từng giai đoạn.
Chính sự kết hợp giữa khoa học - công nghệ - thực tiễn này đã khiến Uni-President trở thành một trong những thương hiệu được người nuôi thủy sản tin tưởng nhất hiện nay. Đội ngũ nhân viên tận tâm và những sản phẩm chất lượng cao là một trong những lý do tạo nên sự thành công của Uni-President
Ngành tôm Việt Nam còn nhiều gian nan và thách thức, nhưng với sự hỗ trợ từ những giải pháp khoa học toàn diện và sự đồng hành tận tâm của Uni-President, bà con hoàn toàn có thể yên tâm vượt khó, hướng tới những vụ mùa thành công hơn.
Để tìm hiểu thêm về các giải pháp và quy trình nuôi tôm hiệu quả, bà con có thể liên hệ với đội ngũ nhân viên Uni-President qua số HotLine 02743.732.723, hệ thống đại lý trên toàn quốc, hoặc gửi tin nhắn trực tiếp qua Fanpage chính thức trên Facebook, để được lắng nghe và hỗ trợ trong thời gian sớm nhất. Uni-President - Luôn đồng hành và hỗ trợ quý khách.
Uni-President
Tôm được nuôi theo Quy trình phòng TPD từ giai đoạn
Tôm trước và sau khi điều trị bệnh phân trắng theo Quy trình của Uni-President
Màu nước chuẩn
Giải pháp bền vững cho ao tôm khỏe
Trong nuôi tôm thâm canh và siêu
thâm canh, màu nước ao nuôi không chỉ là yếu tố thẩm mỹ mà còn là “chỉ số sức khỏe” của cả hệ sinh thái ao. Màu nước ổn định phản ánh sự cân bằng vi sinh – tảo có lợi, giúp tạo nguồn thức ăn tự nhiên, bảo vệ tôm khỏi tác động môi trường và hạn chế bệnh tật. Ngược lại, ao khó lên màu, thường xuyên thay nước hoặc màu nước biến động liên tục là dấu hiệu mất cân bằng sinh thái, khiến tôm dễ bị sốc và nhiễm bệnh.
Để giúp người nuôi giải quyết bài toán này, Sitto Việt Nam đã nghiên cứu và phát triển Sitto Aqua Tone – chế phẩm sinh học chuyên biệt tạo màu nước chuẩn, mang đến giải pháp toàn diện và an toàn cho người nuôi.
Sitto Aqua Tone có ưu điểm kỹ thuật vượt trội
1. Tạo màu nhanh – duy trì bền vững: Chỉ sau 2–3 ngày sử dụng, Sitto Aqua Tone giúp ao đạt màu trà tự nhiên, ổn định liên tục trên 15 ngày, đặc biệt phù hợp với ao khó gây màu hoặc thay nước thường xuyên.
2. Ổn định hệ sinh thái ao nuôi: Sản phẩm cung cấp mầm tảo, duy trì hệ tảo có lợi phát triển bền vững, từ đó tạo nguồn thức ăn tự
nhiên giàu dinh dưỡng cho tôm, hỗ trợ tăng trưởng nhanh và khỏe mạnh.
3. Giảm stress cho tôm: Màu nước trà giúp giảm cường độ ánh sáng chiếu thẳng xuống đáy ao – nguyên nhân gây căng thẳng, làm tôm yếu sức. Khi được “che chắn” bởi lớp màu nước ổn định, tôm ít bị sốc môi trường, khả năng đề kháng được cải thiện.
4. An toàn tuyệt đối: Không chứa hóa chất độc hại, Sitto Aqua Tone an toàn cho tôm, hệ vi sinh và môi trường, không gây tồn dư. Đây là lựa chọn bền vững cho người nuôi hướng tới sản phẩm tôm an toàn, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu.
5. Kích thích vi sinh phát triển: Ngoài việc tạo màu, chế phẩm còn thúc đẩy hệ vi sinh có lợi, giúp phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa, hạn chế phát sinh khí độc (NH 3 , H 2 S). Nhờ đó, chất lượng nước được cải thiện rõ rệt, giảm rủi ro bệnh tật trong suốt vụ nuôi.
Cách dùng rất đơn giản
- Trước khi thả tôm: 1 gói cho 2.000 m³ nước, liên tục 2–3 ngày để gây màu.
- Trong quá trình nuôi: 1 gói cho 2.000 m³
nước, định kỳ 10–15 ngày/lần để giữ màu ổn
định.
- Lưu ý: Không dùng chung với hóa chất, chất diệt khuẩn. Nếu ao khó lên màu, bà con nên kiểm tra pH, độ kiềm, ôxy và khí độc trước khi xử lý. Đồng thời, tránh để dư nhiều thức ăn, vì đây là nguyên nhân dễ làm nước xấu và tảo độc bùng phát.
Đồng hành cùng người nuôi tôm
Sitto Aqua Tone không chỉ là sản phẩm mà còn là công cụ giúp người nuôi chủ động kiểm soát màu nước, ổn định hệ sinh thái ao nuôi, giảm thiểu rủi ro. Song song đó, Sitto Việt Nam cung cấp dịch vụ tư vấn kỹ thuật miễn phí, luôn sẵn sàng hỗ trợ bà con trong suốt vụ nuôi.
Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong ngành, Sitto cam kết mang đến giải pháp sinh học an toàn – hiệu quả – bền vững, giúp tối ưu chi phí, gia tăng lợi nhuận, và hướng đến một ngành tôm phát triển xanh, sạch, bền vững. Sitto Aqua Tone – Màu nước chuẩn cho tôm khỏe!
Phòng kỹ thuật Công ty Sitto Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu cá rô phi 8 tháng đầu năm 2025
đạt hơn 63 triệu USD
Theo số liệu Hải quan Việt Nam, 8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu cá rô phi (gồm cả cá diêu hồng) đạt hơn 63 triệu USD, tăng 174% so với cùng kỳ năm 2024 và vượt kim ngạch của cả 5 năm gần nhất. Trong đó, cá diêu hồng đạt 11 triệu USD, giảm 1%, riêng Mỹ chiếm 25% tỷ trọng; cá rô phi đạt 52 triệu USD, tăng tới 359%, với 70% giá trị đến từ Mỹ. Mỹ hiện là thị trường nhập khẩu cá rô phi lớn nhất của Việt Nam, chiếm 62% tổng kim ngạch. Theo ITC, Mỹ cũng là quốc gia tiêu thụ cá rô phi nhiều nhất thế giới, trong khi Trung Quốc giữ vai trò nhà cung ứng lớn nhất. Tính đến tháng 7/2025, cá rô phi đã vượt cá tuyết và cá da trơn, trở thành loài cá thịt trắng được ưa chuộng nhất tại Mỹ; riêng sản phẩm phi lê cá rô phi đông lạnh (HS 030461) Mỹ nhập khẩu 262 triệu USD, tăng 19%, chiếm 23% tổng nhập khẩu cá thịt trắng. Việt Nam hiện là nguồn cung lớn thứ 2 sản phẩm này cho Mỹ, sau Trung Quốc, cho thấy dư địa tăng trưởng vẫn còn rộng.
Giá nguyên liệu thủy sản biến động trái chiều
phương
Cuối tháng 9/2025, giá thủy sản nguyên liệu tại các vùng trọng điểm có diễn biến trái chiều. Tại Phú Yên, giá tôm sú ổn định với mức 220.000 đồng/kg loại 50 con, 250.000 đồng/kg loại 40 con và khoảng 300.000 đồng/kg loại 30 con; trong khi tôm thẻ 100 con/kg giảm 3.000 đồng, còn 102.000 đồng/kg. Ở Cà Mau, giá tôm sú giảm nhẹ: loại 20 con/kg còn 275.000 đồng/kg, loại 30 con/kg còn 160.000 đồng/kg, cùng giảm 5.000 đồng; riêng tôm thẻ 20 con/kg giữ ở mức 250.000 đồng/kg. Trái lại, tại Đà Nẵng, giá mực ống tăng: loại 1 (>20cm) lên 220.000 đồng/ kg, loại 2 (<20cm) đạt 190.000 đồng/kg. Ngược lại, cá thu loại 2 giảm còn 160.000 đồng/kg, cá ngừ loại 1 và 2 cùng hạ 10.000 đồng, xuống 70.000 đồng/kg và 40.000 đồng/kg. Theo nhận định, sự chênh lệch này do khác biệt về nguồn cung, nhu cầu tiêu thụ và tác động của thời tiết. Dự báo, giá thủy sản sẽ còn biến động trong những tháng cuối năm khi xuất khẩu tăng tốc và mùa khai thác bước vào giai đoạn cao điểm.
Cao Bằng
Giá cá tăng nhẹ do ảnh hưởng mưa lũ
Thời gian gần đây, do ảnh hưởng của mưa lớn và lũ trên lưu vực sông, thị trường cá tại tỉnh Cao Bằng ghi nhận xu hướng tăng nhẹ về giá, dù cung ứng vẫn tương đối ổn định. Tại các chợ dân sinh và chợ đầu mối, cá rô phi, cá trắm, cá chép đều điều chỉnh tăng khoảng 5 - 10% so với trước đây, tùy loại và kích cỡ. Nguyên nhân chính là các vùng nuôi cá ngập lụt, thiệt hại cơ sở hạ tầng, chi phí vận chuyển tăng, khiến nguồn hàng từ các vùng lân cận đổ về chậm hơn. Mặc dù vậy, các tiểu thương nhận định mức tăng chưa mạnh do nhiều hộ nuôi vẫn đảm bảo được sản lượng; các trại cá ít bị thiệt hại nặng đã tiếp tục cung cấp hàng. Khách hàng chủ yếu là người dân địa phương, nhu cầu ăn cá tươi vẫn ổn định trong mùa mưa. Các đơn vị thu mua và tiểu thương cũng chủ động điều chỉnh lượng nhập phù hợp để tránh tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt đột ngột. Nhìn chung, giá cá tại Cao Bằng trong giai đoạn này có xu hướng tăng nhẹ nhưng vẫn trong tầm kiểm soát, chưa xảy ra hiện tượng sốc giá.
Hải Phòng
Giá ếch thương phẩm ổn định
Tại Hải Phòng, mô hình nuôi ghép ếch trên lồng nổi kết hợp cá rô phi dưới ao đang cho thấy hiệu quả rõ rệt, đặc biệt nhờ mức giá ổn định của ếch thương phẩm. Hiện giá bán ếch dao động 55.000 – 60.000 đồng/kg, được nhiều doanh nghiệp, nhà hàng và cửa hàng nông sản sạch bao tiêu, giúp người nuôi yên tâm sản xuất, tránh rủi ro “được mùa mất giá”. Điểm nổi bật của mô hình là sự liên kết giữa ếch và cá rô phi: thức ăn thừa, chất thải từ ếch trở thành nguồn dinh dưỡng cho cá, trong khi cá đóng vai trò “máy lọc sinh học”, duy trì chất lượng nước ao. Nhờ đó, chi phí thức ăn giảm đáng kể, môi trường nuôi được đảm bảo, cả ếch và cá đều phát triển tốt. Với 780 m² lồng nuôi trên mỗi hécta ao, người dân có thể đạt doanh thu khoảng 250 triệu đồng/vụ, cao gấp đôi so với nuôi đơn canh. Giá bán ổn định cùng hiệu quả sản xuất giúp mô hình này trở thành hướng đi tiềm năng cho thủy sản bền vững, đồng thời khẳng định ếch thương phẩm đang có vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường.
Ninh Bình
Ngao, sò dạt bờ, thương lái thu mua 8.000 đồng/kg
Sau bão số 10, bãi biển xã Hải Xuân (Ninh Bình) phủ trắng bởi ngao, sò bị sóng đánh dạt vào bờ, tạo nên cảnh tượng hiếm gặp. Tối 30/9, hàng trăm người dân địa phương đã đổ xô ra bãi biển nhặt “lộc biển” kéo dài khoảng 1 km, mang theo bao tải, rổ rá và các dụng cụ để gom hải sản. Nhờ số lượng dồi dào, trung bình mỗi người có thể thu được từ 40 – 50 kg ngao, sò chỉ trong vài giờ. Điểm đáng chú ý là ngay tại bãi biển, thương lái đã có mặt thu mua trực tiếp với giá khoảng 8.000 đồng/kg. Với sản lượng lớn, nhiều người dân tranh thủ bán ngay, mang về vài trăm nghìn đồng trong đêm. Mặc dù mức giá này không cao so với ngao nuôi thương phẩm, nhưng trong bối cảnh “lộc biển” xuất hiện bất ngờ, nguồn thu nhập này được xem là đáng kể. Các tiểu thương cho biết ngao, sò còn sống, chất lượng khá tốt, có thể cung ứng ngay cho thị trường địa phương.
Gia Lai
Ngư dân trúng mùa cá sọc, cá bò
Những ngày qua, cảng Quy Nhơn (tỉnh Gia Lai) trở nên tấp nập khi hàng loạt tàu cá đồng loạt cập bến, mang về hàng chục tấn cá sọc và cá bò sau nhiều tuần vươn khơi. Nhờ thời tiết thuận lợi, ngư dân không chỉ bội thu sản lượng mà còn được giá, khiến không khí buôn bán thêm phần sôi động. Hiện cá sọc dưa và cá bò đang được thương lái thu mua với giá khoảng 25.000 đồng/kg, mức giá ổn định và đảm bảo lợi nhuận cao. Nhiều chuyến biển ghi nhận sản lượng lên đến hàng chục tấn, sau khi trừ chi phí, ngư dân vẫn có thu nhập rủng rỉnh. Mùa cá sọc – cá bò kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, vì vậy các tàu tranh thủ bán nhanh để tiếp tục chuẩn bị cho chuyến vươn khơi mới. Với sản lượng dồi dào, giá thu mua khả quan và đầu ra thuận lợi, mùa biển năm nay được xem là “trúng lớn”, mang lại niềm vui và nguồn thu ổn định cho bà con.
Lan Khuê
Na Uy
Giá cá thu xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng gấp đôi
Giá cá thu đông lạnh của Na Uy xuất khẩu sang Hàn Quốc đã tăng gấp đôi chỉ trong vòng một năm, lập mức kỷ lục mới do nhu cầu bùng nổ tại châu Á và nguồn cung toàn cầu ngày càng thắt chặt. Theo Union Forsea Corp., giá xuất khẩu bình quân đã từ 2,26 USD/ kg (9/2024) vọt lên 4,35 USD/kg (9/2025) vì tình trạng mất cân đối cung - cầu nghiêm trọng. Trong 7 tháng đầu năm 2025, Hàn Quốc nhập khẩu 39.292 tấn cá thu đông lạnh, tăng 54% so với cùng kỳ năm trước; riêng tháng 7, mức nhập khẩu bùng nổ tới 539%. Sự sụt giảm mạnh nguồn cung trong nước những năm gần đây khiến Seoul ngày càng phụ thuộc vào nhập khẩu. Trên phạm vi toàn cầu, giá cá thu cũng leo thang khi EU, Anh và Na Uy đồng loạt cắt giảm hạn ngạch khai thác năm 2025 để bảo vệ nguồn lợi. Tại thị trường Hàn Quốc, giá bán sỉ thùng 20 kg cá thu Na Uy đã tăng từ 100.000 KRW lên 130.000 KRW chỉ trong ba tuần.
Mỹ
Thị trường cá rô phi tại Mỹ đang đối mặt áp lực kép từ nhu cầu tiêu thụ chậm, tồn kho lớn và chính sách thuế quan phức tạp. Trong tuần 37 (8-14/9/2025), giá phi lê đông lạnh nhập từ Trung Quốc tiếp tục giảm 0,10 USD/pound ở mọi cỡ, chỉ còn 2,85–3,05 USD/pound. Thuế nhập khẩu lên tới 55% kéo dài đến ngày 29/11, cộng thêm cảnh báo chất lượng từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), khiến triển vọng phục hồi giá trước mùa Giáng sinh trở nên mờ nhạt. Bên cạnh đó, việc Washington áp thuế 50% với cá rô phi Brazil từ tháng 8/2025 đã làm lung lay nguồn cung cá tươi sống - vốn chiếm tới 35% thị phần, với kim ngạch hơn 52 triệu USD năm 2024. Khoảng trống này khó có thể lấp đầy trong ngắn hạn, đẩy doanh nghiệp Mỹ vào thế mất lợi thế cạnh tranh so với thịt gà, thịt heo và gây tác động dây chuyền lên toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu. Với thuế quan chồng chéo và nhu cầu suy yếu, thị trường cá rô phi Mỹ bước vào giai đoạn bất ổn kéo dài.
Trung Quốc
Giá cá rô phi chạm đáy vì dư cung
Trong tuần 38 (15-21/9/2025), giá cá rô phi tại các trang trại miền Nam Trung Quốc tiếp tục giảm 0,20 CNY/kg, xuống mức thấp kỷ lục.
Tại Quảng Đông, giá cá 500-800 g giao nhà máy lao dốc, buộc nông dân phải bán tháo ra thị trường truyền thống. Ở Hải Nam, giá thu mua chỉ còn 7,20 CNY/kg, còn Quảng Tây cũng duy trì mức tương tự. Nguyên nhân chính là tình trạng dư cung kéo dài từ tháng 7, trong khi xuất khẩu sang Mỹ vẫn chững lại. Các nhà máy chế biến tồn kho cao, hạn chế mua thêm, khiến nhiều hộ nuôi phải bán cho đại lý với giá thấp, có nơi chỉ còn 6,60 CNY/kg. Những biện pháp kích cầu nội địa, như đưa cá rô phi vào bữa ăn học đường, mới dừng ở mức tượng trưng, chưa đủ sức xoay chuyển thị trường. Cùng lúc tại Mỹ, giá bán buôn phi lê rô phi đông lạnh cũng giảm thêm 0,10 USD/pound ở tất cả các cỡ. Xu hướng giảm giá dự báo còn kéo dài, gây áp lực nặng nề lên lợi nhuận của người nuôi và doanh nghiệp chế biến Trung Quốc.
Ấn Độ
Xuất khẩu tôm
sang Trung Quốc sau “cú sốc” thuế Mỹ
Sau khi Mỹ áp thuế 50% khiến tôm Ấn Độ mất lợi thế cạnh tranh trước Ecuador, Việt Nam và Indonesia, các nhà xuất khẩu Ấn Độ đang nhanh chóng chuyển hướng sang Trung Quốc. Với nhu cầu nội địa khổng lồ và hợp đồng bao tiêu dài hạn, Trung Quốc nổi lên như thị trường đầy tiềm năng, thậm chí được dự báo có thể vượt Mỹ để trở thành khách hàng số một của tôm Ấn Độ trong tương lai gần. Theo Bộ Thương mại Ấn Độ, trong năm tài khóa 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 7,39 tỷ USD, trong đó 36% sang Mỹ. Tuy nhiên, từ tháng 5 đến tháng 8, xuất khẩu tôm sang Mỹ sụt gần 44%, kéo theo tình trạng mất việc hàng loạt tại các cụm chế biến ven biển. Trước áp lực này, doanh nghiệp Ấn Độ không chỉ tăng cường bán sang Trung Quốc mà còn mở rộng thị trường sang EU, UAE, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga. Đáng chú ý, EU vừa phê duyệt thêm 102 cơ sở chế biến của Ấn Độ, mở ra cơ hội lớn để quốc gia Nam Á này củng cố vị thế tại thị trường tôm lớn thứ ba thế giới.
Nhật Bản Nhập khẩu cá tuyết đông lạnh sụt giảm, giá lập kỷ lục
Từ tháng 1 đến tháng 7/2025, Nhật Bản chỉ nhập khẩu 690 tấn cá tuyết đông lạnh, giảm tới 67% so với cùng kỳ năm trước do sản lượng toàn cầu khan hiếm. Trong đó, 262 tấn đến từ Mỹ (giảm 44%) với giá trung bình 828 yên/kg (5,6 USD), tăng 16%; còn 427 tấn từ Nga (giảm 74%) với giá 864 yên/kg (5,84 USD), tăng tới 45%. Khoảng cách giá giữa cá tuyết Mỹ vốn nổi tiếng chất lượng và cá tuyết Nga được ưa chuộng nhờ giá rẻ tiếp tục thu hẹp, theo Minato Shimbun. Trước năm 2017, Nhật Bản nhập bình quân 15.000 tấn cá tuyết Mỹ/năm; giai đoạn 2018-2021 duy trì quanh mức 10.000 tấn, nhưng từ 2022 giảm mạnh còn khoảng 5.000 tấn. Từ 2021, nguồn cung dần dịch chuyển sang Nga do Mỹ ưu tiên xuất khẩu sang châu Âu và thị trường nội địa, cộng thêm tác động của đồng yên yếu. Cá tuyết Nga, vốn rẻ hơn khoảng 100 yên/kg, nhanh chóng trở thành lựa chọn thay thế. Hiện giá cá tuyết nhập khẩu tại Nhật Bản đã lên mức cao nhất từ trước tới nay, đặt ra thách thức lớn trong việc duy trì nguồn cung ổn định cho thị trường.
Bangladesh
Tôm sú Khulna đặt mục tiêu xuất khẩu 1,9 tỷ USD
Từng được mệnh danh là “vàng trắng” của tây nam Bangladesh, tôm sú Khulna nhiều năm qua lao đao vì cạnh tranh gay gắt và sự trỗi dậy của tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, ngành này đang dần khởi sắc nhờ các biện pháp hỗ trợ từ Cục Thủy sản nhằm nâng cao sản xuất và chất lượng. Theo Cục Xúc tiến Xuất khẩu, 5 năm qua Khulna xuất khẩu tôm trị giá khoảng 957 triệu USD; mục tiêu mới là gấp đôi, đạt 1,9 tỷ USD trong 5 năm tới. Riêng năm tài chính 2024–2025, địa phương sản xuất hơn 123.000 tấn tôm, trong đó 19.500 tấn dành cho xuất khẩu, thu về gần 212 triệu USD. Dù còn đối mặt dịch bệnh, chi phí cao và nhu cầu châu Âu suy giảm, xuất khẩu tôm Khulna đã cho thấy dấu hiệu phục hồi. Giới chuyên môn tin rằng với chính sách ổn định, “vàng trắng” sẽ sớm lấy lại vị thế và mở rộng thị trường quốc tế.
Tuấn Minh
MMPA và nghề cá toàn cầu
THÁCH THỨC HAY
Đạo Luật bảo vệ động vật có vú biển (MMPA) của Mỹ đã vượt ra ngoài biên giới, tạo sức ép lớn lên thương mại thủy sản toàn cầu. Nhiều quốc gia buộc phải đổi mới quản lý và khai thác nếu muốn giữ chỗ đứng tại thị trường Mỹ.
Hàng rào kỹ thuật khắt khe
Được ban hành năm 1972, Marine Mammal Protection Act (MMPA) là một trong những đạo luật tiên phong của Mỹ về bảo vệ sinh vật biển. Mục tiêu của đạo luật là ngăn chặn việc săn bắt, giết hại hoặc gây tổn hại đến các loài động vật có vú biển như cá voi, cá heo, hải cẩu, sư tử biển và lợn biển. Điểm nổi bật của MMPA là không chỉ áp dụng trong phạm vi lãnh thổ Mỹ, mà còn có hiệu lực gián tiếp đối với các quốc gia xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ.
Trong những thập kỷ đầu, MMPA chủ yếu tập trung vào việc quản lý các hoạt động đánh bắt và khai thác trong vùng biển của Mỹ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, đạo luật đã được sửa đổi và mở rộng phạm vi áp dụng. Đặc biệt, năm 2016, Cơ quan nghề cá, thuộc Cục quản lý Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ (NOAA Fisheries) ban hành quy định mới yêu cầu tất cả các quốc gia muốn xuất khẩu hải sản vào Mỹ phải chứng minh rằng hoạt động khai thác của họ có mức độ tác
động đến động vật có vú biển tương đương với tiêu chuẩn của Mỹ. Đây chính là điểm
mấu chốt khiến MMPA trở thành một trong những hàng rào kỹ thuật khắt khe nhất đối với thương mại thủy sản quốc tế.
Cuộc sàng lọc khắc nghiệt Mỹ hiện là một trong ba thị trường nhập
khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, với kim
ngạch hàng chục tỷ USD mỗi năm. Đối với nhiều quốc gia, Mỹ chiếm từ 15-30% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là với các sản phẩm cá ngừ, mực, bạch tuộc và tôm. Vì vậy, bất kỳ thay đổi nào trong quy định nhập khẩu của Mỹ đều có tác động lan tỏa lớn. Việc áp dụng MMPA đồng nghĩa rằng mọi quốc gia xuất khẩu vào Mỹ đều phải đáp ứng chuẩn mực bảo vệ động vật có vú biển, bao gồm việc giám sát nghề cá, ghi nhận các vụ mắc cạn hoặc gây chết động vật biển, và áp dụng biện pháp giảm thiểu. Nếu không chứng minh được sự tương đồng trong quản lý, các sản phẩm từ nghề cá đó sẽ bị cấm nhập khẩu.
Đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất chính là các nghề cá sử dụng ngư cụ dễ gây vướng mắc, điển hình như lưới rê, lưới vây, lưới kéo đáy. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đây là ngư cụ phổ biến, chi phí thấp nhưng lại có
nguy cơ cao khiến cá heo, cá voi hay rái cá bị mắc kẹt và chết. Hệ quả là các doanh nghiệp xuất khẩu và ngư dân buộc phải thay đổi phương thức sản xuất. Họ phải đầu tư vào ngư cụ cải tiến, ví dụ như lưới có thiết bị thoát cá heo, hay áp dụng biện pháp quan sát viên độc lập trên tàu để ghi nhận tương tác. Điều này làm tăng đáng kể chi phí đánh bắt, trong khi lợi nhuận không phải lúc nào cũng đủ bù đắp.
này giúp họ dần khôi phục uy tín trên thị trường quốc tế, dù vẫn còn nhiều khó khăn.
Đối với nhiều quốc gia, Mỹ là thị trường chiến lược. Một khi không đạt được yếu tố tương đồng, tức xác nhận rằng nghề cá của họ đáp ứng yêu cầu của MMPA, thì toàn bộ
lô hàng có thể bị từ chối. Đây là một rủi ro rất
lớn, bởi chỉ cần một nghề cá cụ thể không
đạt chuẩn, sản phẩm từ nghề cá đó sẽ không
được nhập khẩu, ảnh hưởng trực tiếp đến
sinh kế hàng trăm nghìn ngư dân.
Trường hợp Mexico là ví dụ điển hình.
Nghề cá ngừ vây vàng của nước này từng bị cấm nhập khẩu vào Mỹ do gây chết nhiều cá heo. Vụ việc kéo dài nhiều năm và thậm chí
trở thành tranh chấp thương mại tại Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), nổi tiếng với tên gọi “Tuna-Dolphin Dispute”.
Tại Đông Nam Á, các quốc gia phụ thuộc lớn vào xuất khẩu cá ngừ, mực và các loài cá nổi như Indonesia, Philippines và Thái
Lan cũng đang đối mặt với thách thức lớn. Họ buộc phải thay đổi hệ thống quản lý nghề cá, tăng cường giám sát và báo cáo để tránh nguy cơ bị Mỹ áp đặt lệnh cấm.
Không đổi mới, mất thị trường
Sau khi bị Mỹ cấm nhập khẩu cá ngừ vì lo ngại gây chết cá heo, Mexico đã trải qua nhiều năm tranh chấp pháp lý. Mặc dù nước này từng thắng kiện tại WTO, song thực tế thị trường
Mỹ vẫn tiếp tục áp dụng hạn chế. Theo Cơ quan nghề cá và nuôi trồng thủy sản Mexico (CONAPESCA), vụ kiện “Tuna-Dolphin Dispute” đã giúp Mexico rút ra bài học cần chủ động cải tiến kỹ thuật đánh bắt để giảm thiểu tác động thay vì chỉ dựa vào tranh chấp thương mại. Mexico sau đó đã triển khai các biện pháp giám sát chặt chẽ hơn, yêu cầu tàu cá có quan sát viên độc lập và áp dụng công nghệ lưới thân thiện với động vật biển. Điều này giúp họ dần khôi phục uy tín trên thị trường quốc tế, dù vẫn còn nhiều khó khăn. Tại Nam Mỹ, những quốc gia có sản lượng khai thác cá cơm và cá ngừ lớn như Chile và Peru đã tăng cường hệ thống giám sát nghề cá công nghiệp. Họ áp dụng cơ chế quan sát viên trên tàu cũng như giám sát điện tử bằng camera để ghi nhận các vụ việc liên quan đến động vật có vú biển. Đồng thời, các chương trình nghiên cứu được triển khai để đánh giá mức độ tương tác và tìm biện pháp giảm thiểu. Nhờ vậy, các cơ quan quản lý có thể cung cấp số liệu minh bạch cho NOAA, đáp ứng yêu cầu về yếu tố tương đồng. Ở Đông Nam Á, Indonesia và Philippines là hai quốc gia có đội tàu khai thác cá ngừ lớn nhất khu vực. Để ứng phó với MMPA, họ tham gia các sáng kiến khu vực như Chương trình Cá ngừ Đại dương (Western and Central Pacific Fisheries Commission – WCPFC), đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc tế để cải thiện ngư cụ và hệ thống giám sát. Các dự án thí điểm đã được triển khai nhằm áp dụng công nghệ lưới an toàn, gắn thiết bị theo dõi và huấn luyện ngư dân nhận diện, xử lý khi động vật có vú biển mắc cạn. Nhờ đó, dữ liệu thu thập được ngày càng đầy đủ hơn, tăng cơ hội đạt yêu cầu của Mỹ. Theo nhiều chuyên gia, với các quốc gia xuất khẩu, MMPA vừa là thách thức, vừa là động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi nghề cá theo hướng bền vững. Những bài học từ Mexico, Chile, hay Indonesia cho thấy: chỉ có sự cải thiện quản lý, minh bạch dữ liệu và đổi mới công nghệ mới giúp nghề cá đáp ứng được yêu cầu. Trong dài hạn, việc tuân thủ MMPA không chỉ để duy trì thị trường Mỹ, mà còn góp phần xây dựng hình ảnh nghề cá bền vững, có trách nhiệm – yếu tố ngày càng quan trọng trong thương mại thủy sản toàn cầu.
Công nghệ Nano Bubbles
Giải pháp Ôxy & Ozone toàn diện cho ao tôm sạch khỏe
Trong nuôi tôm hiện đại, việc kiểm soát chất lượng nước là yếu tố then chốt quyết định năng suất và sức khỏe của tôm. Một trong những công nghệ tiên tiến và hiệu quả nhất hiện nay chính là Nano Bubbles –công nghệ tạo ra các bọt khí siêu nhỏ kết hợp với ôxy tinh khiết và ozone để cải thiện môi trường ao nuôi một cách toàn diện.
Các hạt nano bubble có kích thước cực nhỏ, khoảng 200 nanomet, có khả năng tồn tại trong nước lâu hơn rất nhiều so với bọt khí thông thường. Khi kết hợp với ôxy, các bọt khí này giúp tăng mạnh lượng ôxy hòa tan (DO) trong nước, duy trì ổn định cả ngày lẫn đêm. Nhờ đó, tôm hô hấp tốt hơn, ăn khỏe hơn, giảm stress và tăng tốc độ tăng trưởng. Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp ôxy, công nghệ Nano
Bubbles còn có thể kết hợp với
ozone – một chất ôxy hóa mạnh
có khả năng diệt khuẩn, khử mùi và phân hủy các hợp chất hữu cơ
có hại. Khi ozone được đưa vào dưới dạng nano bubble, hiệu quả khử khuẩn tăng lên gấp nhiều
lần nhờ khả năng phân tán đều và tiếp xúc sâu trong nước. Công
nghệ này giúp loại bỏ vi khuẩn gây bệnh, nấm và tảo độc, giữ cho môi trường ao luôn sạch, trong và an toàn cho tôm.
Sự kết hợp giữa ôxy và ozone trong hệ thống Nano Bubbles mang lại giải pháp kép: vừa tăng cường sức khỏe tôm, vừa bảo vệ môi trường ao nuôi. Người nuôi không cần lạm dụng hóa chất hoặc kháng sinh, giảm chi phí vận hành và hạn chế rủi ro ô nhiễm nguồn nước. Ngoài ra, hệ thống vận hành tự động, tiết kiệm điện năng và dễ bảo trì, phù
hợp với nhiều quy mô trang trại. Có thể nói, Nano Bubbles là bước tiến mới trong công nghệ nuôi trồng thủy sản, mở ra hướng đi bền vững và hiệu quả cho người nuôi tôm. Với khả năng kết hợp ôxy để tăng trưởng và ozone để khử khuẩn, công nghệ này không chỉ giúp tôm khỏe mạnh, lớn nhanh mà còn mang lại môi trường nuôi an toàn, sạch và thân thiện với tự nhiên
CÔNG TY TNHH B.H.N tự hào là đơn vị chuyên cung cấp thiết
Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96
Website: bhnenc.com
Email: bhnenc@gmail.com
bị và giải pháp Nano Bubbles hiện đại cho ngành nuôi trồng thủy sản. Với kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến, B.H.N cam kết mang đến hiệu quả tối ưu, chất lượng nước vượt trội và vụ mùa thành công cho người nuôi tôm.
Nano Bubbles – Giải pháp hiện đại cho vụ nuôi tôm thành công, năng suất vượt trội và phát triển bền vững.
BHN
Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, Đường Nguyễn Hữu Thọ, Xã Nhà Bè, TP.HCM
Xuất khẩu tôm
Khó, nhưng vẫn kịp về đích
9 tháng đầu năm 2025, dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực vượt khó cũng bản lĩnh, kinh nghiệm dày dạn, các doanh nghiệp ngành tôm cũng đã tạo nên giá trị kim ngạch xuất khẩu
3,38 tỷ USD là rất đáng trân trọng.
Tuy nhiên, trước những rào cản thương mại và
cạnh tranh gay gắt, sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo
sẽ là chìa khóa để toàn ngành vừa giữ vững thành quả, vừa mở rộng cơ hội trên các thị trường quốc tế trong thời gian tới.
Theo Hiệp hội Chế biến và
Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), dù diễn biến thị trường hết sức khó khăn, nhưng sau 9 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản cả nước vẫn kịp cán mốc
8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu kim
ngạch xuất khẩu thủy sản trên, xuất khẩu tôm tiếp tục đóng vai trò chủ lực với giá trị kim ngạch xuất khẩu ước đạt 3,38 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ. Con số này không chỉ phản ánh sự hồi phục vững chắc của ngành thủy sản sau nhiều biến động, mà còn cho thấy khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường thế giới tiềm ẩn nhiều rào cản. Cũng theo VASEP, động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ nhu cầu ổn định ở Mỹ, Nhật Bản, EU và sự gia tăng đơn hàng tại các thị trường khu vực.
Thông thường, hợp đồng giao hàng cho nhà nhập khẩu các nước châu Âu hay Bắc Mỹ tập trung mạnh từ giữa tháng 10 cho đến cuối tháng 11, thì giảm dần cho đến quý I năm sau. Còn các đơn hàng cho các nước châu Á, như: Nhật, Hàn Quốc… thì vẫn duy trì cho đến hết năm. Tuy nhiên, ở vụ tôm năm nay, theo các doanh nghiệp, thị trường Mỹ dự kiến sẽ kết thúc sau ngày 15/10 để tránh rủi
quyết định cuối cùng về thuế chống bán phá giá (AD) sẽ được Bộ Thương mại Mỹ công bố vào ngày 9/12 tới đây nên việc xuất
khẩu tôm vào Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ giảm mạnh sau ngày 15/10 để tranh rủi ro một khi mức thuế này ở mức cao. Điều này cộng thêm tình hình tôm nguyên liệu hiện cũng không còn dồi dào nên xuất khẩu tôm trong quý IV nhiều khả năng sẽ giảm mạnh so với các quý trước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ không ảnh hưởng nhiều đến mục tiêu kim ngạch xuất khẩu tôm cả năm do trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá mạnh. Theo tôi, việc hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu tôm từ
3,8-4 tỷ USD của năm 2025 là trong tầm tay”.
Liên quan đến thuế AD, theo ông Lực, dù mức thuế sơ bộ
đối với tôm Việt Nam là rất cao, nhưng không phải tất cả sản phẩm tôm của Việt Nam đều bị áp mức thuế này, mà vẫn có những phân khúc sản phẩm không bị thuế chống bán phá giá như: tôm chiên, tôm bao bột… Trong khi đây lại là thế mạnh của các doanh nghiệp ngành tôm Việt Nam, nên doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế này để xuất hàng sang Mỹ. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp
Việt Nam rất có kinh nghiệm và nghiên cứu rất kỹ về sắc thuế này nên luôn có sự chủ động ứng phó. Tuy nhiên, bước sang
đầu năm 2026, tình hình mới
thực sự khó khăn hơn nếu phán quyết cuối cùng về thuế AD
được đưa ra vào ngày 9/12 tới
đây ở mức cao thì bên cạnh việc
bị truy thuế AD cho các lô hàng
xuất khẩu trong năm 2023, khi
xuất khẩu tôm vào Mỹ (sau ngày 9/12) doanh nghiệp buộc phải
đóng ký quỹ bằng với mức thuế AD đã được công bố.
“Mặc dù có những phân khúc sản phẩm không bị áp thuế AD, nhưng nhìn chung, bức tranh
xuất khẩu tôm Việt Nam vào thị
trường Mỹ trong quý I/2026 vẫn
được dự báo là không tốt. Điều này cộng với tình hình nuôi từ
nay đến đầu năm 2026 không
mấy sáng sủa nên n hiều khả năng xuất khẩu tôm trong quý I/2026 sẽ không cao”, ông Lực
chia sẻ thêm.
Nguồn cung tôm nguyên liệu
từ 4 tỉnh, thành nuôi tôm trọng
điểm như: Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang… hiện
không còn nhiều, nên dù các dự
báo đều nghiêng về hướng sụt
giảm xuất khẩu nhưng giá tôm
đến giớ này vẫn giữ ở mức khá
cao và khả năng cao là sẽ duy trì mức giá hiện tại cho đến hết quý I/2026.
Ông Võ Văn Phục – Tổng giám
đốc Công ty Cổ phần Thủy sản
sạch Việt Nam (Vinacleanfood) cho biết, dù từ tháng 9, xuất
khẩu tôm bắt đầu tăng khá
mạnh nhưng khó khăn đối với
doanh nghiệp và ngành tôm thì
vẫn còn đó, bởi áp lực từ thuế,
từ sự cạnh tranh, từ nguồn cung
nguyên liệu… nên xuất khẩu
trong quý IV này chắc chắn sẽ
không được như ý. Ông Phục
cũng dự báo giá tôm tuy khó
giảm, nhưng khả năng một số
tôm kích cỡ lớn sẽ giảm. Riêng vấn đề doanh số xuất khẩu và
lợi nhuận, hầu hết các doanh nghiệp đều cho có chung nhận
định: “Doanh số xuất khẩu sẽ
đạt, thậm chí là vượt kế hoạch, nhưng chỉ tiêu lợi nhuận thì vẫn chưa có gì là chắc chắn”.
Theo đánh giá của VASEP, đằng sau kết quả ấn tượng này là sự linh hoạt của doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất hàng, tận dụng thời điểm trước khi một số chính sách thuế và rào cản kỹ thuật được áp dụng. Nhiều doanh nghiệp chủ động
cơ cấu lại thị trường, tăng xuất
khẩu sang châu Á, đồng thời củng cố vị thế tại các thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, xu hướng đầu tư vào sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, đáp ứng các yêu cầu cao về chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc cũng đã giúp thủy sản Việt Nam nói chung và con tôm giữ được sức cạnh tranh, đặc biệt ở phân khúc trung và cao cấp. Tuy vậy, con đường phía trước không ít gập ghềnh khi những rào cản về thuế AD, thuế đối ứng, thuế chống trợ cấp (CVD), sự cạnh tranh… vẫn còn đó, mà ngành tôm nói riêng và thủy sản Việt Nam nói vẫn cần phải vượt qua. Để duy trì đà tăng trưởng, các chuyên gia khuyến nghị toàn
ngành cần theo sát diễn biến
thị trường và chính sách thương
mại để kịp thời điều chỉnh chiến
lược, tránh rủi ro khi rào cản
mới xuất hiện. Cơ cấu lại thị
trường xuất khẩu theo hướng
vừa giữ vững các thị trường
truyền thống như Mỹ, EU, Nhật
Bản, vừa đẩy mạnh khai thác cơ
hội tại thị trường ASEAN, Trung Đông và các thị trường ngách ít cạnh tranh hơn. Để giúp thủy sản Việt Nam cạnh tranh bền
vững, nhất là khi người tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên sản phẩm chất lượng cao, bền vững và an toàn, thì yếu tố then chốt mà doanh nghiệp cần tập trung chính là đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị gia tăng. Cùng với đó, ngành cũng cần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong nuôi trồng – chế biến, đồng thời tăng cường thương hiệu quốc gia thông qua các kênh ẩm thực cao cấp và thương mại điện tử. Có thể nói, 9 tháng đầu năm 2025, dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực vượt khó cũng bản lĩnh, kinh nghiệm dày dạn, các doanh nghiệp ngành tôm cũng đã tạo nên giá trị kim ngạch xuất khẩu 3,38 tỷ USD là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, trước những rào cản thương mại và cạnh tranh gay gắt, sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo sẽ là chìa khóa để toàn ngành vừa giữ vững thành quả, vừa mở rộng cơ hội trên các thị trường quốc tế trong thời gian tới.
Xuân Trường
Bảo toàn astaxanthin trong thức ăn thủy sản bằng hoạt chất ô liu
Astaxanthin dễ bị ôxy hóa và phân hủy trong chế biến cũng như bảo quản. Nghiên cứu mới cho thấy chiết xuất từ phụ phẩm ô liu có thể là chìa khóa tự nhiên, bền vững để bảo toàn dưỡng chất này.
Ôxy hóa – kẻ thù tiềm ẩn trong
thức ăn thủy sản
Ôxy hóa lipid trong thức ăn
không chỉ làm suy giảm giá trị dinh dưỡng mà còn ảnh hưởng
đến mọi giai đoạn nuôi cá. Khi cá ăn phải thức ăn bị ôxy hóa, chúng
đối mặt với stress ôxy hóa, giảm sức đề kháng và tăng rủi ro dịch bệnh. Đồng thời, quá trình này phá hủy astaxanthin, khiến phi lê cá kém bắt mắt, giảm sức cạnh tranh trên thị trường.
Quá trình ôxy hóa lipid thường trải qua ba giai đoạn: khởi phát, lan truyền và kết thúc. Ở giai đoạn đầu, gốc tự do tấn công acid béo đa bất bão hòa (PUFAs), tạo ra các gốc lipid hoạt động mạnh. Tiếp đó, phản ứng dây chuyền tạo thành hydroperoxide – chỉ số thường đo bằng PV (peroxide value). Các hydroperoxide này nhanh chóng phân hủy thành sản phẩm thứ cấp như malondialdehyde (MDA), hexanal, pentanal đều có hại cho chất lượng thức ăn.
Astaxanthin, do cấu trúc chứa nhiều nối đôi liên hợp và nhóm hydrôxyl (-OH), đặc biệt dễ bị ôxy hóa khi tiếp xúc với ôxy, nhiệt hoặc tác động cơ học trong chế biến và bảo quản. Điều này dẫn đến thất thoát nghiêm trọng về dinh dưỡng và chi phí.
Trong toàn bộ chu trình sản xuất, nhiều yếu tố góp phần làm mất astaxanthin: Cơ học: tác động khi nghiền, ép đùn, sấy khô; Nhiệt: dao động trong chế biến, bảo quản và vận chuyển; Ôxy: tiếp xúc với không khí trong lưu trữ và đóng gói. Mỗi yếu tố riêng lẻ đã nguy hiểm, nhưng cộng hưởng với nhau, chúng có thể làm thất thoát tới gần một nửa hàm lượng astaxanthin, khiến chi phí tăng đáng kể cho mỗi kg thức ăn hoàn chỉnh. Để giảm thiệt hại, chất chống
ôxy hóa được bổ sung vào công thức ở nhiều công đoạn. Các
hợp chất tổng hợp phổ biến gồm ethôxyquin, BHT, BHA và propyl
gallate. Tuy nhiên, xu hướng thị
trường và quy định ngày càng siết chặt việc sử dụng chúng. Chẳng
hạn, từ tháng 2/2025, Liên minh châu Âu đã giảm mức cho phép propyl gallate từ 100 xuống 40 ppm trong thức ăn cho cá hồi.
Điều này thúc đẩy ngành thủy
sản tìm kiếm nguồn thay thế tự
nhiên. Sự kết hợp giữa chất chống
ôxy hóa tự nhiên và tổng hợp hiện
được xem là giải pháp cân bằng:
vừa duy trì chất lượng thức ăn, vừa giảm phụ thuộc phụ gia tổng hợp.
Ô liu – nguồn chống ôxy hóa
tuần hoàn và bền vững
Ngành công nghiệp dầu ô liu
không chỉ sản xuất dầu giá trị cao mà còn tạo ra lượng lớn phụ phẩm
giàu hợp chất sinh học. Tùy công nghệ chế biến, phụ phẩm thậm
chí chứa nồng độ chất chống ôxy hóa cao hơn cả dầu.
Một ví dụ tiêu biểu là Novinox®
Nat Olea (Innovad Group), chiết xuất từ giống ô liu Koroneiki.
Thành phần chứa hơn 40 hợp chất sinh học, gồm polyphenol (hydrôxytyrosol, tyrosol) và triterpenoid (maslinic acid, squalene). Đặc biệt, sản phẩm
được sản xuất bằng công nghệ
thân thiện môi trường, không
dùng dung môi hóa học, đảm bảo
tính bền vững và khả năng truy xuất nguồn gốc.
Những hợp chất này không chỉ
bảo vệ thức ăn khỏi ôxy hóa mà
còn có tác dụng sinh lý: cải thiện
cân bằng ôxy hóa – khử, tăng
cường miễn dịch và khả năng
chống chịu stress của cá nuôi.
Để kiểm chứng hiệu quả, các
thí nghiệm ép đùn quy mô pilot
được tiến hành tại Viện Công
nghệ Đan Mạch. Quy trình gồm
nghiền, phối trộn nguyên liệu, ép
đùn và phủ chân không với dầu
cá, trong đó astaxanthin tổng
hợp được bổ sung 100 mg/kg.
Thí nghiệm được chia làm 3 giai đoạn: Sàng lọc: so sánh chiết
xuất hương thảo, tocopherol, bã ô liu; Đối chứng: so sánh bã ô liu với hỗn hợp chất chống ôxy hóa tổng hợp; Tối ưu hóa: kết hợp bã ô liu với một số hợp chất tổng hợp (BHT, BHA) để đánh giá hiệu quả bảo quản ngắn và dài hạn (tới 26 tuần). Astaxanthin được phân tích bằng HPLC, trong khi ôxy hóa lipid được theo dõi qua chỉ số peroxide (PV) và TBARS (MDA).
Kết quả cho thấy, ở giai đoạn 1, mẫu đối chứng chỉ giữ lại 51% astaxanthin sau ép đùn, tức gần
một nửa bị mất. Việc bổ sung bã
ô liu hoặc tocopherol giúp nâng
tỷ lệ giữ lên khoảng 60%, trong khi chiết xuất hương thảo đạt 70% nhưng chi phí cao.
Trong giai đoạn 2, bã ô liu (500 ppm) cho hiệu quả bảo vệ astaxanthin tương đương hỗn
hợp chất chống ôxy hóa tổng
hợp, và không có khác biệt đáng
kể về chỉ số PV hay TBARS.
Đến giai đoạn 3, sự kết hợp bã ô liu (500 ppm) với BHT dạng lỏng (100 ppm) mang lại khả năng bảo toàn astaxanthin tốt nhất. Sau 3
tuần, lượng astaxanthin gần như không giảm thêm, trong khi mẫu
đối chứng tiếp tục suy hao. Tại
tuần 26, khẩu phần bổ sung bã ô
liu vẫn giữ được 37% astaxanthin, so với chỉ 29% ở đối chứng. Các công thức khác với liều thấp hơn hoặc phối hợp nhiều chất không mang lại hiệu quả vượt trội so với
chương trình “dựa trên bã ô liu”.
Tối ưu hóa độ ổn định và hướng đi cho ngành Kết quả cho thấy một chương trình chống ôxy hóa dựa trên chiết xuất ô liu, bổ sung liều hợp lý và kết hợp có chọn lọc với hợp chất tổng hợp, có thể mang lại sự bảo vệ bền vững cho astaxanthin. Đây là chiến lược thực tiễn, đáp ứng cả yêu cầu kỹ thuật lẫn quy định pháp lý ngày càng khắt khe. Bên cạnh tác dụng bảo quản, chiết xuất ô liu còn có lợi ích sinh lý lâu dài cho cá nuôi. Điều này mở ra hướng tiếp cận hai trong một: vừa giữ ổn định chất lượng thức ăn, vừa cải thiện sức khỏe và năng suất vật nuôi.
Trong bối cảnh ngành thủy sản toàn cầu hướng đến bền vững, việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp như ô liu để sản xuất phụ gia tự nhiên mang lại giá trị kép: bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Chiết xuất từ phụ phẩm ô liu chứng minh hiệu quả rõ rệt trong việc bảo toàn astaxanthin – sắc tố then chốt của cá hồi và các loài thủy sản giá trị cao. Sự kết hợp thông minh giữa chất chống ôxy hóa tự nhiên và tổng hợp sẽ là xu hướng tất yếu, giúp ngành thức ăn thủy sản tiến gần hơn đến mục tiêu bền vững và hiệu quả toàn diện.
Dũng Nguyên
Theo Aquafeed
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Rong biển
nâng
cao hiệu quả nuôi tôm
Rong đỏ Lithothamnium calcareum, thành phần chính trong sản phẩm Marisert mang lại nhiều lợi ích trong nuôi tôm: cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), tăng tỷ lệ sống, rút ngắn chu kỳ nuôi, nâng cao sản lượng, đồng thời ổn định môi trường ao và giảm nguy cơ bệnh hoại tử gan tụy cấp.
Hiện nay, thế giới ghi nhận hơn 12.000 loài rong biển, thuộc ba nhóm chính: nâu, xanh và đỏ. Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cân bằng hệ sinh thái biển, rong biển còn được khai thác để sản xuất mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, alginat, cũng như làm nguồn dinh dưỡng cho người và vật nuôi.
Từ nghiên cứu đến ứng dụng thực tế Celtic Sea Minerals, thuộc Tập đoàn Marigot (Ireland), là doanh nghiệp dinh dưỡng vật nuôi với hơn 30 năm hoạt động, chuyên nghiên cứu và ứng dụng rong biển, đặc biệt là loài rong đỏ Lithothamnium calcareum . Với hơn 60 công trình khoa học được công bố quốc tế, sản phẩm của công ty hiện đã có mặt tại 75 quốc gia.
Rong đỏ chứa tới 74 khoáng chất, nổi bật là canxi và magiê, cùng với polysaccharide dạng hydrogel. Điểm độc đáo là quá trình thu hoạch chỉ lấy phần rong đã chết trong các vịnh hẹp ở Iceland, trong khi cây rong sống vẫn được bảo tồn. Trong suốt vòng đời, rong hấp thụ khoáng chất từ biển, sau đó hóa vôi, cứng lại và lắng xuống đáy vịnh, tạo thành lớp trầm tích dày tới 7 mét, rộng đến 11 mét. Trong hơn 20 năm, nhiều thử nghiệm ở cả môi trường học thuật và thương mại đều cho kết quả tích cực khi bổ sung rong biển Mariset vào nuôi tôm. Thí nghiệm tại New Orleans (Mỹ) trên tôm thẻ chân trắng– loài chiếm hơn 50% sản lượng tôm nuôi toàn cầu đã ghi nhận sản phẩm Marisert giúp cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), giảm tỷ lệ chết, đồng thời nâng độ kiềm nước. Marisert được ứng dụng theo hai cách: bổ sung vào công thức thức ăn (thay thế nguồn khoáng trong giai đoạn ương và nuôi thương phẩm) và hòa trực tiếp vào nước để hạn chế tình trạng suy giảm độ kiềm thường gặp vào cuối vụ nuôi.
Hiệu quả rõ rệt trên tăng trưởng và năng suất
Trong các thí nghiệm, thời gian nuôi thương phẩm trung bình đạt 84 ngày, trọng lượng bình quân 18,64g, tỷ lệ sống 81% và năng suất 7,55 kg/m³. Tốc độ tăng trưởng trung bình 1,47g/tuần, đặc biệt hiệu quả trong 50-70 ngày đầu sau thả giống. Kết thúc giai đoạn ương (47 ngày), nhóm tôm được bổ sung 3% Marisert đạt kích
cỡ trung bình lớn hơn 29% so với nhóm đối chứng, rút ngắn tám ngày nuôi, qua đó giảm đáng kể chi phí thức ăn và nhân công. Nếu áp dụng cho cả giai đoạn ương và nuôi thương phẩm, nông dân có thể tiết kiệm 16 ngày mỗi chu kỳ, tương đương bổ sung thêm 54 ngày nuôi mỗi năm, giúp tăng ít nhất 14,7% sản lượng tiềm năng. Ngoài ra, trong năm tuần cuối vụ, người nuôi không còn cần bổ sung chất đệm để ổn định kiềm, giảm chi phí chăm sóc và hóa chất.
Hai thử nghiệm khác được tiến hành tại Guatemala cùng đối tác Acuamaya (20222023) cũng xác nhận kết quả tích cực. Ở thí nghiệm đầu tiên, mật độ thả 80 con/m², khẩu phần 30% protein, bổ sung Marisert 3 kg trên ao 5.000 m² (5 ao đối chứng, 5 ao xử lý). Dù thời tiết lạnh cuối năm (tháng 11-12), kết quả vẫn khả quan.
Thí nghiệm thứ hai (2023) sử dụng công thức thức ăn hoàn toàn từ protein thực vật (đậu nành, 30% protein), mật độ thả 100 con/m² trên 10 ao (5 đối chứng, 5 xử lý). Thí nghiệm diễn ra trong giai đoạn mùa mưa (tháng 5-6) với nhiệt độ nước trung bình 2428°C – thời điểm thuận lợi nhất để nuôi tôm ở Guatemala, và tiếp tục cho kết quả tích cực, dưới sự hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp từ đội ngũ Acuamaya.
Ảnh minh họa
Rong đỏ chứa tới 74 khoáng chất, nổi bật là canxi và magiê, cùng với polysaccharide dạng hydrogel
Trong một thử nghiệm mới tại châu Âu, bổ sung Marisert giúp giảm 6% mật độ vi khuẩn Vibrio liên quan đến hội chứng hoại tử gan tụy cấp (AHPND), từ đó giảm tỷ lệ chết trên cả nhóm nuôi mật độ thấp (100 con/m²) và mật độ cao (400 con/m²). Các nghiên cứu tiếp theo sẽ được triển khai để làm rõ cơ chế tác động.
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Nuôi rươi kết hợp trồng lúa giúp nông dân làm giàu bền vững
Với sự hỗ trợ kỹ thuật từ
Trung tâm Khuyến nông Hải
Phòng, mô hình nuôi rươi
kết hợp trồng lúa không
chỉ mang lại hiệu quả kinh
tế cao cho nông dân, mà
còn góp phần bảo vệ môi
trường, phát triển nông
nghiệp sinh thái bền vững
và mở ra triển vọng nhân rộng tại nhiều địa phương.
Chủ động kỹ thuật, phát huy lợi thế tự nhiên Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp, nghề nuôi rươi vốn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nay đứng trước không ít khó khăn. Trước thực tế đó, từ năm 2024, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng đã chủ trì triển khai dự án “Xây dựng mô hình nuôi rươi kết hợp sản xuất lúa gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm” tại các xã Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thụy, An Lão và phối hợp mở rộng sang Hưng Yên. Khác với cách làm truyền thống, mô hình mới ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, từ sử dụng con giống rươi sản xuất nhân tạo để chủ động nguồn cung, đến áp dụng chế phẩm sinh học xử lý môi trường, phân vi sinh hữu cơ cải tạo nền ruộng. Qua đó, vừa tạo điều kiện cho rươi sinh trưởng tốt, vừa bảo đảm lúa phát triển ổn định, giảm sâu bệnh, hạn chế sử dụng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Thực tế kiểm tra tại các điểm mô hình ở xã Vĩnh Bảo, Tiên Lãng hay Phụ Dực (Hưng Yên) cho thấy, rươi giống thích nghi nhanh, mật độ ổn định, cây lúa sinh trưởng xanh tốt. Các hộ dân tham gia đều đánh giá cao sự đồng hành
của cán bộ khuyến nông – từ việc bàn giao giống, hướng dẫn kỹ thuật cho đến giám sát, hỗ trợ định kỳ. Ông Lưu Văn Cảnh – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng cho biết: “Việc kiểm tra, tập huấn thường xuyên không chỉ để bảo đảm mô hình triển khai đúng tiến độ, mà còn giúp nông dân kịp thời tháo gỡ khó khăn, yên tâm áp dụng quy trình kỹ thuật mới. Đây là yếu tố then chốt tạo nên thành công ban đầu của dự án.”
Hiệu quả kinh tế rõ rệt
Một trong những kết quả ấn tượng nhất của mô hình là năng suất và hiệu quả kinh tế vượt trội so với phương thức sản xuất cũ. Sau 9 tháng triển khai tại xã Vĩnh Bảo, các hộ dân đạt năng suất rươi trung bình 1.370 kg/ha, năng suất lúa khoảng 5,1 tấn/ha. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận ròng đạt khoảng 285 triệu đồng/ha, cao hơn từ 45 – 75% so với sản xuất truyền thống. Nếu trước đây nông dân chủ yếu trông chờ vào con rươi tự nhiên, sản lượng bấp bênh, thì nay việc thả bổ sung giống rươi nhân
giúp tăng năng suất lên gấp 3 – 3,5 lần. Cùng với đó, chất lượng sản phẩm cũng được cải thiện, đáp ứng tốt hơn yêu cầu thị trường.
Bà Khổng Thị Vang, một hộ tham gia mô hình tại Vĩnh Bảo chia sẻ: “Nhờ có cán bộ khuyến nông hướng dẫn tận tình, gia đình tôi đã mạnh dạn thay đổi cách làm. Rươi phát triển tốt, lúa không cần phun thuốc bảo vệ thực vật, vừa tiết kiệm chi phí vừa yên tâm về chất lượng sản phẩm. Chưa năm nào mà thu nhập từ đồng ruộng lại cao và ổn định như thế này.”
Mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mô hình nuôi rươi kết hợp trồng lúa còn tạo nên hệ sinh thái đồng ruộng bền vững. Việc sử dụng phân hữu cơ vi sinh, men vi sinh xử lý môi trường giúp cải tạo đất, tăng độ phì nhiêu tự nhiên. Đồng thời, mô hình hạn chế hoàn toàn việc dùng hóa chất, bảo vệ nguồn nước và sức khỏe người sản xuất.
Theo các chuyên gia, rươi là loài sinh vật đáy, nhạy cảm với môi trường. Sự hiện diện của rươi trong ruộng lúa được coi là chỉ báo sinh thái quan trọng cho thấy môi trường đất, nước sạch và ổn định. Do đó, nuôi rươi kết hợp trồng lúa vừa tận dụng lợi thế tự nhiên, vừa khuyến khích người dân duy trì lối canh tác thân thiện với môi trường.
Bà Đặng Thị Thanh – Trưởng phòng Khuyến ngư (Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng) nhấn mạnh: “Chúng tôi xác định đây là mô hình nông nghiệp hữu cơ điển hình, có tính bền vững cao. Khi triển khai rộng rãi, mô hình sẽ góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, sạch, an toàn thực phẩm.”
Qua hai năm triển khai, nhiều kinh nghiệm thực tiễn đã được đúc rút để nâng cao hiệu quả mô hình. Thứ nhất, phải chủ động nguồn giống rươi nhân tạo thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Thứ hai, quản lý môi trường nước, nền đáy ruộng bằng chế phẩm sinh học là yếu tố quyết định đến tỷ lệ sống của rươi. Thứ ba, kết hợp quy trình canh tác lúa theo hướng hữu cơ, tránh dùng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật để bảo đảm môi trường sống cho rươi.
Ngoài ra, việc liên kết tiêu thụ sản phẩm ngay từ đầu dự án cũng là điểm mới quan trọng. Các hộ dân không chỉ được hỗ trợ về kỹ thuật và vật tư
với doanh nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ đầu ra. Điều này giúp người nuôi, trồng yên tâm sản xuất, tránh tình trạng “được mùa mất giá”.
Hải Phòng hiện có hơn 3.100 ha diện tích tiềm năng nuôi rươi, tập trung ở các xã như
Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thụy và An Lão. Với kết quả bước đầu đạt được, Trung tâm
Khuyến nông Hải Phòng đang khuyến khích nhân rộng mô hình này ra nhiều vùng ven sông, ven biển khác.
Không chỉ ở Hải Phòng, những địa phương có điều kiện tương tự ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ như Hưng Yên, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An… cũng có thể áp dụng mô hình. Sự phối hợp liên vùng sẽ giúp hình
thành chuỗi sản xuất – tiêu thụ rươi, lúa hữu
cơ ổn định, nâng cao giá trị sản phẩm và vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường. Kết quả kiểm tra, giám sát các dự án khuyến nông trung ương năm 2025 do Hải Phòng chủ trì đã khẳng định tính khả thi của mô hình nuôi rươi kết hợp trồng lúa. Trong thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng sẽ tiếp tục tăng cường tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, đồng thời tham mưu cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhân rộng mô hình tại các vùng phù hợp.
Song song, việc xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm rươi – lúa hữu cơ cũng được đặt ra, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Đây sẽ là bước tiến quan trọng giúp nông dân không chỉ “được mùa, được giá” mà còn sản xuất bền vững, lâu dài.
Năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng được Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao chủ trì thực hiện hai dự án khuyến nông trung ương, trong đó có dự án “Xây dựng mô hình nuôi rươi kết hợp sản xuất lúa gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm” tại Hải Phòng và Hưng Yên. Mới đây, đoàn công tác của Trung tâm đã kiểm tra mô hình nuôi rươi kết hợp sản xuất lúa tại xã Phụ Dực (tỉnh Hưng Yên) với quy mô 5 ha. Tại thực địa, mô hình bước đầu
sinh trưởng tốt, hệ thống quản lý chăm sóc
Mô hình nuôi rươi kết hợp trồng lúa tại Hải
Phòng cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy sản xuất nông nghiệp, từ chỗ dựa hoàn toàn vào tự nhiên sang chủ động ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Kết quả thực tế khẳng định đây là hướng đi khả thi, hiệu quả, vừa tăng thu nhập cho người dân, vừa bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh, sạch, bền vững – đúng như định hướng mà ngành nông nghiệp Việt Nam đang theo đuổi.
Thùy Khánh
đáy ao đất
trong nuôi tôm
TNV CLARITY PLUS
Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao, với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus amyloliquefaciens…
Một trong những nguyên nhân sinh bệnh và gây ô nhiễm ao nuôi tôm là bùn đáy ao. Tuy nhiên, việc lót bạt đáy ao để tránh ảnh hưởng của tình trạng này là rất tốn kém, không phải hộ nuôi nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện. Bên cạnh đó tôm thường có thói quen đào bới nền đáy ao để tìm thức ăn, tập tính này trong môi trường ao có có nhiều bùn bã hữu cơ sẽ ảnh hưởng xấu đến đường ruột của chúng, gây thiệt hại cho vụ nuôi của bà con. Vì vậy, việc xử lý bùn đáy ao nuôi tôm là việc rất quan trọng và cần thiết, giúp hạn chế mầm bệnh và sự ô nhiễm nước ao nuôi, từ đó giúp tôm được khỏe mạnh, tăng năng suất và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Nguyên nhân xuất hiện bùn đáy ao
- Lượng bùn đáy dơ còn thừa do cải tạo ao không kỹ.
- Thức ăn dư thừa quá nhiều, chất thải tôm và vỏ tôm lắng
SLUDGE REMOVER TABLET
Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa và phân hủy bùn đáy ao mãnh mẽ với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus pumilus, Bacillus amyloliquefaciens…
xuống đáy làm cho lớp bùn bã đáy ao ngày càng nhiều.
- Nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ.
- Đất ao bị xói mòn do dòng
chảy của nước từ việc chạy quạt, đất trên bờ ao bị rửa trôi.
- Xác chết của các loại sinh vật.
- Các loại vôi, khoáng chất còn thừa.
Tác hại
Đáy ao dơ sẽ gây suy thoái ao nuôi, ô nhiễm môi trường nước làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm nuôi
- Lớp bùn đáy là nơi cư trú của vi khuẩn có hại, nấm và các động vật nguyên sinh.
- Sự phân hủy bùn đáy ao sẽ sản sinh ra các khí độc như NH3, H2 S, gây ngộ độc và stress cho tôm, cá.
- Làm giảm ôxy tầng đáy.
- Tạo điều kiện cho tảo phát triển
- Dễ gây ra các bệnh cho tôm như đen mang, mòn râu, các
AB S10
Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao nuôi, giảm khí độc và kiểm soát tảo với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus pumilus, Pseudomonas spp., ...
bệnh về đường ruột... làm ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi và giảm năng suất vụ nuôi.
Cách xử lý
- Cải tạo ao thật kỹ cho mỗi vụ nuôi mới.
- Hạn chế sự xói mòn do dòng chảy bằng việc rửa ao nhiều lần, xây dựng chắc chắn hệ thống ao nuôi, gia cố kỹ bờ ao.
- Quản lý chặt chẽ việc cho ăn, giảm lượng thức ăn dư thừa.
- Loại bỏ chất thải bùn đáy ra khỏi ao bằng cách thay nước, hút bùn và xi phông đáy ao.
- Sử dụng chế phẩm sinh học: Chế phẩm vi sinh: Chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả năng phân hủy bùn đáy, xử lý mùi hôi và chất hữu cơ dư thừa trong nước.
Đề xuất giải pháp Việc xử lý chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao là hết sức cần thiết, nhằm giữ môi trường nước trong sạch, nâng cao sức khỏe và sự phát triển của động vật thủy sản. Tuy nhiên, sản phẩm khi đưa vào ao nuôi ngoài hiệu quả sử dụng còn phải thân thiện với môi trường, không gây ảnh hưởng xấu động vật thủy sản. Do đó, việc sử dụng sản phẩm vi sinh từ đầu và bổ sung thường xuyên là lựa chọn tối ưu cho việc giải quyết các vấn đề trong ao nuôi.
phẩm
Lươn là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao
nên nhu cầu tiêu thụ lươn thịt ngày càng nhiều. Tuy nhiên, khi đưa lươn giống vào nuôi thịt thì trong quá
Nguyên nhân
Có 3 nguyên nhân chính gây
hiện tượng lươn bị xuất huyết:
- Lươn bị shock môi trường; - Lươn ăn thiếu dinh dưỡng và các vi chất, đặc biệt là Vitamin C và các khoáng chất; - Lươn bị nhiễm vi khuẩn.
Biện pháp khắc phục
Lươn bị shock do môi trường
hợp ban đầu khoảng 10 cm, sau
đó nâng dần lên và khi nuôi đến
giai đoạn cuối mực nước lên 20 - 25 cm (tùy mật độ nuôi). Nước trong bể nuôi lươn được thay mới mỗi ngày và nguồn nước dự trữ
để thay mới cho lươn phải sạch,
đạt chuẩn có xử lý khuẩn an toàn.
Sau khi thay nước mới cũng tạt
bổ sung BIO ANTISHOCK liều 5 g/m3 giúp hạn chế lươn bị shock, lươn khỏe mạnh.
Chế độ dinh dưỡng cho lươn:
Nếu lươn ăn thiếu chất ngoài
việc lươn bị chậm lớn, phân đàn, lươn giảm sức đề kháng, dễ bị
shock khi môi trường biến động, thời tiết nắng nóng… lươn dễ
bị xung huyết, mầm bệnh xâm
nhập; do vậy trong chế độ dinh
trình nuôi lươn có một số con có biểu hiện đỏ thân, xuất huyết, tiết nhớt… ảnh hưởng sức khỏe, sản lượng, năng suất nuôi. mầm bệnh trong môi trường. Môi trường được kiểm soát mầm bệnh, các chỉ số lý hóa
Biểu hiện lươn tiết nhiều nhớt, tách đàn ngoi đầu lên mặt nước, thân đỏ ửng sung huyết, có con shock nặng có máu chảy ra ở miệng sau đó chết. Hạn chế lươn bị xuất huyết bằng cách lập trang trại nuôi lươn có mái che mát nhiệt độ nước không quá 28°C, nước không bị nhiễm phèn, thích hợp pH từ 7 đến 8.0. Trước khi thả nuôi nên điều chỉnh cân bằng nước ở trại lươn giống và nơi nuôi lươn thịt phải tương thích nhau, nhất là pH và nhiệt độ tương đồng. Trước khi bắt lươn giống phải bỏ đói ít nhất 1 ngày, sau đó giống nên tắm qua nước muối 2 - 3% trong 4 đến 5 phút để loại bỏ mầm bệnh và khi thả giống tạt BIO ANTISHOCK liều 10 g/m3 trước 15 phút, thả lươn lúc trời mát sẽ giúp lươn khỏe hạn chế shock. Mực nước thích
dưỡng cần cho lươn ăn đủ chất
đủ lượng. Đối với thức ăn công
nghiệp nên chọn đúng thức ăn
cho lươn, nếu không có thì chọn
thức ăn cho cá chình hoặc thức
ăn cho cá biển ăn thiên về động
vật cho lươn ăn cũng hợp lý.
Trong khẩu phần ăn bổ sung kèm
Vitamin C liều 1 - 2 g/kg thức ăn hoặc NUTRIFISH liều 5 g/kg thức
ăn cho lươn ăn mỗi ngày 2 cữ
sáng, chiều.
Lươn bị xuất huyết do nhiễm vi khuẩn gây bệnh:
Phần lớn nhiễm dòng vi khuẩn
Aromonas. Biểu hiện lươn nhiễm
bệnh là đầu sưng đỏ, từ miệng, mang bị xung huyết, đường ruột
phát viêm xung huyết không có
thức ăn, có dịch màu vàng, bề ngoài không loét, thân thể mất tính đàn hồi...
Khắc phục bằng cách trộn
kháng sinh cho lươn ăn BIO
OXYTETRA hoặc BIO DOXY 500 for aqua liều 0,5 g đến 1 g/kg
thức ăn, ngày ăn 2 cữ /trong 7 ngày liên tục. Đối với nguồn nước nuôi lươn: tạt BIO PARACIDE for aqua liều 1 ml/2 m3 để kiểm soát
hợp cộng với chế
dinh dưỡng
lươn sẽ tăng trưởng lớn nhanh, sức kháng bệnh tốt, ít bệnh tật, ít hao hụt…; góp phần tăng năng suất mang lại lợi nhuận cao.
Hồng Đức Cố vấn kỹ thuật thủy sản Công ty Liên doanh BioPharmachemie
Chìa khóa nâng cao sức khỏe tôm
Giải pháp hiệu quả từ chiết xuất
Polyphenol, Nor-Grape ®
Tổng quan
Trong những năm gần đây, các chất phụ gia đã được sử dụng như thực phẩm chức năng trong nuôi trồng thủy sản, chẳng hạn như chiết xuất polyphenol từ ngành công nghiệp sản xuất rượu vang. Phụ phẩm từ nho có thể được sử dụng để sản xuất các chiết xuất có đặc tính chống ôxy hóa, chất nền lên men, nhờ vào hàm lượng cao các hợp chất sinh học có hoạt tính chống ôxy hóa mạnh như polyphenol (anthocyanins, flavanols, flavan-3-ols, procyanidins), axit phenolic, resveratrol và chất xơ.
Các polyphenol có nguồn gốc thực vật có thể được đưa vào hệ thống nuôi trồng thủy sản dưới dạng thô (toàn bộ các bộ phận của thực vật) thay vì các chiết xuất cần cân nhắc thêm các thành phần hoạt tính khác có thể có mặt. Chẳng hạn như resveratrol – một hợp chất stilbene phổ biến trong vỏ nho đỏ Vitis vinifera, là các polyphenol có thể có hoạt tính điều hòa miễn dịch; flavanols, axit phenolic và proanthocyanidin, có khả năng làm giảm quá trình chết tế bào thông qua việc loại bỏ các ROS ( các gốc ôxy hóa hoạt động có nguồn gốc từ ôxy) và kích hoạt yếu tố hạt nhân liên quan đến hồng cầu 2 (Nrf2), yếu tố này điều chỉnh biểu hiện của nhiều enzym chống ôxy hóa. Đây chính là cơ chế cơ bản của hoạt tính chống ôxy hóa từ chiết xuất polyphenol tự nhiên này. Vì những lý do đó, polyphenol được coi là các giải pháp thay thế an toàn và khả thi cho các hợp chất hóa
học tổng hợp, góp phần tích cực vào việc cải thiện sức khỏe cá, chất lượng, năng suất và an toàn thực phẩm trong nuôi trồng thủy sản, đồng thời giảm việc sử dụng hóa chất và kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm chiết xuất polyphenol từ nho Nor-grape 80 từ Nor-Feed rất giàu các chất chống ôxy hóa, đã được chứng minh là chứa 80% polyphenol, trong đó 60% là proanthocyanidin và 0,75% là anthocyanin. Nor-Feed đã thực hiện nhiều nghiên cứu nhằm tìm ra tính ứng dụng Nor-grape 80 trong khẩu phần thức ăn tôm giống nhằm cải thiện tỷ lệ sống, FCR và tăng trưởng.
Thông tin thử nghiệm
Nghiên cứu được thực hiện trên tôm thẻ chân trắng, bao gồm 2 nhóm:
Nhóm đối chứng (CTL): khẩu phần tiêu chuẩn.
Nhóm bổ sung (NG): khẩu phần tiêu chuẩn được bổ sung thêm 80 ppm Nor-Grape® 80 trong 30 ngày
Với lượng thức ăn ăn vào như nhau ở hai nghiệm thức, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trung bình của nhóm Nor-Grape® thấp hơn nhóm đối chứng (1,08 so với 1,20) ; trọng lượng cuối cùng trung bình trên mỗi bể của nhóm Nor-Grape® cao hơn (4,98 g so với 4,64 g) và tỷ lệ chết giảm 17% ở nhóm Nor-Grape®.
Kết luận
Những kết quả này cho thấy khả năng bảo vệ chống ôxy hóa tốt hơn giúp giảm stress
Trọng lượng tôm (g)
lệ sống (%)
ôxy hóa và cải thiện sức khỏe toàn diện, dẫn đến cải thiện hiệu suất. Nor-Grape® cải thiện hiệu suất và tỷ lệ sống của tôm so với đối chứng. Do đó, Nor-Grape® có thể là một chất dinh dưỡng bổ sung thú vị vào khẩu phần thức ăn cho tôm cá.
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ qua email contactvn@ norfeed.net.
FCR
12 con/kg
Dấu ấn kỷ lục từ tôm giống CP
Trong hơn hai thập kỷ qua, C.P. Việt Nam đã không ngừng cải tiến và nâng tầm chất lượng con giống. Trong hành trình phát triển đó, các cột mốc kích cỡ lớn liên tục được thiết lập, 20 con/kg, sau đó là 15con/kg và với tôm giống CPF TURBO G21 được ra mắt từ 2025 ghi dấu ấn mạnh mẽ với con số vô cùng đáng ngưỡng mộ 12 con/kg. Bước tiến vượt bậc này không chỉ minh chứng cho hành trình nâng tầm con giống, mà còn góp phần đưa tôm Việt Nam vươn xa hơn trên thị trường quốc tế.
Hành trình chinh phục đầy thử thách
Chị Lâm Thúy Linh – Đại lý Quí Linh tại xã Vĩnh Châu, TP. Cần Thơ – là đối tác gắn bó với C.P. Việt Nam hơn 15 năm. Trong suốt quá trình đồng hành, chị đã triển khai nhiều ao nuôi theo mô hình CPF COMBINE, liên tục gặt hái những vụ mùa thắng lợi, đặc biệt là các
đợt nuôi đạt size 15 con/kg – con số ấn tượng trong nuôi tôm công nghiệp.
Khi C.P. Việt Nam ra mắt tôm giống CPF TURBO G21 vào đầu năm 2025 – dòng tôm mang tính
đột phá về tốc độ tăng trưởng, sức chống chịu và khả năng
đề kháng vượt trội – chị Linh đã quyết tâm chinh phục một cột
mốc mới: nuôi tôm đạt size 12 con/kg.
Vụ nuôi năm 2025 không hề
dễ dàng. Với biến động thời tiết thất thường, mưa kéo dài, độ mặn thấp, cùng nhiều yếu tố
bất lợi đã khiến không ít hộ nuôi
chùn bước. Tuy nhiên, chị Linh vẫn kiên định với chiến lược nuôi
khoa học – đầu tư đúng hướng, quy trình vận hành chặt chẽ và lựa chọn con giống khỏe mạnh, sạch bệnh.
Bên cạnh đó, chị áp dụng giải pháp dinh dưỡng tối ưu từ C.P.
Việt Nam với dòng thức ăn GOAL
MAX – “1 sản phẩm, 3 lợi ích”:
Rút size nhanh – Tăng cường cơ bắp – Màu tôm sáng đẹp.
“Từ khi sử dụng GOAL MAX, màu tôm sáng đẹp hơn, thương lái khen ngợi rất nhiều. Đây là
yếu tố quan trọng giúp tôi tự tin
theo đuổi mục tiêu đạt size lớn
và mang lại giá trị cao hơn.” – chị
Linh chia sẻ.
Với sự đồng hành tận tâm của
đội ngũ kỹ thuật C.P. Việt Nam, đàn tôm của chị Linh phát triển ổn định, vượt qua giai đoạn khó
khăn và đạt kết quả ấn tượng: size 12 con/kg, khẳng định rõ
chất lượng vượt trội của tôm giống CPF TURBO G21.
Khẳng định chất lượng tôm giống CPF TURBO G21
Thành công của chị Linh là minh chứng rõ nét cho chất lượng
vượt trội của tôm giống C.P. Việt
Nam – Được chọn lọc từ nguồn
gen ưu tú của tôm bố mẹ CP và sản xuất theo quy trình an toàn sinh học nghiêm ngặt, tôm giống
C.P. Việt Nam luôn là sự lựa chọn an tâm và tin cậy của người nuôi.
Với tiềm năng đạt size lớn đến 12 con/kg, tốc độ tăng trưởng vượt trội song hành cùng sức chống chịu bền bỉ, CPF TURBO G21 một lần nữa khẳng định vị thế tiên phong trong hành trình nâng tầm chất lượng con giống Việt. Cột mốc 12 con/kg không chỉ là thành quả của một vụ nuôi, mà còn là bước tiến quan trọng trong hành trình khẳng định vị thế con giống Việt. Với định hướng không ngừng đổi mới, C.P. Việt Nam tiếp tục đồng hành cùng người nuôi tôm trên cả nước, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững – nơi mỗi mùa vụ thành công là một dấu ấn cho sự thịnh vượng của ngành tôm Việt Nam.
GenoMar Genetics Việt Nam
uy tín hàng đầu châu Á 2025
Ngày 27/9, tại TP. Hồ Chí
Minh, Công ty TNHH GenoMar
Genetics Việt Nam được vinh danh “Thương hiệu uy tín hàng
đầu châu Á – Asia’s Top Trusted Brand Awards 2025”, do Liên hiệp Khoa học Phát triển Doanh nghiệp Việt Nam tổ chức và Tạp chí Doanh nghiệp & Thương mại trao tặng.
Giải thưởng là sự ghi nhận xứng
đáng cho những nỗ lực bền bỉ của
GenoMar trong hành trình phát triển ngành cá giống rô phi chất lượng cao và đóng góp cho sự tăng trưởng bền vững của thủy sản Việt Nam.
Phát biểu tại lễ vinh danh, ông Nguyễn Văn Trung – Tổng Giám đốc GenoMar Genetics Việt Nam cho biết, đây là dấu mốc quan trọng, khẳng định uy tín và cam kết của doanh nghiệp trong việc cung cấp con giống sạch bệnh, năng suất cao và thân thiện môi trường.
“Giải thưởng là nguồn động viên to lớn, tiếp thêm động lực để GenoMar tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và đồng hành cùng ngành thủy sản Việt Nam phát triển bền vững,” ông Trung nhấn mạnh.
GenoMar Genetics Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, trực thuộc Tập đoàn GenoMar Genetics AS (Na Uy) – đơn vị tiên phong toàn cầu trong nghiên cứu và phát triển nguồn gen cá rô phi đơn tính. Với trung tâm sản xuất giống đặt tại Tây Ninh, công ty hiện đạt công suất hơn 120 triệu con giống/năm.
Dòng cá rô phi thế hệ thứ 35 do GenoMar phát triển được cải thiện di truyền vượt trội, phù hợp điều kiện ao nuôi tại Việt Nam. Con giống mang nhiều ưu điểm nổi bật: khỏe mạnh, kháng bệnh liên cầu khuẩn, tăng tỷ lệ sống tới 30%, tốc độ tăng trưởng nhanh và năng suất phi lê cao, giúp người nuôi giảm chi phí – tăng hiệu quả kinh tế.
Quy trình chọn lọc, sản xuất và kiểm soát chất lượng con giống được thực hiện nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh và ổn định di truyền. Các sản phẩm của GenoMar không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn được kỳ vọng mở rộng xuất khẩu cá rô phi, góp phần nâng tầm thương hiệu thủy sản Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Theo đại diện doanh nghiệp, trong thời gian tới, GenoMar tiếp tục đầu tư nghiên cứu, mở rộng hợp tác với các đối tác trong nước nhằm nâng cao năng suất, giảm rủi ro dịch bệnh và thúc đẩy mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững.
Việc được vinh danh tại Asia’s Top Trusted Brand Awards 2025 không chỉ khẳng định vị
Tổng Giám đốc GenoMar Genetics Việt Nam Nguyễn Văn Trung đã nhận giải
thưởng Asia’s Top Trusted Brand 2025
Ảnh: GenoMar
thế và uy tín của GenoMar Genetics Việt Nam trên thị trường, mà còn cho thấy đóng góp tích cực của khối doanh nghiệp FDI trong việc đồng hành cùng Việt Nam phát triển nông nghiệp công nghệ cao và chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, bền vững.
Thùy Khánh
Hỏi: Cá tra bơi lờ đờ, nhô đầu lên mặt nưới, xuất hiện nhớt trắng, da xám, thích tập trung nơi nước chảy. Một số con mang đầy nhớt và bạc trắng, cá bơi lung tung không
định hướng, cá lật bụng mấy vòng, chìm xuống đấy ao và chết. Hỏi đây và bệnh gì và biện pháp điều trị ra sao?
(Phạm Thành Công, xã Bình Phước, tỉnh
Vĩnh Long)
Trả lời:
Theo mô tả, có thể cá tra đã bị bệnh trùng bánh xe. Bệnh do ký sinh trùng họ Trichodina gây ra. Trùng ký sinh chủ yếu ở da, mang, khoang mũi cá. Khi cá mắc bệnh, trên thân cá có nhiều nhớt màu hơi trắng đục; da cá chuyển màu xám, cá thường nổi thành từng đàn trên mặt nước. Bệnh gây tác hại lớn cho các cơ sở ương nuôi giống, tỷ lệ hao hụt có thể lên tới 80%. Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa, trong những ao, bể ương nuôi với mật độ dày, môi trường bẩn. Khi cá bị bệnh, cần dùng nước muối 2 - 3% tắm cho cá trong 10 - 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ 0,5 - 0,7 ppm (0,5 - 0,7 g/m3 nước); dùng CuSO4 0,5 ppm rắc đều xuống ao. Xử lý mầm bệnh trong nước bằng Vicato 1 kg/1.500 - 2.000 m3 hoặc BKC 80 nồng độ
500 - 800 ml/m3 lúc trời nắng, xử lý 2 ngày/ lần; 3 lần liên tục. Đồng thời, bổ sung Vitamin
C để cá tăng sức đề kháng và glucan vào thức ăn để cá bệnh nhanh hồi phục.
Để phòng bệnh, cần quản lý tốt các yếu tố môi trường nước: Kiểm soát pH, nhiệt độ, nồng độ ôxy hòa tan, nồng độ khí độc như NH3, NO2 thường xuyên. Giữ môi trường nước ao nuôi luôn sạch sẽ. Mật độ ương nuôi cá không quá dày. Theo dõi sức khỏe cá thường xuyên đặc biệt là kiểm tra mẫu bằng kính hiển vi định kỳ để phát hiện sớm ký sinh trùng.
Hỏi: Cá điêu hồng giảm ăn, vận động khó khăn, bơi lờ đờ, cơ thể sẫm màu, một bên mắt bị lồi, hậu môn xuất huyết. Hỏi nguyên nhân và biện pháp khắc phục?
(Phan Thanh Bình, xã Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa)
Trả lời: Theo mô tả, có thể cá điêu hồng đã bị bệnh do vi khuẩn Steptococcus gây ra. Vi
khuẩn này phát triển mạnh ở môi trường có nhiệt độ nước 20 - 30 0 C. Khi bị bệnh, cá có dấu hiệu hôn mê, mất phương hướng bơi lội. Vùng mắt bị thương tổn như viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt. Xuất hiện các vết lở loét xuất huyết không ành ở quanh mắt, các gốc vây hoặc những vùng da hơi đỏ xung quanh hậu môn, sinh dục của cá.
Khi có dấu hiệu bệnh, nên giảm một phần hoặc toàn bộ lượng thức ăn cho cá. Vớt bỏ cá chết, cá bị bệnh ra khỏi ao. Bệnh do vi khuẩn gây ra nên có thể được điều trị bằng kháng sinh, liều lượng và sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Phòng bệnh bằng cách chuẩn bị ao, lồng bè tốt trước khi nuôi, đặc biệt là khâu xử lý đáy ao và xử lý nước. Khi thả giống nên tắm cá qua nước muối 2 - 3% trong thời gian 515 phút. Nên thả nuôi với mật độ vừa phải, trong quá trình nuôi cần theo dõi thường xuyên các yếu tố môi trường nước, nếu được nên duy trì hàm lượng ôxy hòa tan ở mức cao bằng máy quạt nước. Định kỳ từ 7 - 10 ngày/ tháng trộn vitamin và khoáng chất trong thức ăn, để tăng cường sức đề kháng cho cá khi nhiệt độ thay đổi.
Hỏi: Xin tư vấn các phương pháp sử dụng thuốc, hóa chất trong nuôi trồng thủy sản?
(Vũ Văn Khương, xã An Châu, tỉnh Nghệ An)
Trả lời:
Phương pháp tắm: Thu gom động vật thủy sản vào trong một bể có thể tích nhỏ, pha thuốc hoặc hóa chất có nồng độ cao, tắm nhanh cho động vật thủy sản để trị các sinh vật gây bệnh bên ngoài cơ thể.
Phương pháp này có ưu điểm là tốn ít thuốc, không ảnh hưởng đến sinh vật phù du là thức ăn của động vật thủy sản trong thủy vực. Phương pháp này thường thích hợp lúc chuyển cá, tôm từ ao này qua nuôi ao khác, vận chuyển đi xa hoặc con giống trước khi thả nuôi thương phẩm.
Phun thuốc xuống ao: Dùng thuốc phun trực tiếp xuống ao nuôi động vật thủy sản với nồng độ thuốc thấp, song thời gian tác dụng của thuốc dài. Phương pháp này tuy tốn thuốc nhưng tiện lợi, dễ tiến hành, trị bệnh kịp thời. Có thể tiêu diệt sinh vật gây bệnh ở
các cơ quan bên ngoài của động vật thủy sản và sinh vật gây bệnh tồn tại trong thủy vực. Thuốc dùng tương tự như tắm nhưng nồng độ giảm đi 10 lần.
Trộn thuốc vào thức ăn: Dùng thuốc kháng sinh, vitamin, khoáng vi lượng, chế phẩm sinh học,… trộn vào thức ăn, sau đó cho động vật thủy sản ăn theo các liều lượng. Đây là phương pháp phổ biến thường dùng trong nuôi trồng thủy sản. Phương pháp này dùng trị các bệnh do các sinh vật ký sinh bên trong cơ thể động vật thủy sản. Điểm hạn chế của phương pháp này là kém hiệu quả đối với một số bệnh vì khi đối tượng nuôi bị bệnh khả năng hoạt động sẽ kém, đôi khi bỏ ăn nên hiệu quả không cao. Do vậy khi áp dụng cần bổ sung thêm dầu gan mực, dầu thực vật bao bên ngoài viên thức ăn để hạn chế thuốc, hóa chất bị mất đi do hòa tan trong môi trường nuôi. Phương pháp tiêm: Dùng thuốc tiêm trực tiếp vào cơ thể động vật thủy sản. Phương pháp này liều lượng chính xác, thuốc hấp thu dễ nên tác dụng nhanh. Thường chỉ dùng biện pháp tiêm để chữa bệnh cho cá bố mẹ hay những lúc cá bị bệnh nặng mà số lượng cá bị bệnh nặng không nhiều hay một số giống loài động vật thủy sản quý hiếm. Dùng thuốc bôi trực tiếp lên thủy sản: Động vật thủy sản bị nhiễm một số bệnh ngoài cơ thể thường dùng thuốc có nồng độ cao bôi trực tiếp vào vết loét để giết chết sinh vật gây bệnh như: bệnh đốm đỏ, bệnh lở loét, bệnh do trùng mỏ neo, giun tròn ký sinh. Phương pháp này có thể dùng lúc đánh bắt cá bố mẹ để kiểm tra hay cho đẻ hoặc phòng trị bệnh lở loét nhiễm trùng cho ba ba. Ưu điểm tốn ít thuốc, độ an toàn lớn, thuận lợi và ít ảnh hưởng đến động vật thủy sản.
Treo túi thuốc, túi vôi: Phương pháp treo túi thuốc thích hợp để phòng bệnh cho động vật thủy sản và trị bệnh lúc mới phát sinh. Thường được áp dụng cho những ao nuôi cá có tập tính ăn quần đàn. Phương pháp này dùng số thuốc ít nên tiết kiệm được thuốc lại tiến hành đơn giản, động vật thủy sản ít bị ảnh hưởng bởi thuốc.
Hưng Yên
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Hiệu quả liên kết trong nuôi trồng thủy sản
Liên kết trong nuôi trồng thủy sản thông qua các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác đang mang lại lợi ích
kinh tế cao cho người dân trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên, góp phần phát triển bền vững ngành thủy sản.
Giai đoạn 2022 - 2024, HTX Thủy sản Hưng Phát
Sản xuất theo chuỗi giá trị
Hợp tác xã (HTX) Thủy sản Hưng Phát, xã Quang Hưng được thành lập từ năm 2017, chuyên sản xuất cá giống và nuôi cá thương phẩm.
Hiện, HTX có 24 thành viên với quy mô 45 ha. HTX trở thành điểm liên kết nông dân, sản xuất theo chuỗi giá trị, mang lại lợi nhuận bình quân 50 - 70 triệu đồng/ha và thu nhập 6 - 8 triệu đồng/tháng cho nhiều lao động.
Qua nhiều năm phát triển, HTX cũng thành công trong nhân giống nhiều loài thủy sản giá trị kinh tế cao như trắm đen, chạch sông, cá lăng, rô phi, tôm càng xanh, cua cà ra,… Giai đoạn 2022 - 2024, HTX đạt sản lượng
từ 100 đến 160 tấn cá giống/ năm, doanh thu 15 - 20 tỷ đồng, lợi nhuận hàng tỷ đồng/năm.
Đồng thời, hàng năm, HTX Thủy sản cung ứng hàng trăm
tấn thủy hải sản cho thị trường. Ngoài ra, để tạo sản lượng cung
cấp lớn ra thị trường, HTX liên kết với các trang trại trong và ngoài
tỉnh Hưng Yên với tổng diện tích
lên
đến 80.000 ha.
Theo chia sẻ của các thành
viên trong HTX, thời gian đầu khi mới triển khai đưa giống mới vào nuôi, họ gặp những khó khăn nhất định về con giống, kinh nghiệm và nhất là khâu chăm sóc. Tuy nhiên, nhờ hoạt động tham quan, chia sẻ kinh nghiệm được tiến hành
thường xuyên và liên tục, việc
sản xuất được thực hiện theo
đúng quy trình kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm của các cơ sở
nuôi, đáp ứng được nhu cầu
của thị trường.
Ngoài ra, hiện HTX thủy sản
Hưng Phát đang đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ trong sản xuất, từ quản lý, giám sát ao nuôi đến
hoạt động trao đổi giữa các
thành viên trong HTX, đặc biệt
là phát huy hiệu quả trong việc
tìm kiếm, mở rộng kênh tiêu
thụ. Trước đây, thị trường chính
của HTX là khách quen, thương
lái hay siêu thị thì hiện nay HTX
đang phát triển thêm kênh bán
hàng trên các sàn giao dịch
thương mại điện tử.
Hiệu quả và bền vững
Tận dụng lợi thế dòng sông
Hồng chảy qua địa bàn, những năm gần đây, phường Sơn Nam phát triển mạnh nghề nuôi thủy
sản lồng bè, tạo hướng đi mới trong sản xuất nông nghiệp, mang lại thu nhập cao và phát triển bền vững.
Trên địa bàn phường hiện có 6
HTX nuôi thả thủy sản trên sông, với gần 100 lồng cá. Tất cả các hộ nuôi thủy sản lồng bè đã liên
kết để xây dựng mô hình kinh tế
tập thể, sản xuất bền vững, hiệu
quả hơn. Điển hình như HTX
Thủy sản Yên Lệnh.
Hiện, HTX quản lý 14 lồng nuôi
đặt tại khu vực sông Hồng. Tất
cả các lồng đều được cấp phép
đầy đủ bởi cơ quan chức năng.
Các giống chủ lực gồm cá trắm
đen, cá chép giòn, cá lăng, cá
điêu hồng. Đây đều là những loại
thủy sản có giá trị thương phẩm
cao, được thị trường ưa chuộng.
Trung bình mỗi lồng cho sản
lượng 6 - 7 tấn/lứa, mỗi năm sản
lượng cá của HTX đạt khoảng 80
tấn cá. Thu nhập bình quân mỗi
lồng từ 30 - 40 triệu đồng/lứa, đảm bảo đời sống ổn định cho gia đình các thành viên. Bà Hoàng Thị Thỏa, Chủ tịch Hội đồng Quản trị HTX Thủy sản Yên Lệnh cho biết: “Yếu tố tạo nên thành công không chỉ nằm ở kỹ thuật nuôi cá lồng trên sông mà còn ở sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên. Từ khâu chọn giống, chăm sóc, phòng dịch đến tiêu thụ sản phẩm đều được thống nhất theo quy trình chuẩn. HTX áp dụng phương thức nuôi theo hướng an toàn sinh học: giống cá có nguồn gốc rõ ràng, thức ăn từ các công ty uy tín, môi trường nuôi được kiểm tra định kỳ. Các hộ thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật, nhất là khi thời tiết thay đổi thất thường. Nhờ vậy, tỷ lệ cá sống cao, sản phẩm có chất lượng tốt, giữ vững uy tín trên thị trường”.
Nuôi rong biển trên cạn
Làn sóng m ới từ Normandy
Mô hình nuôi rong biển trên cạn mới tại thủ phủ nuôi hàu Normandy, Pháp đang mở ra hướng đi khác biệt. Startup
Magma Seaweed đã lựa chọn cách tiếp cận độc đáo nhằm sản xuất rong biển quanh năm, đồng thời tận dụng hạ tầng sẵn có của các hộ nuôi nhuyễn thể.
hạn chế này, năm 2023, Magma
Seaweed ra đời với mục tiêu nuôi rong biển trong bể, tạo ra nguồn nguyên liệu có chất lượng đồng nhất và thu hoạch quanh năm.
Chuyển đổi nghề truyền thống
Normandy từ lâu được biết đến như trung tâm nuôi trồng nhuyễn thể lớn nhất nước Pháp, mỗi năm cung cấp hơn 25.000 tấn hàu và 16.000 tấn vẹm. Xuất thân trong một gia đình nhiều đời gắn bó với nghề nuôi hàu, Sophie Perdriel, nhà sáng lập Magma Seaweed, đã chọn cho mình một lối rẽ táo bạo: phát triển nghề nuôi rong biển trong bể cạn.
Theo bà, phần lớn rong biển ở Pháp hiện nay vẫn dựa vào khai thác tự nhiên hoặc nuôi treo dây ngoài biển. Cách làm này tiềm ẩn nhiều rủi ro: sản lượng phụ thuộc thủy triều, chịu ảnh hưởng thời tiết cực đoan, đồng thời phải đối mặt với quy định khai thác nghiêm ngặt nhằm bảo vệ nguồn lợi. Nhằm khắc phục
“Các khách hàng công nghiệp cần sự ổn định để duy trì sản xuất. Nuôi trong bể giúp chúng tôi kiểm soát được thành phần của rong, từ hàm lượng protein cho ngành thực phẩm đến
polysaccharide cho mỹ phẩm,”
Perdriel chia sẻ. Hiện công ty đang thử nghiệm nhiều dòng giống khác nhau, đồng thời điều chỉnh chế độ dinh dưỡng nhằm
tối ưu các hợp chất có giá trị cao.
Hợp tác cùng nông dân nuôi hàu Ở giai đoạn đầu, Magma
Seaweed mới hoạt động ở quy mô nghiên cứu – phát triển (R&D), nuôi thử nghiệm trong các bể nhỏ tại trung tâm Synergie Mer et Littoral (SMEL) Chỉ sau một năm, nhóm
đã thành công trong việc thích nghi rong dại với điều kiện khắc nghiệt của bể: nhiệt độ cao và lưu
lượng nước thấp hơn ngoài biển.
Trong lúc chờ giấy phép xây dựng trang trại riêng, Magma tìm đến các hộ nuôi nhuyễn thể
để hợp tác. Ý tưởng khá đơn giản nhưng hiệu quả: tận dụng những ao nuôi bỏ trống nhiều tháng trong năm, biến chúng thành bể lọc và nuôi rong Ulva. Chỉ sau khoảng một tháng, rong có thể đạt kích thước thu hoạch.
“Đây là mô hình đôi bên cùng hưởng lợi: chúng tôi có thêm không gian sản xuất, trong khi nông dân tạo ra nguồn thu nhập phụ trong thời gian nhàn rỗi,” Perdriel lý giải. Ban đầu, không ít hộ còn nghi ngại, nhưng kết quả thử nghiệm tích cực từ những người tham gia sớm đang dần thay đổi cách nhìn.
Magma Seaweed dự kiến triển khai hai hình thức hợp tác: hoặc thuê lại bể để tự sản xuất, hoặc
cùng chia sẻ doanh thu khi chính nông dân trực tiếp tham gia quy trình nuôi rong. Cách làm linh hoạt này được kỳ vọng sẽ khuyến khích nhiều hộ nuôi hàu tham gia hơn trong thời gian tới.
Mục tiêu 90 tấn/năm
Không dừng ở quy mô thử nghiệm, Perdriel đặt mục tiêu xây dựng một trang trại nuôi rong biển công nghiệp với công
suất khoảng 90 tấn/năm, đặt gần những vùng nuôi hàu lớn để tận dụng hạ tầng. Trang trại này dự kiến bao gồm các bể ngoài trời, hệ thống ống dẫn nước biển, nhà ươm giống và cả phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu. Hai loài rong được ưu tiên hiện nay là Ulva sp. và Palmaria palmata, đều có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, Perdriel còn muốn thử nghiệm nuôi Nori (Pyropia sp.) trong bể – điều chưa từng có tiền lệ ở châu Âu. Khác với nguồn Nori giá rẻ từ châu Á, Magma định hướng phát triển sản phẩm Nori mang tính đặc trưng, thậm chí hướng đến chiết xuất phục vụ ngành mỹ phẩm sinh thái. Theo Perdriel, lợi ích của mô hình này không chỉ nằm ở thương hiệu “ Made in France” mà còn góp phần giảm phát thải CO2 nhờ rút ngắn chuỗi vận chuyển. “Rong biển nuôi ở Normandy, chế biến ngay trong nước, chắc chắn thân thiện môi trường hơn nhiều so với nhập khẩu từ Chile hay châu Á,” bà nhấn mạnh. Hiện Magma Seaweed đang được hỗ trợ bằng các khoản trợ cấp và vay ưu đãi lãi suất 0%. Công ty dự kiến huy động khoảng 300.000 EUR để mở rộng sản xuất tại các bể lọc của nông dân, trước khi kêu gọi thêm 4 triệu EUR xây dựng trang trại công nghiệp, kỳ vọng sẽ đi vào vận hành từ năm 2027. Dù thừa nhận còn nhiều thách thức phía trước, Perdriel vẫn kiên định với lựa chọn của mình: “Tôi sinh ra trong một gia đình nuôi hàu có tầm nhìn xa. Có thể tôi hơi bướng bỉnh, nhưng tôi tin nuôi rong biển trên cạn là hướng đi tất yếu, không chỉ cho Normandy mà còn cho nhiều vùng ven biển khác.”
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Biện pháp kỹ thuật phòng chống
bệnh sữa trên tôm hùm
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra sức khỏe tôm hùm
Bệnh sữa là một trong những
bệnh nguy hiểm thường xảy ra trên tôm hùm nuôi, nếu không
biết cách phòng, điều trị hiệu quả người nuôi sẽ thiệt hại nặng nề.
Tác nhân gây bệnh
Ảnh: ST
Bệnh do vi khuẩn ký sinh nội bào giống như Rickettsia ( Rickettsia like bacteriaRLB) gây ra.
Đặc điểm dịch tễ
Loài cảm nhiễm: Các loài tôm hùm được nuôi ở khu vực Nam Trung bộ thuộc họ tôm hùm gai Palinuridae, giống Panulirus gồm một số loài: tôm hùm bông (Panulirus ornatus), tôm hùm đá (P. homarus), tôm hùm tre (P. polyphagus).
Mùa xuất hiện bệnh: Bệnh thường xuất hiện bắt đầu từ tháng 4, bùng phát vào giữa mùa mưa (tháng 9 - 10).
Đường lây truyền: Bệnh lây truyền từ thức ăn bị ôi thiu, có mang mầm bệnh; từ tôm bị bệnh lây truyền sang tôm khỏe trong cùng một lồng hoặc gián tiếp qua môi trường nhiễm bệnh; từ lồng, bè có tôm bệnh sang lồng, bè khác trong vùng nuôi,. Đặc điểm bệnh lý
- Tôm bệnh hoạt động kém, ít phản ứng với những tác động xung quanh.
- Tôm giảm ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn.
- Sau 3 - 5 ngày bị nhiễm bệnh, các đốt ở phần bụng của tôm chuyển từ “trắng trong” sang “trắng đục”.
- Mô cơ ở phần bụng chuyển sang màu trắng đục hay vàng đục, nhão, có mùi hôi.
- Dịch tiết của cơ thể (bao gồm cả máu) có màu trắng đục như sữa, số lượng tế bào máu giảm nhiều so với tôm bình thường, máu khó đông.
- Gan tụy chuyển màu nhợt nhạt và có trường hợp bị hoại tử.
- Ở mô liên kết gan tụy và trong máu tôm bị bệnh có từng đám dày đặc vi khuẩn ký sinh nội bào giống như Rickettsia
- Tôm chết sau khoảng thời gian trung bình 9 - 12 ngày kể khi nhiễm tác nhân gây bệnh.
Chẩn đoán bệnh
- Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của tôm bệnh.
- Chẩn đoán nhanh bằng phương pháp nhuộm mẫu tươi:
Dùng xi lanh 1 mL hút 0,1 - 0,2 mL máu từ tim của tôm bằng cách chọc mũi kim qua gốc của chân ngực số 5.
+ Nhỏ mẫu máu tôm thu được lên lam kính rồi dàn mỏng bằng lamen.
+ Để khô mẫu tự nhiên, hoặc hơ nhẹ lam kính lên ngọn lửa đèn cồn.
+ Cố định mẫu bằng cách nhúng lam kính 2 lần vào dung dịch methanol.
+ Nhuộm mẫu bằng dung dịch Giemsa trong 10 phút.
+ Rửa mẫu bằng dung dịch đệm Sorensen (pH = 6,8) trong 3 - 5 phút.
+ Quan sát mẫu đã nhuộm bằng kính hiển vi với độ phóng đại 400 - 1.000 x để phát hiện vi khuẩn giống như Rickettsia dạng hình que cong trong mẫu.
- Phương pháp mô bệnh học:
+ Trên mẫu tôm còn sống tiến hành giải phẫu để thu các mô đích: Gan tụy, mang, dạ dày.
+ Cố định trong dung dịch Davidson với tỷ lệ thể tích 1/10, nếu khối mô lớn cần tiêm thuốc cố định vào trước khi ngâm trong thuốc cố định.
+ Giữ trong dung dịch cố định từ 36 - 48 giờ, bảo quản trong cồn 70%.
+ Sau đó tiến hành cắt mẫu và nhuộm bằng Haematoxylin và Eosin theo phương pháp của tác giả Lightner (1996).
+ Quan sát mẫu đã nhuộm bằng kính hiển vi với độ phóng đại 400 - 1.000 x để phát hiện vi khuẩn giống như Rickettsia (RLB) dạng hình que cong trong mẫu.
- Phương pháp sinh học phân tử (PCR): Bệnh sữa trên tôm hùm có thể chẩn đoán bằng phương pháp sinh học phân tử (tham khảo quy trình của tác giả Lightner (2008) và của Tổ chức Thú y thế giới (OIE)).
Phòng chống dịch bệnh
- Chỉ nuôi trong vùng quy hoạch của địa phương.
- Địa điểm nuôi cách xa các cửa sông để tránh nước ngọt từ sông đổ ra trong mùa mưa làm giảm độ mặn gây sốc hoặc có thể nước sông bị ô nhiễm, có các chất độc hại.
- Đặt lồng nuôi tôm ở nơi có độ sâu tối thiểu khi triều thấp là 4 m (đối với nuôi lồng găm) hoặc từ 4 - 8 m (đối với nuôi lồng nổi).
- Khoảng cách giữa các lồng nuôi tôm trong cùng một bè phải đảm bảo tối thiểu 1 m; khoảng cách giữa các bè nuôi tôm phải đảm bảo tối thiểu 50 m.
- Lựa chọn tôm hùm giống đạt chất lượng tốt, khỏe mạnh; thời gian lưu giữ tôm giống từ thời điểm kết thúc khai thác ở biển đến thời điểm thả ương nuôi không quá 48 giờ.
- Khi thả giống cần đảm bảo các điều kiện để tôm giống thích nghi với môi trường nước mới, không bị sốc nhiệt độ, độ mặn.
- Thức ăn cho tôm tùm cần đảm bảo tươi, được bảo quản tốt, được sát trùng bằng cách
ngâm thuốc tím nồng độ 3 - 5 mg/L, thời gian 15 - 30 phút, sau đó rửa qua nước ngọt sạch trước khi cho tôm ăn.
- Bổ sung premix (các loại vitamin trong đó có Vitamin C, axit amin, khoáng chất), hoạt chất MOS (sản phẩm thu được từ các vách tế bào nấm men S accharomyces cerevisiae có thành phần đạm thô 15 - 30%, chất béo thô 0,7 - 1,4%, Fiber thô 6 - 13%), men tiêu hóa, trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm.
- Thường xuyên theo dõi tình hình sức khỏe tôm, loại bỏ cá thể yếu, tăng cường vỏ lột xác và thức ăn dư thừa sau 2 đến 3 giờ cho ăn
để hạn chế nguy cơ lây lan mầm bệnh, làm ô nhiễm cục bộ nền đáy và điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ. Định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bịt lỗ lưới. - Không di chuyển lồng bè từ vùng nuôi có tôm bệnh sang vùng nuôi chưa xuất hiện bệnh nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh.
- Trong quá trình đánh bắt, phân cỡ đàn tôm thao tác cần nhẹ nhàng, tránh xây xát cho tôm. Nếu để tôm bị tổn thương, các vi sinh vật gây bệnh sẵn có trong môi trường dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua các vùng tổn thương này.
Điều trị bệnh
Nguyên tắc điều trị: Chỉ điều trị tôm hùm bị bệnh nhẹ, khi dịch bệnh mới xuất hiện để hạn chế lây lan.
Phác đồ điều trị: Thực hiện theo TBKT 0302:2017/BNNPTNT “Giải pháp điều trị bệnh sữa và bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi lồng” ban hành theo Quyết định số 637/QĐ-TCTSKHCN&HTQT, ngày 26/7/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư). Cụ thể:
Bước 1: Tách và tiêu hủy các cá thể bị bệnh nặng, chỉ giữ lại những cá thể còn ăn được thức ăn để tiến hành điều trị.
Bước 2: Cho tôm ăn thức ăn trộn với kháng sinh Tetracyclin (thuốc dùng trong thú y) có bổ sung hoạt chất sinh học và chất kết dính.
Thứ tự thực hiện gồm chọn thức ăn tươi sống (cá liệt, cá mối,…) và cắt thức ăn thành từng miếng nhỏ phù hợp cỡ miệng tôm hùm theo từng giai đoạn nuôi. Lưu ý rửa thức ăn bằng thuốc tím nồng độ 2 - 3 ppm và để ráo thức ăn trong 10 phút trước khi cắt thành miếng nhỏ. Sau đó, trộn thức ăn thức ăn đã được cắt thành các miếng nhỏ với thuốc kháng sinh Tetracyclin (dùng trong thú y thủy sản), hoạt chất sinh học (MOS) và chất kết dính (Binder) theo tỷ lệ 5 g kháng sinh + 5 g hoạt chất sinh học + 5 g chất kết dính/1 kg thức ăn. Tiến hành cho tôm ăn thức ăn đã được trộn thuốc liên tục trong 7 ngày, mỗi ngày 1 lần vào 1718 giờ.
Sau 7 ngày dùng thuốc, nếu thấy tôm vẫn còn bệnh thì tiếp tục cho tôm ăn thức ăn có trộn thuốc trong vòng 3 ngày, mỗi ngày 1 lần vào lúc 17 - 18 giờ (trộn thức ăn như bước 2 nhưng giảm một nửa lượng kháng sinh Tetracyclin: tỷ lệ 2,5 g/1 kg thức ăn). Lưu ý tách những cá thể bị bệnh nặng ra khỏi lồng nuôi như bước 1.
Bước 3: Cho tôm ăn thức ăn bổ sung chế phẩm và hoạt chất sinh học (tiến hành ngay sau khi kết thúc bước 2). Cụ thể, người nuôi trộn thức ăn (thức ăn đã được xử lý như bước 2) với chế phẩm sinh học (có thành phần Bacillus spp, Lactobacillus spp, hàm lượng 10 3 cfu/g), hoạt chất sinh học (MOS) và chất kết dính (Binder) theo tỷ lệ: 5 g chế phẩm sinh học + 5 g hoạt chất sinh học + 5 g chất kết dính/1 kg thức ăn. Sau đó, cho tôm ăn thức ăn đã được trộn chế phẩm và hoạt chất sinh học liên tục trong vòng 7 - 10 ngày, mỗi ngày 1 lần vào lúc 17 - 18 giờ.
Người nuôi lưu ý, chỉ thu hoạch tôm sau ít nhất 22 ngày sử dụng kháng sinh Tetracyclin để điều trị bệnh sữa trên tôm hùm nuôi lồng. Thanh Hiếu