NCN 107 final

Page 1


NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 107 - 10/2025

CƠ QUAN CHỦ QUẢN

Hiệp hội Gia cầm Việt Nam

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

TS. Nguyễn Thanh Sơn

TS. Nguyễn Quý Khiêm

Nhà báo Dương Xuân Hùng

Nhà báo Đỗ Huy Hoàn

Thư ký tòa soạn Nguyễn Chi

TỔNG BIÊN TẬP

TS. Nguyễn Thanh Sơn

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP

Nhà báo Đỗ Huy Hoàn

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

GS.TS. Nguyễn Duy Hoan; PGS.TS. Phạm Kim Đăng; PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn; PGS.TS. Ngô Thị Kim Cúc; PGS.TS. Lê Văn Năm; TS. Lê Minh Lịnh; TS. Bạch Quốc Thắng; TS. Hoàng Tuấn Thành

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Thu Hồng; Vũ Mưa; Kim Tiến; Phan Thanh Cường; Nguyên Anh; Hoàng Vũ; Minh Thanh; Dương Nghĩa; Lê Cung; Thùy Khánh; Sao Mai; Quỳnh Nga...

MỸ THUẬT: Nguyễn Nam Sơn

KỸ THUẬT VI TÍNH: Phạm Dương TÒA SOẠN

P906, tầng 9, Tòa nhà CT4, The Pride, KDT An Hưng, phường Hà Đông, Hà Nội.

Điện thoại: 0243 77 11 756; Email: nguoichannuoivn@gmail.com Website: nguoichannuoi.vn

TRỊ SỰ Nguyễn Thanh Đức

GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: 156/GP-XBĐS

Khuôn khổ: 24,5 x 31 cm

Nơi in: Công ty TNHH MTV Quân đội I và Công ty Cổ phần In Sao Việt

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO:

Ms. Ánh: 0963 555 554

Ms. Ngọc: 098 999 1977

Ms. Na: 0978 233 492

Email: quangcaoncn@gmail.com

LIÊN HỆ ĐẶT BÁO:

Ms. Ngọc Ánh: 0963 555 554

Email: phathanhtggc@mail.com

SỐ TÀI KHOẢN: 261.10.00.3454936

Tên tài khoản ngân hàng: TẠP CHÍ THẾ GIỚI GIA CẦM

Tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Chi nhánh Tràng An Swift code: BIDV VNVX. CITAD: 012022001

Địa chỉ Ngân hàng: Số 11 Cửa Bắc, phường Ba Đình, TP. Hà Nội Ấn phẩm sử dụng sản phẩm giấy thân thiện với môi trường.

Thưa quý vị bạn đọc!

Dân số toàn cầu ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về các sản phẩm chăn nuôi tăng cao, thúc đẩy đáng kể thị trường thức ăn chăn nuôi (TĂCN) trong đó có Việt Nam. Hiện tại, cả nước có khoảng 260 - 270 nhà máy TĂCN, với doanh nghiệp trong nước chiếm số lượng lớn. Sản lượng duy trì ở mức 19 - 22 triệu tấn/năm, đáp ứng 50 - 60% công suất thiết kế. Về sản lượng TĂCN công nghiệp, Việt Nam đạt 21,5 triệu tấn (chưa tính thủy sản), đứng thứ nhất Đông Nam Á và thứ 8 thế giới.

Tuy nhiên, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam hiện nay chịu tác động từ rất nhiều yếu tố bên ngoài, từ xung đột địa chính trị, vận tải biển, cho đến chính sách thương mại của các quốc gia xuất khẩu nguyên liệu. Mỗi năm Việt Nam vẫn phải chi hơn 9 tỷ USD để nhập khẩu trên 20 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trong đó 85% là ngô, đậu tương và lúa mì. Vậy, cần những giải pháp căn cơ nào để có thể giải quyết bài toán nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi? Đại diện phía doanh nghiệp, ông Bùi Đức Huyên, Tổng Giám đốc Công ty Việt Tín cho rằng, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa “4 nhà”, đó là: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông - Doanh nghiệp. Trong đó, vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng ở khâu quy hoạch vùng nguyên liệu đủ lớn, có chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ vốn, tín dụng và hạ tầng logistics. Mặt khác, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong gieo trồng để nâng cao năng suất, giảm chi phí, từ đó tạo được sản phẩm có chất lượng và giá cả cạnh tranh so với nguồn nhập khẩu.

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh thị trường biến động, cân bằng giá thành và chất lượng thức ăn chăn nuôi không chỉ là bài toán kinh tế mà còn là chiến lược dài hạn. Giảm chi phí nhưng không đánh đổi dinh dưỡng, chủ động nguồn cung trong nước và ứng dụng công nghệ là con đường để ngành chăn nuôi Việt Nam tối ưu hóa lợi nhuận, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động. Thị trường sản xuất TĂCN của thế giới cũng như Việt Nam

được dự báo vẫn còn nhiều dư địa để phát triển, khi dân số toàn cầu ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về các sản phẩm chăn nuôi tăng cao, thúc đẩy đáng kể thị trường TĂCN. Nhưng để phát triển bền vững, nhiều giải pháp đã được khuyến nghị trong đó nổi bật là việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Trong bối cảnh giá đậu nành, ngô hay bột cá biến động mạnh, đồng thời gia tăng cạnh tranh giữa sản xuất thực phẩm cho người và vật nuôi, AI nổi lên như công cụ thay đổi cuộc chơi.

Những nội dung này đã được Đặc san Người Chăn nuôi phản ánh sâu sắc qua các tuyến bài chuyên sâu, những phân tích đa chiều của các chuyên gia, nhà khoa học trên số báo phát hành kỳ tháng 10 này. Mời quý độc giả đón đọc!

Ngoài ra, trong tháng 10 này ngành chăn nuôi thế giới cũng như Việt Nam sẽ diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, điển hình như Ngày Trứng Thế giới, Hội chợ triển lãm VietStock…; hứa hẹn thu hút sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, người nuôi, đối tác, khách hàng.

Trân trọng!

NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 107 - 10/2025

Chuyển từ sản xuất sang kinh tế đa giá trị

Theo dự thảo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường tại cuộc họp với Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà mới đây, sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngành nông nghiệp đã chuyển đổi tư duy từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp, từ phát triển đơn ngành sang hợp tác, phát triển đa ngành, tích hợp đa giá trị; chuyển từ chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển các chuỗi ngành hàng.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh, định hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới là đa mục tiêu, đa giá trị bao gồm công nghiệp, dịch vụ, du lịch, dược liệu, kinh tế carbon, kinh tế xanh, chế biến sâu, phát triển chuỗi giá trị… Nông thôn phải được quy hoạch tổng thể, gắn kết với đô thị, giữ bản sắc văn hóa. Các chính sách cần ưu tiên vùng sâu, vùng xa, gắn phát triển kinh tế với giảm nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp nước sạch, thiết chế văn hóa, đào tạo nhân lực. Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần làm rõ các giải pháp nhằm tăng cường liên kết kinh tế tập thể, hợp tác xã, doanh

VIỆT NAM - CUBA

Mở rộng hợp tác lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản

Từ ngày 13 - 18/9, đoàn công tác Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam do Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn đầu đã thăm, làm việc tại Cuba. Hai bên đánh giá cao kết quả hợp tác lâu năm trong sản xuất lúa gạo, đồng thời thống nhất mở rộng sang các lĩnh vực mới như chăn nuôi, thủy sản, sản xuất thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và công nghệ sinh học. Nhân dịp này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đã trao tặng phía Cuba 5.000 liều tinh trùng bò nhằm hỗ trợ cải thiện giống, nâng cao năng suất chăn nuôi. Hai bên nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp trong giai đoạn tiếp theo, khuyến khích đầu tư vào Cuba với các dự án trồng lúa, chăn nuôi gia súc - gia cầm, nuôi trồng thủy sản và sản xuất chế phẩm sinh học.

NAM LINH

VIỆT NAM - CAMPUCHIA

Hợp tác nông nghiệp, hướng tới

kim ngạch 20 tỷ USD

Ngày 17/9, tại Phnom Penh (Campuchia), Hội chợ Nông nghiệp, Chăn nuôi, Thủy sản, Thực phẩm, Đồ uống Campuchia 2025 đã khai mạc, với sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp từ 10 quốc gia, trong đó có gần 40 doanh nghiệp Việt Nam. Trong khuôn khổ Hội chợ, Thương vụ Việt Nam tại Campuchia

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiệp và nông dân; phân loại nhóm chính sách theo đặc thù từng vùng; đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, phòng chống thiên tai.

tổ chức Diễn đàn xúc tiến thương mại, khoa học kỹ thuật nông nghiệp - chăn nuôi, thu hút nhiều hiệp hội và doanh nghiệp hai bên. Hai bên kỳ vọng kim ngạch thương mại sớm đạt 20 tỷ USD, đưa nông nghiệp - chăn nuôi trở thành trụ cột quan trọng trong quan hệ song phương.

KHÁNH NGUYỄN

Kỳ vọng tạo “luồng gió mới” trong chính sách chăn nuôi

Tại Hội thảo phổ biến, lấy ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật lĩnh vực nông nghiệp, môi trường do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 18/9, nhiều hiệp hội, doanh nghiệp đánh giá dự thảo luật đã thể hiện tinh thần cải cách, tiếp cận khoa học. Trong lĩnh vực chăn nuôi, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam đề xuất quản lý thống nhất thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản theo cùng nguyên tắc, áp dụng quản lý theo rủi ro thay vì coi mọi vật tư nông nghiệp là nguy hiểm như nhau. Ông cũng kiến nghị

không cần cấp phép riêng cho cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi xuất khẩu và nên phân cấp thẩm quyền cho địa phương để giảm thủ tục hành chính.

MINH KHUÊ

Tăng cường hợp tác nghiên cứu vaccine, kiểm soát dịch bệnh chăn nuôi

Ngày 29/9 tại buổi tiếp và làm việc với đoàn Công ty CP Công nghệ Sinh học Kim Vũ (Jinyu Bio-Technology, Trung Quốc), Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, Việt Nam đã hình thành nhiều cơ sở nghiên cứu, phát triển thuốc và vaccine thú y, Việt Nam hoan nghênh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực ngành chăn nuôi, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và phát triển bền vững. Ông Trương Sùng Vũ, Chủ tịch HĐQT Kim Vũ thông tin, Công ty đang nghiên cứu nhiều loại vaccine thế hệ mới như vaccine tiểu đơn vị protein tái tổ hợp, vaccine mRNA và vaccine kỹ thuật số, trong đó một số đã được phê duyệt thử nghiệm lâm sàng. Kim Vũ kỳ vọng sớm hợp tác với Việt Nam để chuyển giao công nghệ, góp phần kiểm soát dịch bệnh và nâng cao năng lực thú y.

Tìm hướng đi bền vững cho ngành bò sữa Việt Nam

Ngành bò sữa Việt Nam đang đối mặt nhiều thách thức: đàn bò suy giảm, chi phí sản xuất cao, phụ thuộc giống nhập khẩu, tiêu thụ sữa trong nước thấp (chỉ 24 lít/ người/năm, thấp hơn thế giới 77%). Tại Tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục phát triển đàn bò sữa” diễn ra ngày 23/9 ở Hà Nội, các chuyên gia nhấn mạnh nguy cơ mất thành quả nhiều thập kỷ nếu không có giải pháp kịp thời. Nguyên nhân chính là đô thị

NAM LINH

hóa, cạnh tranh sữa nhập khẩu, chi phí thức ăn tăng, nông hộ ít tiếng nói khi đàm phán giá. Doanh nghiệp và nông hộ kiến nghị Nhà nước cần quy hoạch vùng chăn nuôi, hỗ trợ cải tạo giống, mở rộng tín dụng, bảo hiểm, đồng thời ban hành “Chương trình quốc gia phát triển ngành sữa bền vững”.

HOÀNG LAN

Hơn 500 nông dân tham gia tập huấn chăn nuôi an toàn sinh học

Trong tháng 8/2025, Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế và Viện Thú y Quốc gia phối hợp với tỉnh Lào Cai và Phú Thọ tổ chức tập huấn chăn nuôi an toàn sinh học cho 518 nông dân tại 12 xã, trong đó có 57% là phụ nữ, cùng 32 bác sĩ và cán bộ thú y. Chương trình nằm trong dự án ICT4Health, tập trung thực hành tại bốn “trạm học tập” về an toàn sinh học, tiêm phòng, sử dụng kháng sinh hợp lý và ứng dụng FarmVetCare. Qua đó, 259 hộ được cấp gói hỗ trợ gồm quần áo bảo hộ, thuốc khử trùng, bình xịt và biển cảnh báo. Điểm nhấn là ứng dụng FarmVetCare, giúp nông dân kết nối bác sĩ thú y, lưu trữ hồ sơ đàn vật nuôi và nhận cảnh báo dịch bệnh. MINH THU

SƠN LA 37 ổ dịch tả heo châu Phi chưa được khống chế

Từ đầu năm đến nay, dịch tả heo châu Phi tại Sơn La đã bùng phát tại 263 tổ, bản, thuộc 44 xã; tiêu hủy hơn 8.200 con heo mắc bệnh, với khối lượng hơn 420 tấn. Hiện vẫn còn 37 ổ dịch chưa được khống chế. Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh đang phối hợp với các địa phương rà soát tổng đàn heo để lên kế hoạch tiêm phòng vaccine cho khoảng 25.000 con heo thịt khỏe mạnh từ 4 tuần tuổi trở lên. Việc tiêm phòng sẽ không áp dụng cho heo ở vùng dịch hoặc vùng bị dịch uy hiếp. Ngoài ra, Chi cục sẽ cấp 7.000 lít hóa chất để tổng vệ sinh, khử trùng, tiêu độc môi trường định kỳ tiêu diệt mầm bệnh.BẢO TRÂM

PHÚ THỌ

Đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung

Hiện nay, tổng đàn gia cầm toàn tỉnh Phú Thọ đạt khoảng 37,7 triệu con, trong đó đàn gà 31,8 triệu con; sản lượng trứng đạt gần 1,5

tỷ quả/năm. Phú Thọ đang là tỉnh có tổng đàn gia cầm trong top 5 cả nước. Toàn tỉnh hiện có trên 5.200 trang trại chăn nuôi tập trung, trong đó gần 2.000 trang trại chăn nuôi gia cầm; số lượng gà được chăn nuôi theo hình thức tập trung chiếm trên 32% tổng đàn. Những con số này cho thấy chăn nuôi gia cầm trên địa bàn tỉnh đang phát triển mạnh theo hướng tập trung, hiện đại, bền vững; ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng…

HÀ NỘI Xóa sạch giết mổ nhỏ lẻ vào năm 2030

Theo đó, giai đoạn 1 (tháng 9 - 12/2025), Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ tập trung rà soát, lập danh sách, đánh giá các cơ sở giết mổ hiện có. Chọn lựa đề xuất cơ sở giết mổ được phép tiếp tục hoạt động và cơ sở giết mổ cần xây dựng mới; báo cáo UBND thành phố điều chỉnh mạng lưới các cơ sở giết mổ tập trung phù hợp. Trong giai đoạn 2 (thực hiện trong năm 2026), Sở sẽ tiến hành cập nhật, bổ sung hệ thống giết mổ tập trung phù hợp nhu cầu tiêu dùng, định hướng phát triển đô thị và nông thôn. Sở phấn đấu đến giai đoạn 3 (năm 2026 - 2030), sẽ chấm dứt hoạt động 100% cơ sở giết mổ nhỏ lẻ, tự phát, không đủ điều kiện vệ sinh thú y, an toàn thực phẩm, không đảm bảo điều kiện bảo vệ môi trường. VŨ PHƯƠNG

HẢI PHÒNG

Gần 400.000 tấn chất thải rắn từ chăn nuôi

Theo thống kê của thành phố Hải Phòng, hiện toàn thành phố có hơn 2.300 trang trại và gần 37.000 hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Ước tính mỗi năm phát sinh khoảng 399.000 tấn chất thải rắn, bao gồm chất độn chuồng, thức ăn dư thừa hoặc rơi vãi. Trong đó, khu vực phía Đông thành phố Hải Phòng có khoảng 86.330 tấn chất thải từ heo, 312.910 tấn chất thải từ các loại gia súc, gia cầm, khác như trâu, bò, dê, gà, vịt… Chất thải của gia súc, gia cầm mỗi năm ở khu vực phía Tây thành phố khoảng hơn 1,5 triệu tấn; trong đó chất thải của heo là 1 triệu tấn (chiếm 66%), chất thải gia cầm 0,35 triệu tấn (23%), chất thải trâu, bò 0,15 triệu tấn (11%)…

HÀ MY

TIN TỨC & SỰ KIỆN

CHĂN NUÔI SỐ 107 - 10/2025

▶ Hiện cả nước có 98,65% cơ sở sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản được chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm; hơn 99% mẫu thực phẩm giám sát đạt yêu cầu; trên 93% cơ sở ký cam kết tuân thủ quy định. Mỗi năm, ngành nông nghiệp tổ chức khoảng 25.000 - 30.000 lượt thanh tra, kiểm tra, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ của doanh nghiệp.

▶ Tỉnh Hưng Yên đang triển khai Đề án phát triển chăn nuôi An toàn sinh học, VietGAHP giai đoạn 20202025, định hướng đến 2030. Từ năm 2020 đến nay, Sở Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức gần 90 lớp tập huấn kỹ thuật cho hơn 4.500 lượt người; hỗ trợ hơn 110 hộ chăn nuôi áp dụng quy trình An toàn sinh học và VietGAHP; trang bị 6 máy tách ép phân và gần 10 hầm biogas để xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.

▶ Theo Trung tâm Khuyến nông Nghệ An, 5 năm 2021 - 2025, toàn tỉnh đã thực hiện 84 mô hình khuyến nông. Trong đó, Trung tâm đã tổ chức 4 mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng trang trại có kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ môi trường, gắn với liên kết chế biến và tiêu thụ.

▶ Trong 9 tháng đầu năm, tổng đàn chăn nuôi của tỉnh Hà Tĩnh cơ bản ổn định: heo 400.100 con, hươu 51.000 con, gia cầm 10,25 triệu con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 88.774 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ; trứng 279,6 triệu quả, tăng 3,6%; nhung hươu 21,5 tấn, tăng 6,4%. Công tác phòng, chống dịch bệnh được tập trung chỉ đạo quyết liệt.

▶ Hiện tổng đàn heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đạt gần 4,2 triệu con, tổng đàn gia cầm đạt 35,9 triệu con; tổng đàn thủy cầm hơn 3,6 triệu con, hơn 190 nghìn con dê, khoảng 170,5 nghìn con trâu, bò. Đặc biệt, trên địa bàn tỉnh có khoảng 3 nghìn nhà nuôi yến, đứng đầu khu vực Đông Nam bộ về quy mô và sản lượng. Hiện đây là mô hình thuộc top đầu về hiệu quả kinh tế cao.

KIM NGÂN

CHĂN NUÔI KHÔNG KHÁNG SINH

Xu hướng của hiện tại và tương lai

Kháng kháng sinh trên động vật là một vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt trong chăn nuôi và thú y. Việc sử dụng kháng sinh quá mức hoặc không

đúng cách để phòng và trị bệnh cho vật nuôi làm xuất hiện và lan rộng các chủng vi sinh vật kháng thuốc. Hệ quả là làm giảm hiệu quả điều trị bệnh ở cả người và động vật, ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm, sức khỏe cộng đồng và gây tổn thất kinh tế trong ngành chăn nuôi.

Mối quan tâm toàn cầu

Kháng kháng sinh là vấn đề rất lớn và được toàn cầu rất quan tâm vì nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, động vật, gây mất an toàn thực phẩm và ô nhiễm môi trường. Tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng, chưa có dấu hiệu dừng lại và cần cảnh báo ở mức độ rất quan ngại ở nhiều quốc gia trên thế giới...

Theo các nghiên cứu, sau khi động vật đã được cho ăn kháng sinh trong một khoảng thời gian, chúng vẫn giữ các chủng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh. Những vi khuẩn này sinh sôi nảy nở trong động vật. Thông qua sự tương tác, các vi khuẩn kháng kháng sinh được truyền cho các loài động vật khác, do đó tạo thành một quần thể của vi khuẩn kháng kháng sinh. Truyền dẫn xảy ra khi vi khuẩn vào đường tiêu hóa. Cùng với các nguồn ô nhiễm trước đây, con người có thể bị nhiễm do ăn thịt từ động vật với các vi khuẩn kháng thuốc.

PGS.TS Võ Thị Trà An đến từ Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh chia sẻ, vi khuẩn kháng thuốc không chỉ xuất hiện trong bệnh phẩm từ người, mà còn hiện diện trong thịt, trứng, sữa - những sản phẩm chăn nuôi quen thuộc. Nghiên cứu quốc tế và trong nước cho thấy, Salmonella, E. coli, Staphylococcus aureus, Clostridium, Pasteurella multocida, Actinobacillus pleuropneumoniae… đều ghi nhận tỷ lệ kháng kháng sinh cao, từ 70% trở lên, có trường hợp đa kháng thuốc. Để triển khai hiệu quả các hoạt động phòng, chống kháng kháng sinh trong chăn nuôi, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Quyết định số 3609/QĐBNN-TY về Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống kháng kháng sinh trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025; với mục tiêu giảm thiểu nguy cơ về kháng kháng sinh cho cộng đồng thông qua việc quản lý sử dụng kháng sinh và kiểm soát kháng kháng sinh trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam.

Việt Nam đã không cho phép sử dụng kháng sinh với mục đích kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi từ 1/1/2018 và đang trong lộ trình giảm sử dụng kháng sinh để phòng bệnh cho vật nuôi và sẽ cấm hoàn toàn việc sử dụng kháng sinh với mục đích phòng bệnh trong chăn nuôi kể từ 1/1/2026 theo quy định tại Nghị định số 13/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Trong lộ trình giảm sử dụng kháng sinh, dự kiến đến ngày 1/1/2026, Việt Nam sẽ cấm sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi để phòng bệnh và chỉ sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi để điều trị bệnh.

Bộ Y tế cũng thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống kháng kháng sinh (20202025) nhằm cụ thể hóa Quyết định 1121/QĐTTg về Chiến lược quốc gia phòng, chống kháng thuốc giai đoạn 2023 - 2030, tầm nhìn 2045, trong đó ưu tiên ngăn chặn lạm dụng kháng sinh ở cả người và vật nuôi.

Sử dụng có trách nhiệm

Việc sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi đã tạo điều kiện cho sự phát triển của

chăn nuôi thâm canh và đã giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về protein động vật trên toàn cầu. Tuy nhiên, việc sử dụng rộng rãi thuốc kháng sinh trong thú y sẽ dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe động vật và sức khỏe con người. Giám sát toàn cầu của sử dụng thuốc kháng sinh là cần thiết. Trước tiên, để theo dõi tiến trình giảm sự phụ thuộc của nông nghiệp vào thuốc kháng sinh. Thứ hai, để xác định các quốc gia cần nỗ lực quản lý thuốc kháng sinh, nhằm mục đích hạn chế tình trạng kháng kháng sinh. Toàn cầu đang sử dụng những chính sách và nỗ lực quản lý để hạn chế tình trạng sử dụng kháng sinh quá mức. Ví dụ, trong thuốc kháng sinh ở các nước Bắc Âu chỉ có thể được mua theo đơn của bác sĩ thú y và phải tuân theo các hướng dẫn về điều trị bằng kháng sinh cho động vật (khi nào điều trị, liều lượng, lộ trình quản lý…)

Tuy nhiên, chính sách quản lý việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi ở các châu lục khác vẫn rất khác nhau giữa các quốc gia. Đối với Brazil nước xuất khẩu thịt lớn nhất

trên thế giới, phần lớn vẫn thiếu khung pháp lý về sử dụng thuốc kháng sinh. Ngược lại, các nhà sản xuất thịt lớn khác như Trung Quốc gần đây đã thực hiện các chiến lược cấm dùng colistin làm phụ gia thức ăn chăn nuôi vào năm 2017. Do đó, ước tính toàn cầu về việc sử dụng thuốc kháng sinh ở động vật cần phải được sửa đổi thường xuyên và các xu hướng mới phải được giải thích theo bối cảnh pháp lý luôn thay đổi này.

Hiện nay giải pháp sử dụng phụ gia chiết xuất từ thực vật cũng là hướng đi của ngành chăn nuôi tại nhiều nước tiên tiến, với mục tiêu chăn nuôi theo định hướng hữu cơ, tạo ra nguồn thực phẩm an toàn, thân thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe đàn vật nuôi và cao nhất là tạo ra nguồn thực phẩm xanh, không dư lượng kháng sinh và tồn dư hóa chất cung cấp cho người tiêu dùng.

Tại Việt Nam, mới đây Công ty CP TVOne Việt Nam đã khánh thành nhà máy sản xuất phụ gia thức ăn chăn nuôi từ chiết xuất thực vật (Phytogenics), chính thức ghi tên Việt Nam lên bản đồ thế giới về khả năng tự chủ trong sản xuất phụ gia và giải pháp thay thế kháng sinh từ chiết xuất thực vật và là bước đột phá, cung cấp một giải pháp toàn diện và bền vững cho ngành chăn nuôi Việt Nam. Sự kiện diễn ra trong bối cảnh ngành chăn nuôi đang đẩy mạnh việc tìm kiếm các giải pháp thay thế kháng sinh theo Luật Chăn nuôi. Việc nhà máy đi vào hoạt động được xem là một bước tiến chiến lược, cung cấp giải pháp hiệu quả, góp phần xây dựng nền nông nghiệp an toàn, không kháng sinh.

Với gần 270 nhà máy thức ăn chăn nuôi, sản lượng trung bình 21 - 22 triệu tấn/năm, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn nhưng cũng còn nhiều thách thức, đặc biệt là về nguồn nguyên liệu; do đó, nếu không có đổi mới sáng tạo thì không thể cạnh tranh và phát triển bền vững được. Nhà máy của TVOne là một giải pháp đột phá, tạo ra lợi thế cạnh tranh, với sản phẩm khác biệt phục vụ trong nước, hướng đến xuất khẩu, tạo ra giá trị cho ngành chăn nuôi. Sự phát triển này đúng với định hướng trong Đề án phát triển công nghiệp thức ăn chăn nuôi nằm trong Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 - 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cụ thể, đó là thúc đẩy những lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam như nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chiết xuất thảo dược, tảo biển, phụ phẩm… để giảm nhập khẩu từ nước ngoài.

VÂN ANH

BẢN MỚI

☐ Ngày 12/9/2025, Cục Chăn nuôi và Thú y có văn bản số 2481/CNTYDT về việc cập nhật tình hình lưu hành virus Dịch tả heo châu Phi (ASF) và hướng dẫn việc sử dụng vaccine nhằm tăng cường hiệu quả phòng, chống dịch. Theo đó, năm 2025, tổng số đã có 252 mẫu virus ASF được giải trình tự gien và xác định chủng virus bằng phương pháp rRT/ PCR (191/252 mẫu), trong đó có 158/200 mẫu ở miền Bắc (chiếm 79%), 32/42 mẫu ở miền Trung và Tây Nguyên (chiếm 76%) và 6/10 mẫu ở miền Nam (chiếm 60%) thuộc chủng virus tái tổ hợp giữa genotype I và genotype II. Hiện nay, có 3 loại vaccine thương mại phòng bệnh ASF được cấp phép lưu hành (tiêm phòng cho heo thịt) gồm: Vaccine NAVET-ASFVAC của Công ty Cổ phần thuốc thú y Trung ương NAVETCO (Công ty Navetco), vaccine AVAC ASF LIVE của Công ty Cổ phần AVAC Việt Nam và vaccine Dacovet-ASF2 của Công ty CP Tập đoàn Dabaco. Đây là các vaccine được chế từ chủng virus ASF nhược độc, có tác dụng phòng bệnh do virus ASF thuộc kiểu gien II (genotype II) gây ra và không có tác dụng phòng bệnh do virus ASF có kiểu gien khác gây ra. Cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, chỉ sử dụng các loại vaccine ASF đã được cấp Giấy chứng nhận lưu hành tại Việt Nam và tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất; việc sử dụng vaccine phải phù hợp với tình hình lưu hành các chủng virus ASF trong thời gian gần đây, tình hình dịch bệnh ASF của địa phương. Tăng cường theo dõi hiệu lực ngoài thực địa, báo cáo phản ứng sau tiêm (nếu có) để cơ quan quản lý có cơ sở đánh giá hiệu quả của vaccine.

☐ Ngày 18/9/2025, HĐND tỉnh Ninh Bình ban hành Nghị quyết số 10/2025/NQ-HĐND quy định mức hỗ trợ khắc phục dịch bệnh động vật trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Cụ thể, đối với cơ sở sản xuất động vật trên cạn bị thiệt hại do dịch bệnh động vật, mức hỗ trợ như sau: trâu, bò, ngựa, dê (50.000 đồng/kg hơi); cừu, hươu sao

(55.000 đồng/kg hơi); heo (40.000 đồng/ kg hơi); gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu (35.000 đồng/kg hơi); chim cút (20.000 đồng/kg); đà điểu (50.000 đồng/kg); trứng gia cầm (20.000 đồng/kg). Ngoài ra, Nghị quyết cũng quy định mức hỗ trợ đối với người tham gia khắc phục dịch bệnh động vật từ 400.000 - 500.000 đồng/người/ngày (đối với người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước); từ 150.000 - 300.000 đồng/người/ngày (đối với người hưởng lương ngân sách nhà nước). Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 18/9/2025.

☐ Ngày 23/9/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Chỉ thị số 29/CT-TT về việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy xuất khẩu, phát triển thị trường ngoài nước. Trong đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan: Thúc đẩy sản xuất vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi để tự chủ được nguồn trong nước, góp phần hài hòa cán cân thương mại với các nước, đối tác lớn. Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển giống mới, ứng dụng công nghệ sinh học trong lai tạo giống sản phẩm mới, đặc thù, trong bảo quản sau thu hoạch nhằm tạo giá trị khác biệt cho hàng nông sản, tạo ưu thế riêng trong xuất khẩu so với các đối thủ cạnh tranh. Nâng cao chất lượng các loại sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, chỉ dẫn địa lý rõ ràng, sản xuất các loại sản phẩm carbon thấp. Biên soạn, đăng tải các tài liệu, cẩm nang về quy định liên quan tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm, SPS, quy định thị trường liên quan đến nông, lâm, thủy sản xuất khẩu sang các thị trường: Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu…

NGÀY TRỨNG THẾ GIỚI

Tôn vinh giá trị dinh dưỡng, kết nối toàn cầu

Ngày Trứng Thế giới, được tổ chức vào thứ Sáu tuần thứ hai của tháng 10 hàng năm, nhằm kêu gọi mọi người từ mọi tầng lớp trân trọng và tôn vinh những đóng góp đặc biệt của trứng đối với chế độ ăn uống và sức khỏe trên toàn thế giới.

Chủ đề năm nay là “Quả trứng quyền năng: Chứa đầy dinh dưỡng tự nhiên”, tôn vinh khả năng độc đáo của trứng trong việc cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu theo hình thức đơn giản và dễ tiếp cận.

Trứng là thực phẩm toàn phần khiêm tốn

nhưng có tác dụng hỗ trợ sức khỏe và tinh thần ở mọi giai đoạn của cuộc sống. Ngoài giá trị dinh dưỡng, trứng còn là một phần quan trọng trong nhiều truyền thống ẩm thực và chế độ ăn uống đa dạng, phản ánh tính linh

hoạt và ý nghĩa văn hóa của chúng trên khắp các châu lục.

Những thông điệp chính

Đóng gói với dinh dưỡng tự nhiên

Trứng chứa 13 chất dinh dưỡng thiết yếu

trong một thành phần đơn giản, cung cấp nền

tảng quan trọng cho sức khỏe. Được chế biến tối thiểu theo tự nhiên, trứng cung cấp toàn

bộ chất dinh dưỡng thực sự mà không cần

thêm bất kỳ thành phần nào. Trong mọi giai

đoạn của cuộc sống, trứng hỗ trợ cả sức khỏe thể chất và nhận thức, từ giai đoạn phát triển ban đầu đến quá trình lão hóa khỏe mạnh.

Khiêm tốn nhưng mạnh mẽ

Mặc dù chúng là một thành phần khiêm tốn, nhưng có vô số cách để thưởng thức

trứng. Chúng dễ dàng thích nghi với các món ăn, ẩm thực và bữa ăn trên khắp thế giới. Nhờ

tính linh hoạt tự nhiên của mình, trứng có thể

được sản xuất ở hầu hết mọi nơi, giúp hỗ trợ hệ thống thực phẩm và cộng đồng địa phương.

Dinh dưỡng cho mọi người

Protein chất lượng cao từ trứng giúp hỗ trợ sức khỏe cơ bắp, góp phần tăng cường sức mạnh, tăng trưởng và phục hồi. Choline có trong trứng hỗ trợ sự phát triển não bộ, trí nhớ và chức năng nhận thức. Đối với sức khỏe bà mẹ và thai kỳ, trứng rất giàu chất dinh dưỡng, cung cấp folate, Vitamin B12 và Vitamin D, tất cả đều rất cần thiết cho thai kỳ khỏe mạnh và sự phát triển của thai nhi. Lutein và zeaxanthin trong trứng giúp tăng cường thị lực và bảo vệ mắt khỏi những tổn thương liên quan đến tuổi tác. Vitamin D và phốt pho từ trứng giúp xương và răng chắc khỏe, hỗ trợ sức khỏe xương ở mọi lứa tuổi.

HOÀI ANH

Diễn đàn Kiến thức về Trứng 2025

Ngày 9/10/2025, trong khuôn khổ

VietStock, Hiệp hội Gia cầm Việt Nam (VPA) cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế sẽ bàn luận về những xu hướng mới trong sản xuất trứng, đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong chăn nuôi gia cầm. Bên cạnh đó, các chuyên gia đến từ các doanh nghiệp nổi bật trong ngành trứng Việt Nam và khu vực sẽ chia sẻ những góc nhìn và đổi mới trong sản xuất trứng, an toàn thực phẩm và chăn nuôi gia cầm bền vững. ➢ Trong bối cảnh thế giới đối mặt với thách thức về an ninh thực phẩm, trứng được coi là giải pháp dinh dưỡng hiệu quả và dễ tiếp cận. Ngày Trứng Thế giới cũng là dịp để các nhà sản xuất và người tiêu dùng nhìn nhận lại phương pháp chăn nuôi bền vững, từ việc nuôi gà thả tự nhiên đến phát triển các sản phẩm trứng chức năng như trứng giàu omega-3 hay trứng hữu cơ.

Khám phá cách các quốc gia kỷ niệm

Ngày Trứng Thế giới năm 2025

Châu Úc

Nông dân sản xuất trứng tại Úc sẽ tổ chức sự kiện Ngày Trứng Thế giới thường niên lần thứ hai tại Tòa nhà Quốc hội ở Canberra, quy mô sẽ lớn hơn năm ngoái.

Canada

Canada sẽ phát động chiến dịch quan hệ công chúng toàn quốc, nhằm tôn vinh 1.200 nông dân sản xuất trứng của Canada và nỗ lực của họ trong việc sản xuất trứng tươi, chất lượng cao quanh năm. Một video mới về

Ngày Trứng Thế giới với hình ảnh các nông dân sản xuất trứng Canada đang được phát hành và chia sẻ trên eggfarmers.ca, mạng xã hội và tại các điểm dừng chân thư viện, nơi

người dân Canada có thể gửi thiệp cảm ơn

đến nông dân.

Colombia

FENAVI đang sản xuất một loạt phim nghe nhìn khám phá cách trứng ảnh hưởng đến các món ăn mang tính biểu tượng nhất của Colombia thông qua nghiên cứu ẩm thực.

Honduras

PROAVIH sẽ kỷ niệm Ngày Trứng Thế giới vào đầu tuần, với các hoạt động vào thứ Ba, ngày 7/10 tại San Pedro Sula và thứ Năm, ngày 9/10 tại Tegucigalpa. Hợp tác với Ngân hàng Thực phẩm Honduras và các công ty liên kết, tổ chức sẽ đến thăm các trường học để nói chuyện, nấu ăn cùng học sinh, tổ chức nhiều hoạt động khác nhau sử dụng nguồn lực của WEO và quyên góp trứng.

Khoa Khoa học Gia cầm tại Cao đẳng Thú y Nagpur sẽ thử sức với Kỷ lục Thế giới bằng cách chế biến món Trứng Bhurji từ 5.001 quả trứng. Món ăn đặc biệt này sẽ được đầu bếp nổi tiếng toàn quốc, ông Vishnu Manohar, với sự tham gia của sinh viên, giảng viên và người dân Nagpur.

Italy

Una Italy sẽ quảng bá Ngày Trứng Thế giới bằng các bài đăng trên LinkedIn và X, cùng một bài viết trên trang web của họ.

Nước Hà Lan

Trung tâm chuyên môn về gia cầm sẽ hợp tác với các đối tác, đã tạo ra một tạp chí về trứng để chuẩn bị cho Ngày Trứng Thế giới như một phần của Quỹ Ngày Trứng Thế giới Hà Lan.

New Zealand

Ngành công nghiệp trứng New Zealand đang kỷ niệm với chủ đề quốc tế “Quả trứng vĩ đại”. Các hoạt động chính bao gồm thông điệp dinh dưỡng cho người tiêu dùng và cuộc thi giành giải thưởng trứng đủ dùng cho một năm cho một hộ gia đình, diễn ra từ ngày 613/10 và được quảng bá thông qua các kênh kỹ thuật số và mạng xã hội. Ngoài ra, thông điệp sẽ hướng đến các chuyên gia trong lĩnh vực y tế, dinh dưỡng và thực phẩm, cung cấp bộ công cụ bao gồm thông cáo báo chí, bảng thông tin dinh dưỡng và tài nguyên kỹ thuật số để hỗ trợ quảng bá cho người tiêu dùng.

Mexico

Liên minh các nhà chăn nuôi quốc gia (UNA) sẽ một lần nữa tổ chức Hội chợ Trứng Quốc tế tại Tepatitlán, Jalisco, với chương trình hoạt động mở rộng. Ở cấp độ quốc gia, UNA sẽ hoạt động tại nhiều thành phố, bao gồm: Mexico, Córdoba, Tehuacán, Mérida, Puerto Vallarta, San Juan de los Lagos, Guadalajara, Monterrey, La Laguna và Tepatitlán. Mục tiêu của họ là cung cấp hơn 50.000 bữa sáng miễn phí cho công chúng và chia sẻ các bài nói chuyện giáo dục từ các chuyên gia tại Viện Gia cầm Quốc gia, tất cả đều dưới thông điệp “Mexico được nuôi dưỡng bằng trứng”.

Nigeria

Trang trại tích hợp AIT đang hỗ trợ 100 người chăn nuôi gia cầm địa phương bằng hình thức đào tạo và cung cấp gà trống để tăng sản lượng trứng tại địa phương, trao quyền cho cộng đồng và nâng cao năng suất trang trại. The Guardian - một tờ báo ở Nigeria có kế hoạch xuất bản một báo cáo đặc biệt vào ngày 10/10/2025, để kỷ niệm Ngày Trứng Thế giới.

Pakistan

Viện Khoa học Động vật tại Đại học Nông nghiệp PMAS-Arid, Rawalpindi (Islamabad) sẽ tổ chức lễ kỷ niệm hợp tác với ngành công nghiệp gia cầm Pakistan. Sự kiện được tổ chức dưới sự bảo trợ của GS-TS Qamar-uz-Zaman, Phó Hiệu trưởng Đại học, cùng với các nhà lãnh đạo từ SB Eggs/Sadiq Feeds, Hiệp hội Khoa học Gia cầm Thế giới - Pakistan, Tập đoàn Jadeed và KK Chicks and Feeds. Các hoạt động bao gồm cuộc thi nấu trứng, cuộc thi thiết kế poster, hoạt động đi bộ nâng cao nhận thức và hội thảo. Dự kiến sẽ có hơn 1.000 người tham dự lễ kỷ niệm này.

Panama

ANAVIP sẽ ăn mừng bằng cách phân phát trứng trên đường phố, kèm theo âm nhạc để chia sẻ niềm vui của sự kiện. Tổ chức cũng sẽ đến thăm các trường học trong suốt tháng để quảng bá trứng và lợi ích dinh dưỡng của chúng.

Anh

Hội đồng Công nghiệp Trứng Anh (BEIC) sẽ chia sẻ nội dung và công thức nấu ăn trên mạng xã hội (Instagram và TikTok) và trang web egginfo.co.uk của họ, đồng thời phát hành thông cáo báo chí nêu bật hàng chục lý do để thưởng thức trứng.

HẠNH (Tổng hợp)

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Đồ họa: Thanh Thanh

THỨC ĂN CHĂN NUÔI

TỐI ƯU CHI PHÍ - GIA TĂNG LỢI NHUẬN

Thức ăn chăn nuôi chiếm tới 60 - 70% giá thành sản phẩm, là yếu tố then chốt quyết định lợi nhuận của các trang trại và hộ nuôi. Trong bối cảnh thị trường biến động, việc cân bằng giữa giá thành và chất lượng trở thành bài toán sống còn cho ngành chăn nuôi Việt Nam.

Áp lực từ phụ thuộc

Dù Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, mỗi năm chúng ta vẫn chi hơn 9 tỷ USD để nhập khẩu trên 20 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trong đó 85% là ngô, đậu tương và lúa mì. Sự phụ thuộc này khiến giá thành trong nước chịu tác động mạnh từ thị trường quốc tế.

Dữ liệu từ Cục Chăn nuôi và Thú y cho thấy, mỗi năm cả nước sản xuất được 20 triệu tấn thức ăn chăn nuôi công nghiệp, nhưng lượng nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu, khoảng 17 triệu tấn/năm. Trong khi đó, giá bán nguyên liệu trên thế giới rất dễ xảy ra biến động. Chẳng hạn như vấn đề tỷ giá và chi phí logistics, cụ thể biến động USD/VND và giá nhiên liệu khiến chi phí vận chuyển, lưu kho tăng. Chưa kể, hạn hán, lũ lụt tại các vùng trồng nguyên liệu lớn thời gian qua đã

làm giảm sản lượng, đẩy giá nguyên liệu tăng cao. Hơn nữa, nguồn cung ứng nội địa vốn dĩ rất yếu. Ngành nông nghiệp đã chủ trương mở rộng diện tích trồng ngô, sắn tại nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên chưa thành công do hiệu quả kinh tế thấp, đất đai bị chuyển đổi sang cây ăn quả hoặc công nghiệp.

Hậu quả là dù giá nguyên liệu thế giới giảm, giá thức ăn thành phẩm trong nước vẫn chậm hạ vì doanh nghiệp sản xuất thường chốt hợp đồng mua nguyên liệu trước 3 - 6 tháng, cộng thêm chi phí lưu kho. Chất lượng cần được chú trọng

Theo ý kiến của một số chuyên gia, lợi nhuận trong chăn nuôi nhiều hay ít phụ thuộc vào hiệu quả thức ăn cho vật nuôi. Bởi lẽ, vật nuôi sinh trưởng, phát triển để tạo ra

các sản phẩm như thịt, trứng, sữa… là nhờ hấp thu được các chất dinh dưỡng thiết yếu từ nguồn thức ăn chúng được cung cấp. Vấn đề đặt ra là chất lượng của thức ăn của các nhà sản xuất đã đảm bảo chưa; giá thành có tương xứng với chất lượng của nó và làm thế nào để biết và mua được thức ăn đảm bảo chất lượng. Đặc biệt, người chăn nuôi đã cung cấp cho vật nuôi loại thức ăn, khẩu phần ăn đã hợp lý hay không... Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều cơ sở sản xuất, chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm với hàng nghìn sản phẩm khác nhau, kèm theo đó là hàm lượng chất dinh dưỡng cũng khác nhau, gây khó khăn cho việc lựa chọn loại thức ăn của người nuôi. Thế nhưng, không phải cơ sở sản xuất nào cũng đủ minh bạch, đã có không ít cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi “rút ruột” dinh dưỡng trong thức

ÔNG DƯƠNG TẤT THẮNG

Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y "Hiện chúng ta chưa thể khắc phục được nguồn cung về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất thức ăn chăn nuôi

vì giá thành sản

xuất cho nông nghiệp thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi người dân chỉ sản xuất những sản phẩm có giá trị và thế mạnh. Để từng bước hóa giải tình trạng này, Cục Trồng trọt và

Bảo vệ thực vật cùng các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp và

Môi trường sẽ từng bước quy hoạch vùng canh tác ở Tây Nguyên để tăng diện tích cây nông nghiệp phục vụ cho đầu vào của sản xuất thức ăn gia súc".

Bên cạnh vấn đề dinh dưỡng, việc tuân thủ quy trình chăn nuôi cũng rất quan trọng. Chia sẻ của một người nuôi lâu năm cho thấy, thông thường, mỗi đối tượng vật nuôi với mỗi giai đoạn tuổi khác nhau phải được cung cấp thức ăn tương ứng với giai đoạn tuổi đó, nhằm đảm bảo hiệu suất chăn nuôi, tránh được việc chi phí tăng cao gây thiệt hại về kinh tế.

Thêm vào đó, vẫn còn nhiều chủ hộ chăn nuôi, nhất là hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chủ yếu làm theo kinh nghiệm, thiếu định lượng khẩu phần ăn cho gia súc, gia cầm làm tăng chi phí và giảm hiệu quả tăng trưởng. Trong khi, nguyên tắc khoa học đòi hỏi công thức phải thay đổi theo từng giai đoạn - từ heo con cần nhiều protein đến gà đẻ cần bổ sung canxi. Để thay đổi, trước tiên người chăn nuôi cần phải có sự đầu tư hơn cả về kỹ thuật và thời gian. Không chỉ đảm bảo thức ăn được lựa chọn từ các thương hiệu có uy tín trên thị trường, mà cần định kỳ đánh giá tình hình sinh trưởng, phát triển của vật nuôi để điều chỉnh khẩu phần ăn hàng ngày cho vật nuôi một cách phù hợp. Cùng đó, cần tăng cường công tác giám sát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước về sản xuất, chế biến, lưu thông, tiêu thụ thức ăn chăn nuôi.

Hướng đến phát triển bền vững

Giá thức ăn cao vẫn là “nút thắt” lớn của ngành chăn nuôi Việt Nam. Giải pháp giảm chi phí không chỉ nằm ở khâu nhập khẩu mà

đòi hỏi sự phối hợp tổng thể như phát triển vùng nguyên liệu nội địa, ứng dụng công nghệ, liên kết sản xuất - tiêu thụ và quản lý chất lượng. Khi làm chủ được nguồn nguyên liệu và tối ưu hóa công thức thức ăn, ngành chăn nuôi mới có thể nâng cao lợi nhuận và cạnh tranh bền vững trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Trong bối cảnh giá cả thị trường liên tục biến động, người chăn nuôi cần đặc biệt quan tâm đến giá thức ăn chăn nuôi để có chiến

lược sản xuất phù hợp, duy trì hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, việc chủ động phối trộn, liên kết nhóm mua chung, tận dụng phụ phẩm và áp dụng công nghệ số sẽ là những giải pháp giúp

ổn định chi phí trong dài hạn. Chẳng hạn như phương pháp phối trộn, cách này giúp

tiết kiệm chi phí từ 10 - 20% so với mua thức ăn thành phẩm, đồng thời chủ động công thức phù hợp từng giai đoạn phát triển của vật nuôi.

Về mặt vĩ mô, để giảm áp lực chi phí và nâng cao sức cạnh tranh, ngành chăn nuôi

cần các giải pháp đồng bộ lớn. Trước hết là giảm sự phụ thuộc nguồn liệu liệu nhập khẩu, bằng cách phát triển nguồn nguyên liệu trong nước; quy hoạch vùng trồng ngô, sắn gắn với hạ tầng, kho bãi, trung tâm chế biến; hỗ trợ nông dân hợp tác xã, cơ giới hóa sản xuất, áp dụng giống mới, kỹ thuật canh tác và bảo quản hiện đại. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nhà máy chế biến thức ăn tại các vùng nguyên liệu, rút ngắn chuỗi cung ứng, giảm khâu trung gian. Đây cũng là chìa khóa giúp Việt Nam bớt phụ thuộc nhập khẩu, tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Thêm vào đó, cần tận dụng tốt nguồn phụ phẩm nông nghiệp. Chẳng hạn, bã đậu, bã bia, bã mía, vỏ trái cây… có thể chế biến thành nguồn thức ăn giàu năng lượng, giúp tiết kiệm chi phí dài hạn; sử dụng phụ gia sinh học, enzyme để nâng cao khả năng tiêu hóa của nguyên liệu giá rẻ. Bởi lẽ, sự linh hoạt lựa chọn nguyên liệu thay thế có sẵn tại địa phương như phụ phẩm nông nghiệp để giảm chi phí, nhưng vẫn đảm bảo thành phần dinh dưỡng cần thiết cho vật nuôi. Ngành chăn nuôi còn phải chú trọng hơn nữa trong vấn đề liên kết chuỗi giá trị. Cụ thể là thành lập các nhóm mua chung hoặc hợp tác xã chăn nuôi để mua thức ăn số lượng lớn, giảm giá thành và chi phí vận chuyển. Xây dựng hợp đồng bao tiêu giữa doanh nghiệp chế biến và nông dân, bảo đảm đầu ra ổn định và giá thu mua hợp lý. Nâng cao hiệu quả quản lý, như đầu tư công nghệ, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, quản lý sức khỏe vật nuôi, và mở rộng kênh tiêu thụ để tăng doanh thu.

Quan trọng hơn, người nuôi cần tối ưu công thức thức ăn. Trong đó, cần ứng dụng phần mềm phối trộn, phân tích thành phần dinh dưỡng để lựa chọn nguyên liệu giá hợp lý nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu sinh lý của vật nuôi. Đồng thời điều chỉnh khẩu phần theo từng giai đoạn phát triển (heo con, heo vỗ béo, gà đẻ…), tránh dùng chung một công thức gây lãng phí hoặc thiếu dinh dưỡng… Cân bằng giá thành và chất lượng thức ăn chăn nuôi không chỉ là bài toán kinh tế mà còn là chiến lược dài hạn. Giảm chi phí nhưng không đánh đổi dinh dưỡng, chủ động nguồn cung trong nước và ứng dụng công nghệ là con đường để ngành chăn nuôi Việt Nam tối ưu hóa lợi nhuận, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động. PHAN THẢO

NGUYÊN LIỆU THỨC ĂN CHĂN NUÔI

“Chìa khóa” quyết định sức cạnh tranh

Trong bối cảnh thị trường nguyên liệu thức ăn chăn nuôi toàn cầu biến động mạnh, các doanh nghiệp trong nước đứng trước nhiều sức ép về giá thành và nguồn cung. Phóng viên Đặc san Người Chăn nuôi đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Đức Huyên, Tổng Giám đốc Công ty Việt Tín, xung

quanh những thách thức hiện nay và giải pháp để từng bước chủ động hơn nguồn nguyên liệu trong nước.

PV: Thưa ông, ngành sản xuất thức ăn

chăn nuôi trong nước đang chịu tác động

lớn từ biến động toàn cầu. Theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp

Việt Nam đang phải đối mặt?

Ông Bùi Đức Huyên: Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam hiện nay chịu tác động từ rất nhiều yếu tố bên ngoài, từ xung đột địa chính trị, vận tải biển, cho đến chính sách thương mại của các quốc gia xuất khẩu nguyên liệu. Trong bối cảnh ấy, thách thức lớn nhất của doanh nghiệp trong nước là quy mô sản xuất còn nhỏ, sức cạnh tranh yếu, không có lợi thế khi đàm phán với các tập đoàn cung ứng toàn cầu. Ngoài ra, chúng ta còn đối diện với ủi ro chính sách về nguyên liệu đầu vào, ví dụ như những thay đổi về thuế nhập khẩu, hàng rào kỹ thuật hay các biến động tỷ giá. Điều này khiến doanh nghiệp trong nước luôn ở thế bị động, phải gánh nhiều chi phí.

PV: Việt Nam vẫn phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Vậy theo ông, đâu sẽ là những “nút thắt” khiến chúng ta chưa thể chủ động nguồn cung trong nước và điều này để lại những hệ lụy gì?

Ông Bùi Đức Huyên: Thứ nhất, diện tích gieo trồng trong nước còn manh mún, thiếu quy hoạch vùng nguyên liệu đủ lớn. Thứ hai, chúng ta chưa có chính sách khuyến khích, bảo hộ rõ ràng để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư công nghệ gieo trồng, nâng cao năng suất và giảm giá thành.

Hệ quả là doanh nghiệp phải phụ thuộc lớn vào nguồn nhập khẩu. Chi phí nhập khẩu cao, cộng thêm biến động tỷ giá USD, biến động giá nguyên liệu quốc tế, khiến giá thành sản phẩm chăn nuôi đội lên. Người chịu thiệt cuối cùng chính là người chăn nuôi trong nước.

PV: Riêng với Công ty Việt Tín, doanh nghiệp đã làm gì để thích ứng với tình trạng

phụ thuộc nhập khẩu, thưa ông?

Ông Bùi Đức Huyên: Chúng tôi tập trung vào tăng cường sử dụng nguyên liệu trong nước như sắn, ngô, cám gạo - những mặt hàng có sẵn và là thế mạnh. Song song, Việt Tín chủ động làm việc với các đơn vị cung cấp thông tin, tư vấn và đặc biệt là kết nối với các nhà thương mại uy tín để ký hợp đồng mua nguyên liệu ổn định trong khoảng 6 tháng đến 1 năm. Cách làm này giúp chúng tôi giảm bớt biến động giá trong ngắn hạn, đồng thời tạo sự chủ động trong kế hoạch sản xuất và

ÔNG BÙI

bình ổn giá thành cho người chăn nuôi.

PV: Xin ông có thể chia sẻ thêm về những sáng kiến, mô hình hợp tác mà Việt Tín đang triển khai để từng bước chủ động hơn nguồn nguyên liệu trong nước?

Ông Bùi Đức Huyên: Một trong những hướng đi của chúng tôi là tận dụng thời điểm mùa vụ để ký hợp đồng mua nguyên liệu dự trữ từ 6 - 8 tháng với các đối tác thương mại uy tín ở các vùng trồng. Nguồn nguyên liệu sau đó được đưa dần về nhà máy, đảm bảo

ĐỨC HUYÊN Tổng Giám đốc Công ty Việt Tín “Ngành chăn nuôi Việt Nam có tiềm năng rất lớn, nhưng muốn phát triển bền vững thì phải giải quyết căn cơ bài toán nguyên liệu. Đó không chỉ là việc của doanh nghiệp, mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống, từ chính sách đến khoa học công nghệ và liên kết chuỗi giá trị”.

cho sản xuất không bị gián đoạn.

Bên cạnh đó, chúng tôi đang nghiên cứu các mô hình liên kết trực tiếp với vùng nguyên liệu, theo hướng doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm cho nông dân, để cả hai bên cùng có lợi.

PV: Từ thực tế đang diễn ra hiện nay, theo ông, đâu sẽ là những giải pháp căn cơ để chúng ta có thể giải quyết bài toán nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi?

Ông Bùi Đức Huyên: Tôi cho rằng phải có sự phối hợp đồng bộ giữa “4 nhà”, đó là: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông -

Doanh nghiệp.

Trong đó, vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng ở khâu quy hoạch vùng nguyên liệu đủ lớn, có chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ vốn, tín dụng và hạ tầng logistics. Mặt khác, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong gieo trồng để nâng cao năng suất, giảm chi phí, từ đó tạo được sản phẩm có chất lượng và giá cả cạnh tranh so với nguồn nhập khẩu.

PV: Thưa ông, thị trường thức ăn chăn nuôi đang nhiều biến động. Nhưng với vai trò là một đơn vị sản xuất thức ăn chăn nuôi lâu năm ở trong nước thì ông có những đánh giá thế nào về triển vọng của ngành này trong 3 - 5 năm tới?

Ông Bùi Đức Huyên: Tôi vẫn nhìn thấy nhiều dư địa phát triển cho lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi của chúng ta. Việt Nam hiện đứng thứ 6 thế giới về chăn nuôi heo và thứ 2 về chăn nuôi gia cầm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của hơn 100 triệu dân. Do đó, nhu cầu thức ăn chăn nuôi chắc chắn sẽ tiếp tục tăng trưởng.

Điều cần làm là tăng cường liên kết chuỗi giữa nhà máy sản xuất thức ăn, vùng nguyên liệu trong nước và các trang trại lớn. Khi rút ngắn khâu trung gian, chúng ta vừa giảm giá thành, vừa nâng cao chất lượng, từ đó cải thiện lợi nhuận cho người chăn nuôi.

Tuy nhiên, điểm mấu chốt vẫn là chính sách vĩ mô: quy hoạch vùng nguyên liệu đủ lớn, giảm chi phí lãi vay, giảm chi phí logistics và giảm phụ thuộc nhập khẩu. Nếu làm được, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn nước ngoài ngay trên sân nhà.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

THÙY KHÁNH

(Thực hiện)

8 nguyên liệu thức ăn chăn nuôi phổ biến nhất

1. Bột cá

Bột cá được xem là một trong những nguyên liệu thức ăn chăn nuôi thiết yếu nhờ hàm lượng protein tự nhiên dồi dào và dễ tiêu hóa. Với thành phần dinh dưỡng cân đối, bột cá đóng vai trò quan trọng trong nhiều giai đoạn phát triển của vật nuôi, đặc biệt là thời kỳ sinh sản. Đồng thời, đây cũng là nguồn dinh dưỡng giúp nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi như thịt, trứng, cá và sữa.

2. Dịch cá

Dịch cá được sản xuất như một sản phẩm phụ trong ngành công nghiệp sản xuất dầu cá. Dịch cá là một chất bán nhớt, có mùi tanh đặc trưng và màu nâu, giàu protein hòa tan, vitamin. Dịch cá được sử dụng trong thức ăn thủy sản như một chất dẫn dụ và trong phân bón hữu cơ.

3. Dầu cá

Dầu cá là một mắt xích quan trọng trong chuỗi nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, không chỉ cung cấp năng lượng mà còn chứa nhiều dưỡng chất như vitamin, phospho và lipid. Nguồn dầu cá giàu axit béo chưa no (PUFA), trong đó có HUFA và Omega-3 - những hợp chất giúp cải thiện khả năng miễn dịch, tăng cường trao đổi chất và hỗ trợ phát triển hệ thần kinh của vật nuôi, giảm các bệnh nguy hiểm (trong đó có triệu chứng dễ gãy xương ở gà đẻ trứng). Ngoài ra, dầu cá còn góp phần giúp vật nuôi tăng trưởng khỏe mạnh, dẻo dai và thích nghi tốt hơn với thay đổi môi trường.

4. Cám gạo

Cám gạo là phụ phẩm từ quá trình xay xát, lau bóng gạo và là nguyên liệu thức ăn chăn nuôi có chi phí hợp lý nhưng lại chứa giá trị dinh dưỡng cao. Nhờ giàu tinh bột và Vitamin B1, cám gạo giúp bổ sung năng lượng dễ chuyển hóa, kích thích tiêu hóa và tăng độ ngon miệng cho vật nuôi. Tuy nhiên, do chứa chất béo dễ bị ôxy hóa, cám gạo cần được bảo quản đúng cách để tránh tình trạng ẩm mốc, giảm chất lượng.

5. Tấm chăn nuôi

Tấm chăn nuôi loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi giàu năng lượng, dễ tiêu hóa, thích hợp với hầu hết hệ tiêu hóa của các loài vật nuôi. Với hàm lượng tinh bột cao và nhiều vitamin nhóm B, tấm giúp heo tăng trưởng nhanh, cải thiện chất lượng thịt và giảm lượng thức ăn thừa do vật nuôi ưa chuộng hương vị tự nhiên của gạo tấm. Đặc biệt, rất an toàn cho các sản phẩm thức ăn dùng cho heo con và petfood.

6. Bã mì

Với hàm lượng tinh bột trên 40% cùng chất xơ dễ tiêu hóa, bã mì hỗ trợ hiệu quả cho hệ tiêu hóa và khả năng tăng trọng của vật nuôi. Đây là loại phụ phẩm tự nhiên, không qua xử lý hóa học, an toàn với môi trường và góp phần giảm thiểu chi phí sản xuất. Trong ngành công nghiệp chăn nuôi và năng lượng, bã mì được sử dụng phổ biến trong công thức phối trộn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, đồng thời là nguồn sinh khối thân thiện để sản xuất nhiên liệu tái tạo.

7. Mì lát

Khoai mì lát khô được chế biến từ củ khoai mì tươi bằng cách thái lát, sấy khô hoặc phơi khô đúng chuẩn, giúp bảo quản lâu và giữ nguyên hàm lượng tinh bột trên 65%. Đây là nguyên liệu thức ăn chăn nuôi giàu năng lượng, hỗ trợ tiêu hóa, giúp vật nuôi tăng trọng, cải thiện chất lượng thịt, trứng, sữa. Sản phẩm dễ phối trộn với các nguyên liệu khác, góp phần giảm chi phí khẩu phần. 8. Trấu

Trấu là lớp vỏ cứng bao quanh hạt lúa, được loại bỏ sau quá trình xay xát. Giàu carbon, silica và lignin, trấu có khả năng cách nhiệt, chống ẩm, cải thiện đất và phân hủy sinh học hoàn toàn, nên được ứng dụng làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi và đệm lót sinh học.

H.C (Tổng hợp)

AI - cuộc cách mạng protein

thay thế trong chăn nuôi

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang mở đường cho ngành chăn nuôi tìm kiếm và ứng dụng nhanh chóng các nguồn protein thay thế, vừa giảm chi phí và áp lực môi trường, vừa xây dựng hệ sinh thái dinh dưỡng vật nuôi bền vững.

AI tăng tốc tìm protein mới

Khi nhu cầu toàn cầu về thức ăn chăn nuôi giàu dinh dưỡng, chi phí hợp lý và thân thiện môi trường ngày càng tăng, cuộc đua tìm nguồn protein mới trở thành ưu tiên hàng đầu. Trong bối cảnh giá đậu nành, ngô hay bột cá biến động mạnh, đồng thời gia tăng cạnh tranh giữa sản xuất thực phẩm cho người và vật nuôi, AI nổi lên như công cụ thay đổi cuộc chơi.

Khả năng vượt trội của AI nằm ở tốc độ xử lý dữ liệu khổng lồ. Các hệ thống có thể quét hàng nghìn công trình khoa học, bằng sáng chế và dữ liệu thử nghiệm chỉ trong vài giờ - công việc vốn mất hàng tháng nếu do con người đảm nhiệm. Thông qua các mô hình xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP), AI trích xuất thông tin then chốt, từ đó nhận diện nguyên liệu tiềm năng như bột côn trùng, tảo, lupin, đậu Hà Lan hay thậm chí bèo tấm. Quan trọng hơn, AI không chỉ dừng ở khâu tìm kiếm. Dựa trên dữ liệu lịch sử và kết quả nghiên cứu trước đó, thuật toán học máy có thể dự đoán thành phần dinh dưỡng, khả năng tiêu hóa và tác động thực tế của nguồn protein mới trong khẩu phần. Chẳng hạn, hệ thống có thể cho thấy bột côn trùng sở hữu hồ sơ protein tương đương khô dầu đậu nhưng ít yếu tố kháng dinh dưỡng hơn. Nhờ đó, các nhà sản xuất có thể sàng lọc và đánh

giá hàng chục lựa chọn nguyên liệu trước khi đầu tư vào thử nghiệm thực địa. Điều này tiết kiệm đáng kể chi phí, đồng thời giảm thiểu rủi ro thất bại.

AI cũng đặc biệt hữu ích trong việc cân nhắc tính bền vững và kinh tế. Bằng cách so sánh nhiều nguồn nguyên liệu theo các tiêu chí giá thành, nguồn cung và dấu chân carbon, hệ thống có thể đưa ra lựa chọn tối ưu. Ví dụ, AI có thể đề xuất thay thế 20% khô dầu đậu nành bằng bã bia và bã củ của cây rau diếp xoăn vừa giảm chi phí, vừa hạ phát thải CO₂ trong chuỗi sản xuất.

Từ khẩu phần đến quản trị rủi ro Điểm mạnh của AI thể hiện rõ khi nguyên liệu mới xuất hiện trên thị trường. Nếu như trước đây, việc điều chỉnh công thức khẩu phần thường mất nhiều tuần, thì nay hệ thống có thể tái thiết kế khẩu phần chỉ trong vài giờ, bảo đảm cân bằng dinh dưỡng và đáp ứng yêu cầu tăng trưởng. Ví dụ, khi khô dầu hướng dương trở thành nguồn cung khả thi, AI có thể ngay lập tức xây dựng khẩu phần tối ưu cho bò sữa, giúp nhà sản xuất nhanh chóng tận dụng cơ hội. Không chỉ vậy, dữ liệu tăng trưởng, sinh sản và sức khỏe của vật nuôi cũng được AI phân tích để dự báo hiệu quả của nguyên liệu mới. Mô hình liên tục được tinh chỉnh bằng dữ liệu thực tế từ trang trại, nhờ đó tăng độ chính xác. AI thậm chí có thể dự đoán bê cái được nuôi bằng khẩu phần giàu đậu lupin vẫn đạt tốc độ tăng trưởng ngang bằng nhóm dùng khô dầu cải. Khả năng quản trị rủi ro là một ưu thế khác. Trong khi chuyên gia dinh dưỡng truyền thống chỉ phát hiện vấn đề sau khi phân tích mẫu thức ăn hoặc quan sát thực tế, AI có thể cảnh báo sớm ngay từ dữ liệu thành phần. Chẳng hạn, hệ thống có thể phát hiện hàm lượng tannin cao trong lúa miến nhập từ châu Phi, từ đó đề xuất biện pháp xử lý để tránh ảnh hưởng tiêu cực đến vật nuôi. Ngoài ra, AI còn giúp nhận diện nguồn ➢ Khi biến đổi khí hậu, áp lực chi phí và yêu cầu bền vững ngày càng trở thành bài toán sống còn, AI không chỉ là công cụ hỗ trợ mà sẽ trở thành nhân tố chiến lược. Sự hợp lực giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người chính là chìa khóa để ngành dinh dưỡng vật nuôi bước vào kỷ nguyên protein thay thế - một kỷ nguyên của tốc độ, sáng tạo và bền vững.

protein sẵn có tại chỗ nhưng ít được khai thác, góp phần giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Bã bia - phụ phẩm phổ biến ở nhiều vùng là một ví dụ. Với dữ liệu địa phương, hệ thống có thể khuyến nghị tận dụng nguồn protein kinh tế này cho chăn nuôi, tăng tính chủ động và bền vững.

Hướng đi tương lai

Mục tiêu cuối cùng của cả chuyên gia dinh dưỡng và AI đều là tối ưu hiệu quả chăn nuôi. Tuy nhiên, con đường để đạt mục tiêu khác biệt rõ rệt.

Con người dựa vào kinh nghiệm, nghiên cứu và thử nghiệm thực địa - quá trình vừa chậm vừa tốn kém. Trong khi đó, AI khai thác sức mạnh dữ liệu lớn, xử lý nhanh hàng loạt biến số về dinh dưỡng, giá cả và nguồn cung chỉ trong tích tắc.

Đặc biệt, AI còn có thể mô phỏng hiệu quả của nguyên liệu mới trong môi trường chăn nuôi ảo, hạn chế phụ thuộc vào phương pháp thử - sai vốn mất nhiều thời gian. Đây là một bước tiến mang tính cách mạng, giúp ngành giảm chi phí thử nghiệm trực tiếp trên vật nuôi.

Tuy nhiên, AI không thể thay thế hoàn toàn con người. Kinh nghiệm thực tiễn, sự am hiểu về quy định pháp lý, yếu tố xã hội và mức độ chấp nhận của nông dân vẫn thuộc về chuyên gia. Một công thức khẩu phần dựa trên bột côn trùng có thể hoàn hảo về mặt dinh dưỡng trên lý thuyết, nhưng chỉ khi được chuyên gia cân nhắc thêm về an toàn thực phẩm và thị trường tiêu thụ thì mới có thể triển khai thực tế. Nói cách khác, AI mang lại tốc độ và tầm nhìn rộng, trong khi con người cung cấp tính thực tiễn và khả năng quyết định.

Trong kỷ nguyên công nghệ, AI trở thành “trợ lý nghiên cứu không ngủ” cho ngành chăn nuôi. Nó giúp rút ngắn quá trình đổi mới, tiết kiệm chi phí và mở rộng phạm vi tìm kiếm giải pháp. Nhưng chìa khóa thành công không nằm ở việc AI thay thế con người, mà ở sự cộng hưởng.

AI cung cấp dữ liệu, mô hình và dự đoán; chuyên gia dinh dưỡng kiểm chứng, điều chỉnh và triển khai thực tế; nông dân và nhà sản xuất quyết định áp dụng dựa trên điều kiện cụ thể tại trang trại. Sự kết hợp này hứa hẹn tạo nên một hệ sinh thái bền vững, nơi công nghệ và con người cùng chung tay đáp ứng nhu cầu protein ngày càng lớn của thế giới.

TUẤN MINH

(Theo Allaboutfeed)

TRUNG

QUỐC Tái cấu trúc ngành thức ăn chăn nuôi

Chính phủ Trung Quốc đang thúc đẩy chiến lược đảm bảo an ninh trong ngành thức ăn chăn nuôi, coi đây là một phần quan trọng của an ninh quốc gia, trong bối cảnh căng thẳng thương mại và rủi ro địa chính trị ngày càng gia tăng.

Giảm nhập khẩu đậu tương và ngô

Tranh chấp thương mại kéo dài với Mỹ

cùng các bất ổn quốc tế đã thúc đẩy Trung

Quốc đẩy nhanh quá trình thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước, đặc biệt là đậu tương và ngô. Bắc Kinh

đặt mục tiêu giảm tỷ lệ khô đậu tương trong công thức thức ăn xuống còn 10% vào năm 2030, so với mức 13% hiện nay.

Theo tính toán của Reuters, kế hoạch này có thể giúp Trung Quốc cắt giảm khoảng 10 triệu tấn đậu tương nhập khẩu mỗi năm, tương đương gần một nửa giá trị 12 tỷ USD mà nước này đã mua từ Mỹ trong năm 2024. Dù vậy, lộ trình giảm nhập khẩu ngô vẫn chưa được công bố.

Động thái này được dự báo sẽ tạo ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp lớn, đồng thời buộc họ phải chuyển đổi sang mô hình tích hợp dọc, từ nguyên liệu thô đến sản phẩm hoàn thiện trong cùng một hệ thống sản xuất.

Cơ hội và rủi ro

Một số chuyên gia cảnh báo, quá trình tái cấu trúc có thể dẫn đến xu hướng tập trung hóa mạnh, gây sức ép với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như nông dân. Dù mức độ tập trung thị trường hiện còn thấp, doanh nghiệp lớn nhất mới chỉ chiếm chưa đến 9% thị phần, song tốc độ mở rộng của các “ông lớn” trong ngành vài năm gần đây là rất rõ rệt. Ngành thức ăn chăn nuôi Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng mạnh từ thập niên 1980, nhờ “Đề cương phát triển ngành thức ăn 19842000”. Đến năm 2000, sản lượng đã đạt 60 triệu tấn, gấp 19 lần so với năm 1978. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt đã bào mòn lợi nhuận, khiến tốc độ tăng trưởng chậm lại từ cuối thập niên 2010.

Trong số các tập đoàn lớn, New Hope Group dẫn đầu với 28,74 triệu tấn sản lượng năm 2023, tương đương 8,94% thị phần.

Haida Group và Muyuan đều vượt mốc 20

triệu tấn, giữ vị trí thứ hai và thứ ba. Các số liệu năm 2024 chưa được công bố, nhưng giới phân tích cho rằng không có nhiều biến động so với năm trước.

Hầu hết các doanh nghiệp lớn ủng hộ chủ trương giảm nhập khẩu, đồng thời tăng cường sử dụng nguyên liệu thay thế như DDGS và axit amin tổng hợp. Truyền thông trong nước cho biết nhiều tập đoàn đã đẩy mạnh đầu tư sản xuất các sản phẩm này.

Người phát ngôn Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho biết kế hoạch mới phù hợp với “Kế hoạch giảm và thay thế ngô, khô đậu tương trong thức ăn” cũng như “Kế hoạch hành động ba năm giảm và thay thế khô đậu tương”.

Tuy nhiên, giới chức thừa nhận những nguyên liệu thay thế, đặc biệt là axit amin, chỉ có thể đáp ứng một phần nhu cầu protein tự nhiên. Không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thận trọng khi giảm tỷ lệ khô đậu tương, do lo ngại ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi.

Triển vọng cầu tiêu dùng

Hiện ngành thức ăn chăn nuôi Trung Quốc ước đạt quy mô khoảng 330 triệu tấn, tăng trưởng 5 - 7% mỗi năm, với giá trị lên tới 1,4 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương 195,16 tỷ USD). Các trung tâm sản xuất lớn tập trung tại Sơn Đông, Liêu Ninh, Hà Bắc và Tứ Xuyên; trong đó Sơn Đông có hơn 6.000 doanh nghiệp, Liêu Ninh trên 5.000 và Hà Bắc hơn 4.000.

Bất chấp những thay đổi về cấu trúc và thách thức trong tái cơ cấu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp dự báo ngành thức ăn chăn nuôi vẫn sẽ duy trì tăng trưởng. Đến năm 2029, quy mô thị trường có thể đạt 1,8 nghìn tỷ nhân dân tệ, nhờ nhu cầu tiêu thụ thịt, trứng và sữa gia tăng theo mức sống ngày càng cao của người dân Trung Quốc.

VŨ ĐỨC (Theo Efeedlink)

CHĂN NUÔI SỐ 107 - 10/2025

Tháng 9, giá heo hơi biến

tại ba miền

Tại miền Bắc, ngày 28/9, giá heo hơi tại miền Bắc sôi động trở lại. Tại Tuyên Quang và Bắc Ninh, mức giá tăng nhẹ 1.000 đồng/kg, lần lượt đạt 56.000 và 57.000 đồng/kg. Các tỉnh còn lại giữ ổn định quanh mức 55.600 đồng/kg. Ở miền Trung - Tây Nguyên, giá heo hơi cũng điều chỉnh tăng 1.000 đồng/kg tại Thanh Hóa và Nghệ An, đưa mức giao dịch lên 55.000 đồng/kg. Trung bình toàn vùng đạt khoảng 55.100 đồng/kg. Ngược lại, thị trường miền Nam tiếp tục xu hướng giảm. Đồng Tháp hạ về 56.000 đồng/kg, trong khi các địa phương khác vẫn giữ ổn định trong khoảng 56.000 - 58.000 đồng/kg. Giá heo hơi cuối tháng 9, ghi nhận biến động trái chiều nhưng vẫn phản ánh sự thích nghi của thị trường với nguồn cung và tình hình dịch bệnh. Mức giá dao động từ 55.000 - 58.000 đồng/kg ở hầu hết các vùng, với miền Bắc nhích nhẹ, miền Trung tăng cục bộ và miền Nam giảm hạn chế, tạo ra bức tranh tổng thể về thị trường heo hơi sôi động nhưng vẫn thận trọng.

BẮC NINH

Tiêu thụ gà đồi Yên Thế hiện rất thuận lợi. Giá gà bán tăng cao do nguồn cung giảm. Ông Nguyễn Xuân Hiếu, chủ trang trại chăn nuôi gà, thôn Đề Thám, xã Yên Thế thông tin, cách đây khoảng 2 tháng, gia đình ông bán đàn gà ri lai 1.000 con với giá 65.000 đồng/kg (gà lông) sau hơn 5 tháng nuôi. Hiện tại, các hộ trong thôn đang xuất bán cùng loại gà hơn 5 tháng tuổi như hộ ông Hiếu bán trước đó nhưng với giá hơn 90.000 đồng/kg; gà 4 tháng tuổi giá 70.000 đồng/kg, gà từ 6 - 7 tháng tuổi giá còn cao hơn nữa. Không chỉ giá gà ri lai tăng mạnh mà giá các loại gà khác trong tỉnh cũng đang ở mức cao. Cụ thể, gà lai Hồ giá từ 65.000 - 66.000 đồng/kg; gà lai chọi giá 70.000 đồng/kg... Với giá hiện tại, mỗi kg gà tăng từ 15.000 đến hơn 33.000 đồng/kg so với dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ vừa qua. Người chăn nuôi thu lãi từ 35 đến 50 triệu đồng/1 nghìn con gà thương phẩm, tùy theo tuổi và giống gà.

HÀ TĨNH

Người chăn nuôi thận trọng tái đàn

Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, nhiều chủ trang trại, gia trại và hộ chăn nuôi heo tại Hà Tĩnh thận trọng tái đàn nhằm đảm bảo nguồn cung, “đón” sóng nhu cầu cuối năm. Mặc dù vậy, diễn biến giá cả trên thị trường vẫn là một thách thức lớn. Giá heo hơi hiện chỉ dao động từ 55.000 - 58.000 đồng/kg khiến người nuôi lo lắng việc tái đàn có thể không mang lại hiệu quả kinh tế như kỳ vọng. Trong khi đó, giá heo giống đang khá đắt. Nếu nuôi mà bán không có lãi thì rủi ro càng cao. Theo thông tin từ Chi cục Trồng trọt và Chăn nuôi Hà Tĩnh, toàn tỉnh hiện còn khoảng 40 xã, phường có dịch chưa qua 21 ngày. Tình hình dịch bệnh ở các địa phương đã có dấu hiệu “hạ nhiệt”. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ thịt heo cũng ghi nhận tín hiệu tích cực, sức mua tại các chợ dân sinh dần ổn định trở lại.

QUẢNG TRỊ

Hiệu quả mô hình nuôi chim cút thương phẩm

Với ưu điểm ít dịch bệnh, không tốn nhiều công chăm sóc, mô hình nuôi chim cút thương phẩm của gia đình anh Nguyễn Xuân Chiến và chị Phạm Thị Nhãn (thôn Thạch Thượng 2, xã Cam Hồng, tỉnh Quảng Trị) đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2020, sau

khi tìm hiểu, học hỏi ở nhiều nơi, anh chị quyết định chọn mô hình “Nuôi chim cút thương phẩm” để khởi nghiệp và phát triển kinh tế gia đình. Đến nay, anh chị đã mạnh dạn đầu tư xây dựng chuồng trại trên diện diện tích đất khoảng 600 m2 để nuôi hơn 30.000 chim cút lấy trứng và khoảng 500 m2 đất để làm lò úm chim cút con. Được biết, mỗi ngày trang trại của anh Chiến, chị Nhãn xuất bán từ 20.000 - 22.000 quả trứng cút. Hiện, trung bình mỗi tháng, từ mô hình nuôi chim cút thương thẩm, gia đình anh chị có thu nhập gần 140 triệu đồng; lợi nhuận thu được mỗi tháng gần 70 triệu đồng; đồng thời tạo việc làm cho 6 lao động thường xuyên với thu nhập trên 6 triệu đồng/tháng.

TP HUẾ Giá thịt heo khởi sắc trở lại

Sau nhiều tháng chao đảo vì dịch tả heo châu Phi và liên cầu heo, thị trường thịt heo tại TP Huế đang ghi nhận những tín hiệu khởi sắc. Nguồn cung dần ổn định, giá cả bình ổn hơn, tâm lý e dè của người tiêu dùng cũng được giải tỏa. Cuối tháng 9, tại chợ Đông Ba, Trần Phú, An Cựu và một số siêu thị lớn, giá thịt heo hơi dao động 56.000 - 60.000 đồng/kg. Thịt bán lẻ như: ba chỉ, thịt vai, thịt mông được bán với giá quen thuộc từ 120.000 - 150.000 đồng/kg. UBND TP Huế cũng đã chỉ đạo các ngành y tế, nông nghiệp và công thương phối hợp chặt chẽ: tăng cường kiểm tra giết mổ tập trung, xử lý nghiêm giết mổ lậu, khuyến cáo người dân chỉ mua thịt có kiểm dịch.

ĐÀ NẴNG

Nuôi

hươu sao lấy nhung “cứu cánh” cho người

dân

miền núi

Nuôi hươu sao lấy nhung đang dần trở thành hướng phát triển kinh tế mới cho người dân xã Đông Giang (Đà Nẵng). Điển hình là gia đình anh BNướch Ngang ở tổ dân phố A Duông, xã Đông Giang. Với đàn hươu 10 con trưởng thành, mỗi năm anh thu hoạch nhung định kỳ hai lần, giá bán ổn định khoảng 1,5 triệu đồng/lạng và luôn có thương lái tìm mua. Ngoài cắt nhung, anh còn cung ứng hươu giống cho bà con trong vùng, mang lại nguồn thu nhập ổn định khoảng 60 - 70 triệu đồng/năm. Không dừng lại ở đó, gia đình anh kết hợp trồng 1,5 ha ba kích tím với 18.000 cây, cùng diện tích quế và cây ăn quả, tạo thêm nguồn thu nhập đa dạng, giúp cuộc sống ngày càng khá giả.

CÀ MAU

Yến sào Cà Mau - Từ tiềm năng đến tạo giá trị

Với đặc điểm địa lý độc đáo, Cà Mau hội tụ đủ “thiên thời, địa lợi” để nghề gây nuôi chim yến. Tổ yến, sản phẩm được biết đến với giá trị dinh dưỡng và y học cao, luôn là mặt hàng đắt đỏ trên thị trường, mang lại lợi nhuận hấp dẫn. Theo thống kê từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y, toàn tỉnh hiện có trên 1.790 nhà yến, với tổng sản lượng tổ yến thô thu hoạch trong năm trên 7.560 kg. Từ mô hình này, nhiều gia

đình đã thành công, thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên, phát triển nghề nuôi yến cũng đặt ra nhiều thách thức. Nuôi yến hầu như tự phát, chưa quy hoạch các vùng nuôi yến rõ ràng nên việc kiểm soát về môi

trường, dịch bệnh gặp khó khăn. Ðồng thời, thách thức lớn nhất hiện nay chính là đầu ra và giá thành sản phẩm.

ANH VŨ

(Tổng hợp)

Nhập khẩu thịt của Trung Quốc theo tháng từ 2021 - 2025

TRUNG QUỐC Tháng 8, nhập khẩu 260.000 tấn thịt bò

Theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc, trong tháng 8, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 260.000 tấn thịt bò, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2024; giá trị nhập khẩu đạt 1,403 tỷ USD, tăng 25%. Lũy kế 8 tháng đầu năm, Trung Quốc đã nhập khẩu 1,813 tỷ tấn thịt bò, giảm 4%; kim ngạch đạt 9,363 tỷ USD, tăng 2,5%. Dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho thấy, giá thịt bò trung bình đã tăng 0,2% trong tuần kết thúc vào ngày 18/9, với giá trị cao hơn 3,4% so với cùng kỳ năm 2024. Trong khi đó, giá bò sống cao hơn 10,9% so với năm trước.

CROATIA

Tiêu hủy 10.000 con heo nhiễm

ASF

So sánh giá bò Ireland và bò Anh R3

Nguồn: European Commission, AHDB

Xuất khẩu thịt bò của Australia sang Mỹ

Các nhà chức trách Croatia đã ra lệnh tiêu hủy khoảng 10.000 con heo ở khu vực phía đông Baranya bắt đầu từ tuần 21/9, do đợt bùng phát dịch tả heo châu Phi (ASF) mới và nghiêm trọng nhất được ghi nhận tại nước này cho đến nay. Theo cơ quan chức năng Croatia, dịch bệnh bùng phát rộng rãi nhất tại trang trại của Công ty Belje Sokolovac ở Baranya, nhưng virus cũng được phát hiện ở khu vực Nemetin, cũng ở phía Đông đất nước. Vì vậy, việc tiêu hủy heo bệnh là rất cần thiết để tránh lây lan dịch bệnh. Cơ quan chức năng nước này cũng đưa ra cảnh báo, nếu không hành động quyết liệt để ngăn chặn dịch bệnh thì Croatia sẽ sớm bị cô lập trong Liên minh châu Âu, gây thiệt hại rất lớn cho ngành chăn nuôi heo.

ANH

Sản lượng thịt cừu giảm

Tháng 8/2025, tổng sản lượng thịt cừu của Anh đạt 20.400 tấn, giảm 500 tấn (2%) so với tháng 7/2025; giảm 1.400 tấn (7%) so với tháng 8/2024. Lũy kế 8 tháng đầu năm, sản lượng đạt 175.000 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2024. Số lượng cừu thịt đã được giết mổ trong tháng 8/2025 đạt 868.000 con, giảm 31.400 con (3%) so với tháng 7/2025; giảm 68.200 con (7%) so với tháng 8/2024. Sự sụt giảm này có thể do số lượng cừu con giảm, do giảm số lượng cừu mẹ sinh sản. Tổng số cừu đã giết mổ 8 tháng đầu năm đạt 7,3 triệu con, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2024.

gà Tây bùng nổ trước mùa lễ

Bước sang nửa cuối năm, đặc biệt là khi sắp đến mùa lễ hội giá gà Tây nguyên con và thịt ức gà Tây đã bắt đầu tăng. Kể từ cuối tháng 7, giá gà mái đông lạnh loại 8 - 16 pound/con đã có giá trên 1,5 USD/ pound, và đã chạm mốc 1,6 USD trong thời gian ngắn. Thịt ức gà Tây cũng đã tăng 2 USD so với cùng kỳ năm trước và đạt mức cao kỷ lục là 6,71 USD/pound vào tuần thứ hai của tháng 9. Với tốc độ tiêu thụ tăng mạnh vào dịp lễ sắp tới, dự báo giá ức gà Tây sẽ vượt mức 7 USD/ pound.

ARGENTINA

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, Chăn nuôi và Thủy sản Argentina (SENASA và INDEC), 8 tháng đầu năm 2025, nước

sản lượng giết mổ heo với 5.521.175 con, tổng sản lượng 526.463 tấn. Trong thập kỷ qua, ngành giết mổ heo của Argentina đã duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình là 6%/năm, củng cố vị thế là một trong những ngành năng động nhất trong ngành sản xuất thịt của quốc gia này. Ngoài ra, mức tiêu thụ trong nước cũng đạt mức kỷ lục, tăng từ 10 lên 17,95 kg bình quân đầu người trong 10 năm, chứng tỏ thịt heo là lựa chọn ngày càng phổ biến trên bàn ăn của người Argentina. Hiện, đã có hơn 54 thị trường mở cửa cho sản phẩm thịt heo và phụ phẩm của Argentina.

PARAGUAY

Israel mua thịt bò Paraguay với giá cao nhất

Theo Ngân hàng Trung ương Paraguay (BCP), Israel là quốc gia trả giá cao nhất cho thịt bò Paraguay trong 8 tháng đầu năm, với mức 6.466 USD/tấn, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2024. Đến hết tháng 8, Israel là thị trường nhập khẩu thịt bò lớn thứ ba của Paraguay, với khối lượng 23.800 tấn, giá trị đạt 153,6 triệu USD, tăng 40,6% về khối lượng và tăng 75,3% về giá trị. Brazil là thị trường mua thịt bò Paraguay với giá cao thứ hai, với giá 6.382 USD/tấn, cao hơn 12,6% so với cùng kỳ năm 2024. Quốc gia láng giềng này là thị trường nhập khẩu thịt bò lớn thứ 5 của Paraguay vào cuối tháng 8, với 13.500 tấn, trị giá 84,4 triệu USD; giảm 25% về khối lượng và giảm 15% về giá trị.

BRAZIL

khẩu trứng gia cầm tăng cao

Theo dữ liệu từ Hiệp hội Protein Động vật Brazil (ABPA), tháng 8/2025, xuất khẩu trứng của Brazil (bao gồm cả sản phẩm tươi sống và chế biến) đạt sản lượng 2.129 tấn, tăng 71,9% so với cùng kỳ năm 2024; giá trị đạt 5,729 triệu USD, tăng 90,8%. Điểm đến xuất khẩu chính trong tháng 8 là Nhật Bản, với 578 tấn (tăng 328,5%); tiếp theo là Mỹ, với 439 tấn (tăng 628,9%); Mexico, với 304 tấn; UAE, với 182 tấn và Chile, với 172 tấn. Lũy kế 8 tháng đầu năm, xuất khẩu trứng gia cầm của Brazil đạt 32.303 tấn, tăng 192,2%; kim ngạch đạt 75,295 triệu USD, tăng 214,5%.

THÁI LAN

Quy định mới về nhập khẩu ngô làm thức ăn chăn nuôi

Thái Lan sẽ cấm nhập khẩu ngô làm thức ăn chăn nuôi được sản xuất từ hoạt động đốt các phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ. Ngày 22/9, ông Duangarthit Nidhi-u-tai, Phó Tổng giám đốc Cục Ngoại thương (Bộ Thương mại Thái Lan), cho biết, các nhà máy thức ăn chăn nuôi phải xuất trình bằng chứng chứng minh ngô nhập khẩu có nguồn gốc “không đốt” từ ngày 1/1/2026. Thái Lan thường nhập khẩu ngô từ các nước láng giềng bao gồm Myanmar, Lào và Campuchia, nơi nông dân vẫn dựa vào phương pháp đốt nương làm rẫy. Các đám cháy tạo ra khói dày đặc, và gió thường đẩy khói mù vào miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng ô nhiễm không khí theo mùa của nước này. Ba nước láng giềng đã cung cấp 2 triệu tấn ngô cho Thái Lan vào năm 2024. Thái Lan cần hơn 8 triệu tấn ngô mỗi năm để sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhưng chỉ sản xuất được khoảng 5 triệu tấn trong nước.

TRUNG QUỐC

Ồ ạt nhập khẩu đậu tương

Argentina

Chỉ một ngày sau khi Tổng thống Argentina Javier Milei thông báo tạm thời bãi bỏ thuế xuất khẩu ngũ cốc và sản phẩm phụ, ngày 23/9, các nhà nhập khẩu Trung Quốc đã ký hợp đồng mua 15 chuyến hàng đậu tương, mỗi chuyến khoảng 65.000 tấn sẽ được giao trong tháng 11 tới. Trước đó, mức thuế áp dụng cho đậu tương là 26%. Chính sách mới của Argentina có hiệu lực đến tháng 10, hoặc cho đến khi kim ngạch xuất khẩu đạt 7 tỷ USD. Trung Quốc đã nhập khẩu khối lượng đậu tương kỷ lục trong 4 tháng liên tiếp từ tháng 5 đến tháng 8 để dự trữ cho quý IV, chủ yếu từ Nam Mỹ. Theo ước tính, Trung Quốc đã hoàn tất gần như toàn bộ nhu cầu tháng 10 và khoảng 15% nhu cầu tháng 11 từ các nhà cung cấp tại Nam Mỹ. Trong khi đó, những năm trước, ở thời điểm này Bắc Kinh thường đã mua 12 - 13 triệu tấn đậu tương từ Mỹ.

ĐỨC DŨNG (Tổng hợp)

Hợp tác nuôi heo nhà tầng công nghệ cao

Ngày 28/9, Công ty CP Nông nghiệp BAF Việt Nam chính thức ký kết hợp tác liên doanh với Tập đoàn thực phẩm Muyuan (Trung Quốc) để xây dựng, vận hành dự án chăn nuôi công nghệ cao nhà cao tầng tại tỉnh Tây Ninh.

Dự án có quy mô ước tính 64.000 heo nái và 1,6 triệu heo thịt bán ra/năm; công suất nhà máy cám ước tính 600.000 tấn/năm; tổng đầu tư 12.000 tỷ VND và doanh thu dự kiến khoảng 10.000 tỷ VND/năm.

Dự án sẽ đặt tiêu chuẩn an toàn sinh học cao khi được thiết kế như một đảo an toàn độc lập gồm 5 tầng, mỗi tầng có thể hoạt động độc lập để ngăn ngừa lây nhiễm chéo. Hệ thống lọc không khí được trang bị đầy đủ, đạt tỷ lệ khử trùng 99,9%, ngăn ngừa lây lan dịch bệnh giữa các tòa nhà. Đặc biệt, công nghệ mới có thể kiểm soát áp dụng kiểm soát môi trường thông minh; hệ thống cho ăn thông minh dựa trên độ tuổi và cân nặng của từng con

CÔNG TY CP THỰC PHẨM REVOFOOD

cao

Revofood là một trong những đơn vị đầu tiên trong ngành chăn nuôi hướng tới sản xuất dòng thực phẩm chất lượng cao, đạt cả 2 tiêu chí, vừa an toàn, vừa dinh dưỡng. Đàn vật nuôi trong trang trại Revofood - hiện đặt tại Phú Thọ với quy mô khoảng 100 con heo nái, 1.000 - 1.200 heo thịt/tháng và 20.000 con gà, trong đó có 1.500 gà đẻ trứng. Năm 2024, Công ty ghi nhận cột mốc quan trọng khi lần đầu cung ứng ra thị trường các sản phẩm chế biến ăn liền, như giò, chả, xúc xích… ReveFood đã sở hữu hệ sinh thái chăn nuôi khép kín, bắt đầu từ khâu chủ động chế biến thức ăn chăn nuôi, xây dựng hệ thống chuồng trại rộng 20 ha theo mô

hình xanh, bền vững cho đến việc thiết lập cơ sở pha lóc tại Phú Thọ và Long Biên (Hà Nội) đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 22000.

BẢO

BÌNH

MEGAVET

Tích hợp AI trong chọn lọc giống heo

Ông Đặng Hoàng Lâm, Phó Giám đốc Công ty CP Thú y Megavet

Việt Nam cho biết, Megavet đang phối hợp với các đối tác triển khai hệ thống công nghệ thông minh tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất tinh dịch, phối giống và chọn lọc con giống heo. Các hệ thống này giúp đánh giá chất lượng tinh dịch, siêu âm chính xác và hỗ trợ chọn giống hiệu quả, qua đó nâng cao năng suất sinh sản và chất lượng thịt thương phẩm. Đặc biệt, phần mềm siêu âm tích hợp AI giúp sàng lọc con giống ưu việt ngay tại trại hoặc thông qua trung tâm xử lý hình ảnh từ xa. “Chúng tôi đã phối hợp với Học viện Nông nghiệp Việt Nam thành lập Trung tâm đào tạo chuyển giao công nghệ, trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại nhằm đào tạo kỹ thuật viên, sinh viên và người chăn nuôi tiếp cận công nghệ mới. Doanh nghiệp cũng đã tổ chức nhiều khóa huấn luyện cho các tập đoàn lớn và các đối tác trên toàn quốc”, ông Lâm chia sẻ. MỘC LAN

heo, thực hiện “mỗi ngày 1 công thức”, chuẩn bị thức ăn cân bằng dinh dưỡng một cách chính xác…

CÔNG TY SỮA VĨNH THỊNH

cho nông dân

Công ty CP Chăn nuôi và Chế biến sữa Vĩnh Thịnh có quy mô đầu tư với công suất thiết kế 1.500 - 2.000 tấn sản phẩm/năm, với hệ thống cơ sở hạ tầng, dây chuyền, thiết bị đồng bộ, hiện đại, quy trình sản xuất và quản lý sản xuất đạt tiêu chuẩn ISO 22000:2018. Hiện nay, Công ty đã đi vào hoạt động ổn định, liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm sữa bò cho hơn 20 hộ dân tại xã Vĩnh Phú, tỉnh Phú Thọ, tạo việc làm cho 12 - 15 lao động, thu nhập bình quân đạt khoảng 7 - 12 triệu đồng/tháng. Giám đốc Công ty Nguyễn Tiến Lộc chia sẻ, nhờ ứng dụng các kỹ thuật hiện đại vào chế biến, toàn bộ sản phẩm đều được lên men tự nhiên, sử dụng hệ thống men vi sinh riêng, tạo hương vị đặc trưng cho sản phẩm; năm 2023, các sản phẩm chế biến từ sữa của Công ty đạt được chứng nhận OCOP 3 sao của tỉnh.DIỆU AN

JAPFA LONG AN

Tiên phong giải pháp xanh trong sản xuất

Được xây dựng từ năm 2005 tại Ấp 2, xã Bình Đức, tỉnh Tây Ninh (Long An cũ), Nhà máy thức ăn chăn nuôi Long An là nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi thứ hai của Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam. Với công suất mỗi năm đạt 300.000 tấn thức ăn gia súc, gia cầm và 30.000 tấn thức ăn thủy sản (đợt 1), nhà máy Japfa Long An trở thành nguồn cung ứng quan trọng cho hệ thống đại lý và các trang trại tại khu vực ĐBSCL và Đông Nam bộ. Trong những năm gần đây, Japfa Long An tiên phong triển khai nhiều giải pháp xanh trong vận hành, giảm thiểu tác động đến môi trường. Nhà máy đẩy mạnh tái sử dụng bao bì, giảm thiểu rác thải nhựa, chuyển đổi 100% xe nâng điện để giảm phát thải carbon và tiết kiệm chi phí vận hành. Song song đó, hệ thống máy nghiền, máy ép viên và dây chuyền sản xuất cũng liên tục được cải tiến nhằm tối ưu điện năng và bảo vệ môi trường. HẢI LÝ

VÂN ANH

KHOÁNG HỮU CƠ

Lời giải mới cho bài toán bền vững

ngành chăn nuôi

Sáng 2/10 tại Hà Nội, Tập đoàn Olmix Châu Á phối hợp cùng các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng tổ chức Hội thảo “Khoáng hữu cơ thế hệ mới – Giải pháp dinh dưỡng hiệu quả và bền vững cho ngành chăn nuôi”.

Phát biểu khai mạc, ông Trịnh Quang Thanh - Tổng Giám đốc Olmix Châu Á nhấn mạnh: “Ngành chăn nuôi Việt Nam đang đứng trước những thách thức chưa từng có: chi phí thức ăn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, trong khi thị trường ngày càng đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe về an toàn, truy xuất nguồn gốc và tính bền vững. Trong bối cảnh đó, việc tìm ra giải pháp dinh dưỡng vừa hiệu quả, vừa thân thiện môi trường là yêu cầu cấp thiết. Khoáng hữu cơ thế hệ mới chính là một trong những lời giải để ngành chăn nuôi nâng cao năng suất, cải thiện sức khỏe đàn vật nuôi và hướng tới phát triển bền vững.”

Ông Thanh cũng khẳng định, Olmix luôn đồng hành cùng người chăn nuôi Việt Nam thông qua nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và cung cấp những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Trong báo cáo chuyên đề mở đầu, bà Trần Ngọc Yến - Giám đốc Khối Phân tích Ngành của AgroMonitor đã cập nhật tình hình chăn nuôi Việt Nam và triển vọng quý IV/2025. Theo bà Yến, giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao do chi phí nguyên liệu nhập khẩu chưa giảm mạnh, trong khi nhu cầu tiêu thụ nội địa tăng chậm. Thị trường xuất khẩu gia cầm có tiềm năng, nhưng cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan và Brazil khiến Việt Nam phải nâng cao chất lượng và truy xuất nguồn gốc.

Bà Yến cũng cho rằng, để phát triển bền vững, chăn nuôi Việt Nam cần chuyển hướng

sang mô hình liên kết, áp dụng công nghệ dinh dưỡng xanh và giải pháp quản lý hiện đại.

“Gia cầm vẫn là phân khúc tiềm năng nhờ xu hướng tiêu dùng toàn cầu, nhưng muốn nắm bắt cơ hội, chúng ta phải thay đổi từ gốc - từ con giống, công thức dinh dưỡng cho tới quản trị chuỗi cung ứng. Chỉ khi đó, ngành mới có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu lớn trong khu vực.”

Đi sâu vào khía cạnh dinh dưỡng, ông Bruno Jestin - Quản lý khu vực Châu Á, Axiom đã trình bày chuyên đề về điều chỉnh dinh dưỡng phù hợp cho heo giống Axiom tại Việt Nam.

Theo ông, nhu cầu về khẩu phần tối ưu cho heo nái và heo con đang tăng cao, đòi hỏi công thức dinh dưỡng linh hoạt hơn để vừa kiểm soát chi phí, vừa đảm bảo năng suất sinh sản. Axiom đã tiến hành nhiều thử nghiệm tại Việt Nam, qua đó cho thấy việc cân đối protein và khoáng vi lượng mang lại hiệu quả rõ rệt trong tăng trưởng và sức khỏe đàn giống.

Trong phần trình bày tiếp theo, PGS.TS Nguyễn Quang Thiệu - Phó Trưởng khoa

Chăn nuôi Thú y, Đại học Nông Lâm TP.HCM nhấn mạnh vai trò của khoáng chất trong dinh dưỡng chăn nuôi. Ông cho biết, khoáng tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong khẩu phần, nhưng quyết định đến sức đề kháng, khả năng sinh sản và tốc độ tăng trưởng của đàn vật nuôi. Trên thực tế, nhiều trang trại vẫn gặp tình trạng thiếu hoặc thừa khoáng do công thức chưa chuẩn,

dẫn đến hiệu quả thấp và lãng phí chi phí. “Khoáng hữu cơ thế hệ mới của Olmix giúp cải thiện khả năng hấp thu, ổn định hệ tiêu hóa, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường nhờ hạn chế lượng khoáng thải ra. Đây là hướng đi phù hợp với mục tiêu phát triển chăn nuôi bền vững tại Việt Nam,” PGS.TS Thiệu nhấn mạnh. Khép lại chuỗi tham luận, ông Lương Tấn Phát - Quản lý dịch vụ kỹ thuật Olmix đã giới thiệu chi tiết về dòng khoáng hữu cơ thế hệ mới mà tập đoàn phát triển. Theo ông Phát, sản phẩm được nghiên cứu dựa trên nền tảng công nghệ sinh học biển của Pháp, ứng dụng cho cả heo và gia cầm. Điểm nổi bật là khả năng liên kết ion bền vững, giúp vật nuôi hấp thu tối đa, giảm thiểu hao hụt và mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.

“Trong bối cảnh Việt Nam hướng đến giảm kháng sinh trong chăn nuôi, khoáng hữu cơ là một công cụ quan trọng để tăng cường sức khỏe đường ruột, phòng ngừa bệnh tật tự nhiên,” ông Phát khẳng định. Giải pháp này cũng góp phần đáp ứng tiêu chuẩn cao của thị trường xuất khẩu, vốn ngày càng yêu cầu nghiêm ngặt về dư lượng và an toàn sinh học. Trong không khí cởi mở, các chuyên gia đánh giá cao nỗ lực của Olmix trong việc mang đến giải pháp khoa học tiên tiến, góp phần định hướng ngành chăn nuôi theo hướng hiệu quả và bền vững.

THÙY KHÁNH

CÔNG TY TNHH B.H.N

Đơn vị cung cấp máy phân loại trứng gà hàng đầu Việt Nam

Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cung cấp thiết bị chăn nuôi, B.H.N tự hào là đơn vị uy tín và được đông đảo khách hàng tin dùng nhất tại Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp máy phân loại trứng gà. Chúng tôi mang đến đa dạng các dòng máy hiện đại với công suất phù hợp cho mọi quy mô sản xuất, từ 10.000 - 80.000 trứng/giờ giúp các trang trại và xưởng sản xuất dễ dàng lựa chọn thiết bị phù hợp với nhu cầu thực tế.

Các tính năng trong máy

phân loại trứng gà

Các dòng máy phân loại trứng

của B.H.N sử dụng công nghệ hiện

đại từ Hàn Quốc, tích hợp những

công nghệ tiên tiến và nhiều tính năng nổi bật như: rửa - sấy - làm sạch trứng, phân loại chính xác

theo kích cỡ và trọng lượng, tự

động đóng gói chuyên nghiệp các loại vỉ nhựa vỉ giấy 6, 10, 12, 20, 30 trứng/vỉ. Ngoài ra, còn các

lựa chọn như kiểm tra phát hiện và loại bỏ trứng nứt, trứng máu. Nhờ đó, quá trình xử lý trứng trở nên nhanh chóng, đồng đều và đạt chuẩn chất lượng cao.

Các lợi ích khi sử dụng máy phân loại trứng gà

Việc sử dụng máy phân loại trứng gà thay thế cho phương pháp thủ công mang lại nhiều lợi ích vượt trội:

- Tiết kiệm thời gian và nhân công: Máy có thể xử lý hàng chục nghìn quả trứng mỗi giờ, thay thế cho nhiều lao động thủ công.

- Đảm bảo độ chính xác và đồng đều: Trứng được phân loại chuẩn theo size (S, M, L, XL), đáp ứng nhu cầu của thị trường và xuất khẩu.

- Giảm tỷ lệ vỡ hỏng: Hệ thống băng tải và khay nâng được thiết kế nhẹ nhàng, hạn chế rơi vỡ, nứt vỏ.

- Tăng tính chuyên nghiệp và

thương mại: Trứng được đóng gói đồng bộ, nâng cao uy tín thương hiệu và dễ dàng phân phối vào các siêu thị, chuỗi thực phẩm sạch.

- Tiết kiệm chi phí dài hạn: Đầu tư ban đầu hợp lý, về lâu dài giúp giảm chi phí nhân công và

tổn thất do trứng hư hỏng.

- Đáp ứng quy mô sản xuất

lớn: Khi sản lượng đạt từ vài

nghìn đến hàng chục nghìn quả mỗi ngày, việc ứng dụng máy móc là giải pháp bắt buộc và hiệu quả nhất.

Chúng tôi tự hào là một trong những đơn vị cung cấp máy phân loại trứng gà hàng đầu tại Việt

Nam. Bên cạnh chất lượng sản phẩm, B.H.N còn có lợi thế về dịch vụ hậu mãi chuyên nghiệp. Chúng tôi sở hữu đội ngũ kỹ sư lành nghề tại Việt Nam, được đào tạo chuyên sâu về hệ thống máy, sẵn sàng lắp đặt nhanh chóng, bảo hành tận nơi và xử lý kịp thời mọi sự cố phát sinh. Nhờ đó, khách hàng luôn yên tâm trong quá trình vận hành, đảm bảo máy hoạt động ổn định và đạt hiệu suất cao nhất.

B.H.N

➢ Với kinh nghiệm, uy tín và sự đồng hành trọn gói từ tư vấn, cung cấp

đến bảo trì, B.H.N chính là sự lựa chọn lý tưởng cho các trang trại chăn nuôi và doanh nghiệp sản xuất trứng tại Việt Nam, góp phần nâng cao năng suất, tối ưu chi phí và đưa sản phẩm trứng sạch đạt chuẩn đến tay người tiêu dùng trong và ngoài nước. Quý khách hàng có nhu cầu về máy phân loại trứng gà, hãy liên hệ với chúng tôi qua hotline: 028-668-10195/ 96

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Địa chỉ: DP-18, Dragon Parc 2, KDC Phú Long, đường Nguyễn Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh

Nông nghiệp Xanh

CHO TƯƠNG LAI BỀN VỮNG

Hội chợ triển lãm Quốc tế Công nghệ Nông nghiệp và Môi trường - VietAgros 2026 sẽ diễn ra từ ngày 26 đến 28/3/2026 tại Công viên Sông Hậu, phường Cái Khế, TP. Cần Thơ.

Hội chợ điển hình

Được sự chấp thuận của UBND TP. Cần Thơ, Sở Công Thương TP. Cần Thơ, Công ty TNHH Kết nối Nông nghiệp và Môi trường Việt tổ chức chương trình “Hội chợ triển lãm Quốc tế Công nghệ Nông nghiệp và Môi trường - VietAgros 2026 ”. Đồng hành cùng sự kiện là các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ, ngành trung ương và địa phương; các cơ quan thông tấn báo chí.

VietAgros 2026 ra đời với mục tiêu trở thành hội chợ điển hình của ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Trong đó, sự kiện sẽ giới thiệu những thành tựu nổi bật của nông nghiệp Việt Nam, xu thế phát triển của ngành trong bối cảnh khái niệm “Kinh tế xanh ”, “Kinh tế tuần hoàn ” dần

trở nên phổ biến.

Hội chợ trưng bày, giới thiệu nhiều

sản phẩm, dịch vụ, công nghệ trong lĩnh

vực thủy sản, chăn nuôi và trồng trọt.

Bên cạnh đó, những ứng dụng khoa

học kỹ thuật tiên tiến, kết quả nghiên cứu mới nhất trong và ngoài nước cũng sẽ xuất hiện tại VietAgros 2026, giúp khách tham quan có thể tiếp cận và lựa chọn những sản phẩm phù hợp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng những tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường.

VietAgros 2026 mở ra cơ hội thúc đẩy, mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu kinh tế, quảng bá thương hiệu, giới thiệu, tôn vinh những sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế; trên cơ sở đó, củng cố vững chắc vị thế, khai thác hiệu quả thị trường nội địa và xuất khẩu. Hội chợ còn là diễn đàn mở cho ngành nông nghiệp. Tại đây, người chăn nuôi, doanh nghiệp, nhà quản lý và nhà khoa học có thể trao đổi, kết nối, chia sẻ, phổ biến kiến thức, nhằm hướng tới một mục tiêu chung là xây dựng một nền nông ngiệp xanh, bền vững tại Việt Nam.

Vì một nền nông nghiệp xanh

Trên thực tế, nông nghiệp xanh đã nổi lên như một xu hướng thiết thực và cần thiết trong bối cảnh môi trường đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Với sự kết hợp giữa sự phát triển nông nghiệp và bảo vệ môi trường, nông nghiệp xanh mang lại một cách tiếp cận mới, tạo ra những lợi ích lớn cho cả con người và hệ sinh thái.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD), nông nghiệp xanh là mô hình phát triển tối đa nguồn nông nghiệp sạch từ đó cho ra một mô hình nông nghiệp phát triển một cách bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường xanh, sạch. Mô hình này đem lại năng suất, hiệu quả vượt trội và đồng thời cũng giúp bảo vệ môi trường và sức khỏe người dân một cách tốt hơn.

Việt Nam đã xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp sạch, hữu cơ đến hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ bao gồm cả những quốc gia có tiêu chuẩn cao như Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… Đây là minh chứng rõ rệt cho thấy tầm quan trọng của nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái.

Ngành nông nghiệp Việt Nam đã áp dụng thành công nhiều mô hình sản xuất xanh. Đối với thủy sản, mô hình lúatôm ở Cà Mau là một điển hình tiêu biểu. Người dân đã kết hợp nuôi tôm ngay dưới chân ruộng lúa. Đây là canh tác thuận với môi trường, giảm chi phí phân bón, nước, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học - những thứ gây tác động tới môi trường, hiệu ứng nhà kính. Hay như ở Hải Phòng, Hưng Yên đang phát triển lúa - rươi. Mô hình này là nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh, hướng tới không lạm dụng phân, thuốc.

Với lĩnh vực chăn nuôi, chúng ta đang đẩy mạnh hướng dẫn nông dân thu gom chất thải vật nuôi để nuôi trùn quế, ruồi lính đen… tạo nguồn protein làm thức ăn cho vật nuôi trong bối cảnh giá thức

ăn chăn nuôi tăng cao, vừa chuyển hóa chất thải thành phân bón hữu cơ, vừa giảm tác hại đến môi trường; dùng đệm lót sinh học từ phụ phẩm trồng trọt để cải thiện môi trường chuồng nuôi; ủ phân chuồng từ phụ phẩm làm phân hữu cơ; xử lý rơm, thân ngô làm thức ăn thô xanh; phát triển công trình khí sinh học (biogas) tạo năng lượng tái tạo cho sản xuất và sinh hoạt.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng khốc liệt, nông nghiệp xanh hay nói rộng hơn là kinh tế xanh đòi hỏi cả thế giới đều phải thay đổi về nhận thức. Phát triển nông nghiệp xanh, bền vững không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo sinh kế cho nông dân, bảo vệ môi trường và duy trì tài nguyên cho các thế hệ tương lai.

Chính vì vậy, "Nông nghiệp xanh" sẽ là chủ đề chính của Hội chợ triển lãm Quốc tế Công nghệ Nông nghiệp và Môi trường - VietAgros 2026. Chủ đề sẽ tập trung vào 3 lĩnh vực chủ đạo của ngành nông nghiệp là thủy sản, chăn nuôi và trồng trọt.

VietAgros 2026 diễn ra trong 03 ngày, từ ngày 26 đến 28/3/2026 tại Công viên

Sông Hậu, phường Cái Khế, TP. Cần Thơ.

Với quy mô 250 gian hàng cùng 4 phiên Hội thảo và chương trình “Tôn vinh doanh nghiệp uy tín, cam kết hành động vì cộng đồng”, Hội chợ dự kiến sẽ thu hút trên 10.000 lượt khách trong nước và quốc tế tới tham dự. ☐

Thông tin liên hệ:

Công ty TNHH Kết nối Nông nghiệp và Môi trường Việt

Hotline: 098 666 7926

Email: Info@vietagros.vn

Website: www.vietagros.vn

TVONE ĐƯA VIỆT NAM VÀO KỶ NGUYÊN

PHỤ GIA CHĂN NUÔI TỪ THỰC VẬT

Sáng 27/9/2025, tại Cụm công nghiệp Tiên Tiến (xã Thịnh Minh, tỉnh Phú Thọ), Công ty CP TVOne Việt Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà máy sản xuất phụ gia thức ăn chăn nuôi từ chiết xuất thực vật (Phytogenics) - công trình đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng công nghệ hiện đại để sản xuất phụ gia thế hệ mới thay thế kháng sinh.

Dấu mốc mới của ngành chăn nuôi

Sự kiện có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UBND tỉnh Phú Thọ, các sở, ngành địa phương, chuyên gia trong và ngoài nước cùng nhiều doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, chủ trang trại lớn trên toàn quốc.

Đây được xem là dấu mốc quan trọng không chỉ với TVOne mà còn với ngành chăn nuôi Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình nông nghiệp xanh - bền vững, giảm thiểu tối đa việc sử dụng kháng sinh trong sản xuất thực phẩm.

Nhà máy Phytogenics của TVOne có công suất 18.000 tấn/năm, được trang bị dây chuyền đồng bộ nhập khẩu từ châu Âu với

mức độ tự động hóa hơn 80%, vận hành bằng robot và trí tuệ nhân tạo (AI). Công nghệ hiện đại cho phép kiểm soát hoạt chất ở cấp độ vi lượng, phân tích dữ liệu theo thời gian thực và đảm bảo tính đồng nhất tuyệt đối của từng lô sản phẩm.

Đặc biệt, toàn bộ quy trình sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe như GMP+, ISO 9001, ISO 22000 và ISO 14001. Hệ thống phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO 17025 giúp kiểm soát chất lượng từ nguyên liệu đầu vào tới thành phẩm, bảo đảm độ an toàn và hiệu quả cao nhất cho sản phẩm đầu ra. Điểm nhấn quan trọng của nhà máy là việc sử dụng tới 95% nguyên liệu nội địa, chủ yếu từ các vùng trồng dược liệu đạt chuẩn

GACP, VietGAP và GlobalGAP trong nước. Điều này không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, mà còn tạo ra chuỗi giá trị khép kín, truy xuất nguồn gốc rõ ràng và góp phần phát triển hệ sinh thái nông nghiệp công nghệ cao.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Đức Phương, Tổng Giám đốc TVOne, nhấn mạnh: “Việc khánh thành nhà máy không chỉ là cột mốc phát triển của Cvông ty mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của chúng tôi trong việc mang tới giải pháp dinh dưỡng từ thiên nhiên, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm chăn nuôi và đảm bảo an toàn thực phẩm cho cộng đồng”. Theo ông Phương, nhà máy Phytogenics sẽ trở thành

trung tâm sản xuất hàng đầu, góp phần đưa

Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu loại bỏ kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi sau năm 2025 - một trong những yêu cầu trọng tâm

của Luật Chăn nuôi.

Ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng

Cục Chăn nuôi và Thú y đánh giá cao ý nghĩa của dự án: “Việc khánh thành nhà máy phụ gia thực vật khẳng định ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi của Việt Nam không chỉ dừng ở sản xuất thức ăn hỗn hợp, mà đã bước vào giai đoạn làm chủ nguyên liệu cốt lõi”. Theo ông Đăng, để cạnh tranh trong bối cảnh biến đổi khí hậu, dịch bệnh và áp lực hội nhập, ngành cần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm khác biệt có giá trị cao và nhà máy Phytogenics chính là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, việc tập trung phát triển phụ gia từ dược liệu, tảo biển và phụ phẩm nông nghiệp không chỉ tận dụng lợi thế đa dạng sinh học của Việt Nam mà còn mở ra cơ hội xuất khẩu lớn.

Ông Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ khẳng định, nhà máy Phytogenics của TVOne là minh chứng cụ thể cho hướng phát triển nông nghiệp xanh, hiện đại và bền vững của tỉnh. Việc nhà máy TVOne đi vào hoạt động sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy công nghiệp phụ trợ, tạo việc làm và đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương.

“Đặc biệt, với mức độ tự động hóa lên tới 80% và tỷ lệ sử dụng nguyên liệu trong nước cao, dự án của TVOne không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn khẳng định hướng đi đúng đắn của ngành nông nghiệp trong thời kỳ mới,” ông Sứ nhấn mạnh.

➢ Nhà máy sản xuất phụ gia thức

ăn chăn nuôi từ chiết xuất thực vật Phytogenics của TVOne Việt Nam

được xây dựng trên diện tích hơn

7.000 m2 với tổng vốn đầu tư gần

8 triệu USD. Với công suất 18.000 tấn/năm, nhà máy đi vào hoạt động sẽ chính thức ghi tên Việt Nam lên bản đồ thế giới về khả năng tự chủ trong sản xuất phụ gia và giải pháp thay thế kháng sinh từ chiết xuất thực vật và là bước đột phá, cung cấp một giải pháp toàn diện và bền vững cho ngành chăn nuôi

Việt Nam.

ÔNG NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG

Tổng Giám đốc TVOne Việt Nam

"Là đơn vị tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất phụ gia Phytogenics, TVOne Việt Nam cam kết mang đến những giải pháp khác biệt, hiệu quả và an toàn. Với triết lý “Natural Solution, Safe Community” (Giải Pháp Tự Nhiên, Cộng Đồng An Toàn), mỗi sản phẩm được sản xuất ra không chỉ đáp ứng kỳ vọng mà còn tạo ra giá trị vượt trội, góp phần nâng cao sức khỏe vật nuôi và hiệu quả chăn nuôi bền vững. Trong thời gian tới, TVOne Việt Nam cũng đã đặt ra một lộ trình phát triển toàn diện. Về sản phẩm, sẽ tiếp tục cung cấp các sản phẩm Phytogenics chất lượng vượt trội. Đồng thời, không ngừng nghiên cứu để đa dạng hóa và phát triển các dòng sản phẩm mới, khác biệt, mang hàm lượng công nghệ cao".

Đòn bẩy nâng cao giá trị sản phẩm

Sự kiện khánh thành nhà máy cũng ghi nhận sự đồng hành của nhiều đối tác quốc tế. Ông Franck, Giám đốc Thương mại toàn cầu của IDENA (Pháp), đối tác chiến lược của TVOne, đánh giá cao nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam trong việc đầu tư công nghệ và phát triển sản phẩm tiên tiến. Ông cho biết, Idena với hơn 30 năm kinh nghiệm nghiên cứu tinh dầu và phụ gia chiết xuất từ thực vật tại hơn 60 quốc gia sẽ tiếp tục hỗ trợ kỹ thuật và thương mại cho TVOne, đồng thời mở rộng hợp tác để cùng đưa sản phẩm

Việt Nam ra thị trường quốc tế.

Giáo sư In Ho Kim, giảng viên ngành

thức ăn chăn nuôi tại Đại học Konkuk (Hàn Quốc) và là cố vấn của TVOne, cũng đánh giá cao lựa chọn chiến lược của công ty khi tập trung vào nguồn nguyên liệu tự nhiên.

“Đây là hướng đi tốt cho vật nuôi, con người và môi trường - một minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa công nghệ hiện đại và giá trị truyền thống” - ông nhận xét.

Trong bối cảnh Việt Nam và thế giới đang hướng tới loại bỏ hoàn toàn kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi, công nghệ Phytogenics được kỳ vọng sẽ đóng vai trò then chốt. Không chỉ giúp tăng cường sức đề kháng tự nhiên cho vật nuôi, phụ gia chiết xuất từ thực vật còn góp phần cải thiện hiệu suất sử dụng thức ăn, giảm chi phí sản xuất và tạo ra sản phẩm an toàn hơn cho người tiêu dùng.

Nhờ năng lực nghiên cứu - phát triển cùng chuỗi cung ứng khép kín từ vùng nguyên liệu đến thành phẩm, TVOne đặt mục tiêu trở thành đơn vị tiên phong trong sản xuất phụ gia Phytogenics tại Việt Nam và khu vực. Với nền tảng công nghệ hiện đại, nguồn nguyên liệu tự chủ, đội ngũ chuyên gia tâm huyết cùng sự đồng hành của cơ quan quản lý, nhà máy được kỳ vọng sẽ trở thành “bệ phóng” cho ngành chăn nuôi Việt Nam trong giai đoạn phát triển xanh - sạch - bền vững và hội nhập sâu rộng với thế giới. NAM LINH

-

Khám

phá chuỗi hội

nghị & hội thảo kỹ thuật tại

VIETSTOCK 2025

Chuỗi hội nghị và hội thảo kỹ thuật sẽ được tổ chức xuyên suốt 3 ngày triển lãm Vietstock 2025 (từ 8 - 10/10/2025) tại Trung tâm Hội chợ và

Triển lãm Sài Gòn (SECC), TP. Hồ Chí Minh. Đây là nơi các chuyên gia đầu ngành chia sẻ những giải pháp toàn diện, bền vững, có cơ sở khoa học và khả thi về mặt kinh tế, giúp người chăn nuôi và doanh nghiệp dễ dàng ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững.

Trong khuôn khổ sự kiện, nhiều hội nghị và hội thảo chuyên ngành quan trọng sẽ được tổ chức:

Thời gian, địa điểm Chủ đề Trình bày

08/10/2025

Hôi nghị Chăn nuôi chủ trì

Phòng Hội

Nghị SECC

Nhà A

10:30 - 12:00

Phòng Hội

thảo Sài Gòn

Nhà A

10:30 - 12:00

Phòng Hội

thảo Mekong

Nhà A

13:30 - 16:30

Phòng Hội

thảo Sài Gòn

Nhà A

13:30 - 17:00

Phòng Hội

thảo Mekong

Nhà A

14:00 - 14:30

Khu gian hàng trứng

bởi Cục Chăn nuôi và Thú y “Ứng dụng Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và

Chuyển đổi số nhằm phát triển chăn nuôi bền vững”

Hội thảo kỹ thuật

Làm thế nào để cải thiện chất lượng viên cám từ góc độ thông

số sản xuất, cấu hình thiết bị và tối ưu hóa công thức?

Hội nghị Dịch tả lợn Châu Phi - Giải pháp kiểm soát hiệu quả

Hội nghị Chuyên Ngành Sản Phẩm Chăn Nuôi Thú “Tác động của những thay đổi trong Luật Tiêu chuẩn Quy chuẩn Kỹ thuật và Luật Chất lượng Sản phẩm Hàng hóa đến lĩnh vực Chăn nuôi Thú y”

Hội Nghị Phúc Lợi Động Vật “Chăn nuôi tuần hoàn và an toàn dịch bệnh nâng cao giá trị sản phẩm”

Hội thảo kỹ thuật

Quản lý an toàn thực phẩm trong

sản xuất trứng

Cục Chăn nuôi và Thú y Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Ông Changshan Shen Tư vấn kỹ thuật ZHONG XIN SHENG

PGS. TS. Pariwat Poolperm Professional Training and Consultants Co., Ltd

Hội Chăn nuôi Việt Nam (AHAV)

Phòng Hội

Nghị SECC Nhà A

09/10/2025

Hôi nghị Chăn nuôi chủ trì bởi Cục Chăn nuôi và Thú y “Nâng cao năng lực phát triển bền vững ngành chăn nuôi phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp”

“Nâng cao năng lực nghiên cứu, quản lý vacxin và thuốc thú y thích ứng với tình hình mới”

9:00 - 16:00

Phòng Hội

thảo Sài Gòn Nhà A

9:00 - 11:0

Khu gian hàng trứng

Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam (VFAEA)

Ông

Nguyễn Văn Ngà

Phó tổng giám đốc

Công ty cổ phần Mebi Farm

9:45 - 10:30

Phòng Hội

thảo Mekong Nhà A

Diễn đàn Kháng thuốc kháng sinh “Từ chính sách đến thực tiễn - cùng giải quyết trình trạng kháng thuốc kháng sinh”

Cục Chăn nuôi và

Thú y Bộ Nông nghiệp Và

Môi trường

Cục Chăn nuôi và

Thú y Bộ Nông nghiệp Và

Môi trường Công ty Ecolex Animal Nutrition

Công ty Boehringer

Ingelheim

Công ty ADM

Tập đoàn Schippers

Công ty EW Nutrition

Công ty AgPro

Hiệp hội Gia cầm Việt Nam (VPA)

ThS.

Nguyễn Thủy Tiên

Ngày Trứng thế giới

Trứng cho cuộc sống khỏe mạnh

Hội thảo kỹ thuật

Khả dụng của ion kẽm và

tác động của nó đến tiêu

chảy do E.coli ở heo con

Phó Trưởng Trạm Nghiên cứu Giống Gia cầm VIGOVA

Chu Thị Hồng Thủy

CEO Công ty TNHH

Chăn nuôi TAFA Việt.

Mr. Mario Brake

Trưởng nhóm Phụ gia

Thức ăn chăn nuôi MIAVIT

LIÊN HỆ CHÚNG TÔI:

▶ Đặt gian hàng: Ms. Sophie Nguyen - Sophie.Nguyen@ informa.com

▶ Hỗ trợ tham quan: Ms. Phuong - phuong.c@informa.com

▶ Hỗ trợ truyền thông & marketing: Ms. Anita Pham - anita. pham@informa.com

10:30 - 11:30

Phòng Hội

thảo Mekong

Nhà A

14:15 - 15:00

Phòng Hội

thảo Mekong

Nhà A

9:00 - 12:30

Phòng Hội

thảo Sài Gòn

Nhà A

9:00 - 11:45

Phòng Hội

thảo Sapa

Nhà B1

10:00 - 10:30

Khu gian

hàng trứng

11:15 - 12:00

Khu gian hàng trứng

Hội thảo kỹ thuật

Vai trò của khí hậu lý tưởng đối với năng suất chăn nuôi

Hội thảo kỹ thuật

Chất lượng và Số lượng nước là yếu tố quan trọng đối với Năng suất của Gà thịt

PUM - GREENVET PHARMA

Kết nối tri thức, lan tỏa giá trị

Từ ngày 8 - 22/9, Tổ chức PUM (Hà Lan) thông qua Hiệp hội Gia cầm

Việt Nam (VPA) đã cử chuyên gia quốc tế Harry Bijl đến triển khai

chương trình đào tạo chuyên sâu về hoạt động Marketing cho hội viên

của VPA - Công ty CP Dược phẩm Xanh Việt Nam (Green Pharma) - một trong hai doanh nghiệp được hỗ trợ của Dự án PUM lần này.

Ông Bạch Quốc

Thắng, Tổng Giám

đốc Greenvet

Pharma chia sẻ: “Tôi

xin gửi lời cảm ơn

đến VPA đã kết nối

với tổ chức PUM. Tôi

cũng xin cảm ơn ông

Harry Bijl - chuyên

Ông Kieron Daniels Chuyên gia về Gia Cầm SKOV

Ông Micheal Châu

Hỗ trợ Kinh doanh & Kỹ thuật Châu Á AVIAGEN 10/10/2025

Hội nghị chuyên ngành chăn nuôi gia súc lớn

“Các giải pháp thúc đẩy chăn nuôi gia súc nhai lại phát triển bền vững và hiệu quả”

Hội nghị chăn nuôi gia cầm

“Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Gia cầm

Việt Nam”

Hội thảo kỹ thuật

An toàn sinh học - Chìa khoá năng suất trong chăn nuôi hiện đại

Hội thảo kỹ thuật

Trứng lỏng thanh trùng

Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn Việt Nam (VINARUHA)

Hiệp hội Gia cầm

Việt Nam (VPA)

Ông Bùi Văn Minh

Bảo Giám đốc kỹ thuật TAFA GROUP

V.food, Tiện lợi - An toàn vệ sinh thực phẩm Ông

Trương Chí Cường

Phó Tổng Giám

Đốc Công ty TNHH

Thực phẩm Vĩnh

Thành Đạt

gia Marketing của

PUM đã dành thời

gian đến thăm và trực

tiếp đào tạo, tập huấn tại Công ty. Những kiến thức, kinh nghiệm quý báu mà chuyên gia đã chia sẻ là nguồn động lực quan trọng, giúp Công ty nâng cao hoạt động Marketing. Chúng tôi trân trọng ghi nhận và hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự đồng hành, hỗ trợ từ VPA, tổ chức PUM và chuyên gia Harry Bijl trong chặng đường sắp tới”.

Ông Vũ Văn Diễn, Phó Tổng Giám đốc Công ty Greenvet Pharma, Trưởng ban dự án PUM cho biết, bất cứ doanh nghiệp

Việt Nam nào nếu được sự hỗ trợ

từ PUM chắc chắn sẽ khắc phục những bất lợi và nâng tầm vị thế.

Đôi khi cách truyền tải, cách chuyên gia PUM đưa ra chính là cách nghĩ, nhận diện tìm ra hướng đi, giúp doanh nghiệp tự tin, nghiêm túc hơn với những

việc mình đã, đang làm và để làm

được tốt hơn.

Ông Harry Bijl, chuyên gia Marketing (PUM): “Tôi đánh giá cao doanh nghiệp Green Pharma, các bạn không chỉ xây dựng được

một doanh nghiệp “Xanh” mà các bạn đã xây dựng được một hệ sinh thái cùng với các doanh nghiệp khác trong VPA. Trong tương lai, các bạn có thể tiếp tục trao đổi, kết nối với tôi và tổ chức PUM, để xây dựng hệ sinh thái xanh bền vững hơn nữa”. Khóa tập huấn của PUM cho các doanh nghiệp của VPA Việt Nam đã tiếp tục khẳng định sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai bên. VPA bày tỏ sự trân trọng đối với sự hợp tác và hỗ trợ quý báu từ PUM trong thời gian qua, đồng thời mong muốn nhận được sự quan tâm hơn nữa trong các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, Marketing cũng như chuyên sâu về chăn nuôi… trong thời gian tới. Những kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu từ đội ngũ chuyên gia PUM được kỳ vọng sẽ giúp các doanh nghiệp VPA không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường.

BAN TRUYỀN THÔNG VÀ BAN

TÁC

BOGANIC B12

Chế phẩm bổ sung vitamin, acid amin và dưỡng chất cao cấp

Trong chăn nuôi gà, vịt, bài toán nan giải mà

hầu hết các chủ trại đều trăn trở là: “Làm sao

để vật nuôi vừa lớn nhanh, chắc thịt, lại hạn

chế hao tốn thức ăn?”. Đặc biệt, trong bối cảnh

giá nguyên liệu tăng cao, việc rút ngắn thời

gian nuôi, nâng cao tỷ lệ đồng đều đàn chính

là chìa khóa để tăng lợi nhuận.

Một giải pháp đang được nhiều trang trại áp dụng thành công là BOGANIC B12 - chế phẩm bổ sung vitamin, acid amin và dưỡng chất cao cấp do Công ty CP Hospivet Việt Nam sản xuất. Sản phẩm này được chứng minh giúp tăng trọng nhanh, mã đẹp, phục hồi nhanh sau bệnh, mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho người chăn nuôi.

Hiệu quả vượt trội của BOGANIC B12

☑ Tăng chuyển hóa - hấp thu cực nhanh, giúp vật nuôi sử dụng thức ăn hiệu quả hơn, giảm hao hụt.

☑ Tăng cân mạnh, chắc thịt, giảm mỡ, nâng cao giá trị thương phẩm.

☑ Nở vai, bung đùi, đẹp mã, đỏ tích, kích mào, đáp ứng tiêu chuẩn ngoại hình trong chăn nuôi gà thịt và gia cầm thương phẩm.

☑ Giải độc gan - thận, hỗ trợ phục hồi nhanh sau bệnh, giảm tỷ lệ hao hụt.

☑ Giúp gà, vịt khỏe mạnh, ăn ngon, lớn nhanh, rút ngắn thời gian nuôi, tăng vòng quay sản xuất.

Giá trị kinh tế cho trang trại

Khi sử dụng BOGANIC B12, nhiều trang

trại ghi nhận:

• Thời gian xuất bán rút ngắn 5- 7 ngày, giúp tiết kiệm chi phí thức ăn;

• Tỷ lệ đồng đều đàn cao hơn, giảm phân đàn, nâng cao năng suất;

• Hạn chế hao hụt sau bệnh, duy trì đàn khỏe mạnh, ổn định.

Điều này mang lại lợi nhuận cao hơn cho người chăn nuôi, đặc biệt trong bối cảnh chi phí thức ăn ngày càng tăng.

Đối tượng sử dụng

BOGANIC B12 phù hợp cho gà, vịt, ngan ở mọi giai đoạn: từ úm, tăng trưởng cho đến phục hồi sau bệnh và giai đoạn vỗ béo cuối kỳ.

Với những ưu điểm vượt trội, BOGANIC B12 xứng đáng là lựa chọn hàng đầu của các trại gà, vịt hiện nay - giải pháp dinh dưỡng giúp tăng trọng nhanh - mã đẹp - hiệu quả kinh tế bền vững.

Thông tin liên hệ: CÔNG TY CP HOSPIVET VIỆT NAM

ĐC: 189 Trường Lưu, phường Long Trường, TP Hồ Chí Minh

CN Miền Bắc: 566 Trường Chinh, phường Vạn Xuân, Thái Nguyên

ĐT: 0848 031 999 0868 206 888

Email: hospivetvn@gmail.com Website: www.hospivet.vn

CHÌA KHÓA MỚI CỦA NGÀNH THỨC ĂN CHĂN NUÔI

Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ khi tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data) đang ngày một phát triển. Những ứng dụng này không chỉ thay đổi cách vận hành dây chuyền mà còn tái định hình phương thức quản lý nguyên liệu, phối trộn công thức và đảm bảo chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao tính minh bạch và bền vững trong toàn chuỗi cung ứng.

Ứng dụng phân tích nhanh NIR trong kiểm soát nguyên liệu

Một trong những công nghệ điển hình của 4.0 trong lĩnh vực này là phân tích nhanh

NIR (Near Infrared Reflectance). Công nghệ cho phép xác định tức thì thành phần dinh dưỡng của nguyên liệu đầu vào, bao gồm protein, lipid, xơ thô và độ ẩm. Thay vì phải chờ kết quả phân tích hóa học kéo dài hàng

giờ đến vài ngày, chỉ trong vài phút hệ thống

NIR đã cung cấp dữ liệu chính xác để điều chỉnh công thức phối trộn. Đặc biệt, dữ liệu

được kết nối trực tiếp với phần mềm quản

lý trung tâm, giúp doanh nghiệp chủ động kiểm soát chất lượng từ khâu đầu vào và giảm thiểu rủi ro do biến động nguyên liệu.

Giám sát silo lưu trữ bằng cảm biến IoT

Song song với phân tích NIR, công nghệ cảm biến IoT được tích hợp vào hệ thống silo lưu trữ nguyên liệu. Các cảm biến liên tục đo nhiệt độ, độ ẩm và mức tồn kho, sau đó gửi dữ liệu theo thời gian thực về trung tâm điều khiển. Khi xuất hiện dấu hiệu bất thường, hệ thống ngay lập tức cảnh báo, giúp ngăn ngừa tình trạng nấm mốc, hư hỏng hoặc thất thoát nguyên liệu. Ứng dụng này đặc biệt quan trọng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của Việt Nam, nơi nguy cơ hỏng nguyên liệu cao nếu không có giám sát liên tục.

Phối

trộn tự động

Khâu phối trộn là một trong những bước quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng thức ăn chăn nuôi. Với sự hỗ trợ của công nghệ 4.0, hệ thống PLC (Programmable Logic Controller) kết hợp AI có thể kiểm soát chính xác tỷ lệ phối trộn đến từng gam. Đồng thời, phần mềm còn tính toán công thức tối ưu dựa trên dữ liệu giá cả thị trường, nhu cầu dinh dưỡng của từng loài vật nuôi và từng giai đoạn sinh trưởng. Khi giá hoặc chất lượng một loại nguyên liệu biến động, AI ngay lập tức đề xuất công thức thay thế để duy trì hiệu quả dinh dưỡng, giúp nhà máy vận hành linh hoạt và thích ứng nhanh với biến động thị trường.

Tự động hóa trong công đoạn ép viên

Công đoạn ép viên vốn đòi hỏi kiểm soát chặt chẽ về nhiệt độ, áp suất và độ ẩm. Nhờ hệ thống tự động hóa kết hợp cảm biến, sản phẩm sau ép viên đạt độ bền cơ học cao, giữ nguyên giá trị dinh dưỡng. Đối với thức ăn thủy sản, công nghệ ép viên nổi, viên chìm hoặc tan chậm cũng được điều khiển chính xác, đáp ứng đặc thù của từng đối tượng nuôi. Toàn bộ quá trình vận hành đều được giám sát trên màn hình điều khiển trung tâm, giảm thiểu tối đa sai sót từ con người.

Sấy, làm nguội và đóng gói thông minh Sau ép viên, sản phẩm được xử lý bằng công nghệ sấy tầng sôi và làm nguội tự động để

gian bảo quản lâu dài

về nguồn gốc nguyên liệu, quy trình sản xuất và kết quả kiểm nghiệm. Dữ liệu này được bảo mật bằng công nghệ blockchain, tạo ra hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch cho người chăn nuôi, nhà quản lý và cả thị trường quốc tế. Kết nối liên hoàn và quản

trên nền tảng số Điểm nổi bật nhất của công nghệ 4.0 trong sản xuất thức ăn chăn nuôi không nằm ở từng ứng dụng riêng lẻ, mà ở khả năng kết nối liên hoàn. Từ lúc nguyên liệu nhập kho đến khi sản phẩm hoàn thiện, toàn bộ dữ liệu được số hóa và lưu trữ trên nền tảng điện toán đám mây. Nhờ đó, ban quản lý nhà máy

có thể theo dõi tình hình sản xuất bất cứ lúc nào, thậm chí điều khiển từ xa bằng thiết bị di động. Lượng dữ liệu lớn tích lũy dần theo thời gian không chỉ phục vụ kiểm soát chất lượng mà còn giúp dự báo nhu cầu thị trường, tối ưu kế hoạch sản xuất và quản lý chuỗi cung ứng.

Thực tiễn ứng dụng tại Việt Nam

Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp lớn như GreenFeed, De Heus, CP và Cargill đã triển khai đồng bộ các giải pháp công nghệ 4.0. Một ví dụ cụ thể có thể thấy ở các nhà máy của GreenFeed và De Heus tại Việt Nam. Họ đã triển khai hệ thống phối trộn tự động tích hợp AI và IoT, kết nối trực tiếp dữ liệu phân tích nguyên liệu với phần mềm điều hành.

Khi nhận nguyên liệu ngô hoặc khô dầu đậu nành, dữ liệu dinh dưỡng được phân tích ngay bằng NIR, sau đó phần mềm tự động cập nhật vào công thức phối trộn. Hệ thống định lượng chính xác từng loại nguyên liệu theo công thức tối ưu, đưa vào máy trộn với sai số dưới 0,1%. Toàn bộ quá trình này gần như không cần can thiệp thủ công, nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt khi thị trường biến động. Theo báo cáo nội bộ (GreenFeed, 2023):

• Tỷ lệ sai lệch công thức giảm 40% so với trước đây;

• Chi phí nguyên liệu giảm trung bình 2 - 3%/năm nhờ công thức phối trộn tối ưu;

• Thời gian sản xuất giảm 20%, trong khi năng suất tăng 15%;

• Khả năng truy xuất nguồn gốc nguyên liệu và sản phẩm được cải thiện rõ rệt thông qua mã QR và blockchain.

Giải pháp thúc đẩy

Dù nhiều doanh nghiệp lớn đã ứng dụng thành công, khoảng cách với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn đáng kể. Để mở rộng, cần có sự phối hợp đồng bộ. Nhà nước nên hỗ trợ tín dụng, ưu đãi thuế và ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia về an toàn thức ăn chăn nuôi gắn với công nghệ số. Doanh nghiệp cần chủ động hợp tác với viện nghiên cứu, triển khai từng bước từ các khâu trọng điểm, đồng thời đầu tư đào tạo nguồn nhân lực am hiểu AI, IoT, tự động hóa và phân tích dữ liệu. Ngoài ra, tăng cường hợp tác quốc tế sẽ giúp ngành học hỏi kinh nghiệm, lựa chọn công nghệ phù hợp với điều kiện khí hậu và quy mô sản xuất trong nước. HOÀNG NGÂN

Ứng

dụng tự động hóa trong công đoạn

viên

Nếu như trước đây quá trình ép viên phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của công nhân và điều chỉnh thủ công, thì ngày nay nhờ ứng dụng công nghệ tự động hóa, công đoạn này đã đạt

bước tiến lớn về độ chính xác, ổn định và an toàn.

Vai trò

Trong dây chuyền sản xuất thức ăn chăn nuôi, công đoạn ép viên giữ vai trò then chốt, quyết định đến chất lượng sản phẩm cuối cùng cũng như hiệu quả dinh dưỡng khi đưa vào chăn nuôi. Ép viên là công đoạn biến hỗn hợp bột sau phối trộn thành dạng viên có kích thước, độ bền cơ học và độ ẩm phù hợp. Quá trình này không chỉ giúp tăng tính đồng nhất, giảm hao hụt mà còn cải thiện khả năng tiêu hóa, đặc biệt đối với vật nuôi thủy sản cần thức ăn nổi, chìm hoặc tan chậm theo yêu cầu. Tuy nhiên, để tạo ra sản phẩm đạt chuẩn, cần kiểm soát chặt chẽ nhiều thông số như nhiệt độ, áp suất, độ ẩm và tốc độ quay của trục ép.

Ứng dụng

Tự động hóa được triển khai chủ yếu thông qua hệ thống điều khiển lập trình PLC (Programmable Logic Controller) kết hợp với cảm biến thông minh. Các cảm biến gắn trực tiếp trên máy ép liên tục thu thập dữ liệu về nhiệt độ, áp suất và độ ẩm. Dữ liệu này được truyền về bộ điều khiển trung tâm, nơi PLC xử lý và đưa ra lệnh điều chỉnh tức thời. Ví dụ, khi nhiệt độ trong buồng ép tăng

vượt ngưỡng, hệ thống sẽ tự động điều chỉnh

tốc độ cấp nguyên liệu hoặc bổ sung hơi nước để duy trì điều kiện tối ưu. Tương tự, nếu độ

ẩm thấp hơn yêu cầu, van phun hơi nước sẽ tự động mở để bù đắp. Nhờ vậy, chất lượng viên ép được kiểm soát đồng đều, hạn chế tối đa tình trạng viên dễ vỡ, nứt hay bị biến dạng. Một trong những ưu điểm nổi bật của tự động hóa trong ép viên là khả năng tối ưu hóa năng lượng. Hệ thống điều khiển giúp duy trì máy móc hoạt động trong trạng thái cân bằng, tránh hao phí do vận hành sai chế độ. Đồng thời, dữ liệu vận hành được lưu trữ và phân tích định kỳ, từ đó doanh nghiệp có thể dự báo nhu cầu bảo trì, giảm thiểu rủi ro hỏng hóc và chi phí sửa chữa. Báo cáo từ một

số nhà máy tại Việt Nam cho thấy, ứng dụng tự động hóa đã giúp giảm 10 - 15% điện năng tiêu thụ cho công đoạn ép viên và nâng năng suất lên tới 20%.

Thức ăn chăn nuôi hiện đại đòi hỏi nhiều dạng viên khác nhau: viên nổi cho cá rô phi, viên chìm cho cá tra, viên tan chậm cho tôm… Tự động hóa cho phép điều chỉnh nhanh chóng các thông số kỹ thuật để đáp ứng những yêu cầu này. Người vận hành chỉ cần thiết lập công thức trên màn hình điều khiển, hệ thống sẽ tự động cài đặt chế độ ép tương ứng. Điều này không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn giúp doanh nghiệp đáp ứng đơn hàng đa dạng mà không phải thay đổi lớn về thiết bị. Ngoài việc điều khiển trực tiếp, hệ thống tự động hóa còn lưu trữ dữ liệu sản xuất theo lô, bao gồm toàn bộ thông số trong quá trình ép viên. Dữ liệu này tích hợp vào hệ thống quản lý chất lượng và có thể truy xuất bất cứ lúc nào. Khi thị trường yêu cầu minh bạch nguồn gốc sản phẩm, chức năng này trở thành một lợi thế quan trọng, góp phần tạo niềm tin cho người chăn nuôi cũng như đối tác quốc tế.

QUY TRÌNH SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI

Sản xuất thức ăn chăn nuôi là một quy trình quan trọng giúp tạo ra nguồn dinh dưỡng chất

lượng cao cho vật nuôi. Dưới đây là các bước chính trong quy trình sản xuất thức ăn chăn nuôi.

Xây dựng khẩu phần dinh dưỡng

Xây dựng khẩu phần dinh dưỡng đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo thức ăn đáp ứng đầy đủ nhu cầu của vật nuôi, tối ưu hóa hiệu quả sản xuất và kiểm soát chi phí nguyên liệu. Tùy theo từng giai đoạn phát triển, vật nuôi cần các khẩu phần khác nhau, bao gồm các yếu tố chính như: mức tối thiểu, mức tương đối, mức thực tế, mức đầy đủ và mức bổ sung. Trong quá trình xây dựng khẩu phần, cần thực hiện các bước sau:

• Đánh giá nhu cầu dinh dưỡng của từng loài và từng giai đoạn phát triển;

• Lựa chọn và kết hợp các nguyên liệu phù hợp;

• Tính toán chi phí và kiểm tra tính khả dụng của nguồn nguyên liệu;

• Áp dụng phương pháp tổ hợp khẩu phần sao cho đạt hiệu quả tối ưu nhất.

Tiếp nhận nguyên liệu

Thiết bị tiếp nhận được sử dụng để lưu trữ nguyên liệu thô trước khi đưa vào silo hoặc kho, bao gồm hệ thống cân, thiết bị kiểm tra, hệ thống dỡ hàng, hệ thống làm sạch, thiết bị kiểm soát bụi, băng tải tiếp nhận, thiết bị phân phối, phun sương...

Nguyên liệu sử dụng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi thường bao gồm: Ngũ cốc: Các loại hạt như lúa mì, ngô, yến mạch, lúa mạch; Phụ phẩm nông nghiệp: Các sản phẩm phụ như bã mồi, cám; Nguồn protein: Gồm đạm động vật (như sữa bột) và đạm thực vật.

Trước khi đưa vào sản xuất, nguyên liệu cần được kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo không bị hỏng, nấm mốc hoặc xuống cấp.

Thành phần đầy đủ protein, tinh bột, khoáng chất và vitamin cần thiết. Không chứa các chất độc hại như thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng hoặc chất cấm.

Lưu trữ và vận chuyển nguyên liệu

Hệ thống silo thép: Để đảm bảo sản xuất liên tục, cần phải lưu trữ một lượng lớn nguyên liệu thô như ngô, lúa mì và bột đậu nành trong quá trình chế biến thức ăn. Silo thép sử dụng cấu trúc thép mạ kẽm, có đặc điểm là đầu tư thấp, lắp đặt nhanh chóng và thuận tiện, bảo trì ít và tuổi thọ lâu dài, giúp nguyên liệu không bị hư hại.

Hệ thống vận chuyển: Nguyên liệu sẽ được di chuyển giữa các công đoạn trong nhà máy thông qua các thiết bị như băng tải ngang, băng tải Belt, thang nâng gầu, vít tải..

➢ Quy trình sản xuất thức ăn chăn nuôi cần sự kiểm soát chặt chẽ để

đảm bảo dinh dưỡng và an toàn cho vật nuôi. Việc áp dụng công nghệ

hiện đại giúp nâng cao hiệu suất sản xuất, cung cấp nguồn thức ăn chất lượng cao cho ngành chăn nuôi.

Hệ thống này giúp chuyển tải nguyên liệu thô, nguyên liệu đã nghiền và thành phẩm đến đúng vị trí, đảm bảo tốc độ sản xuất không bị gián đoạn.

Làm sạch

Nguyên liệu thô thường chưa nhiều tạp chất như rơm, đá, kim loại, giấy, xác động vật nhỏ, bột mịn... Các thiết bị như nam châm tách sắt, bộ sàng rung và máy thu bụi sẽ loại bỏ hoàn toàn tạp chất, giúp bảo vệ máy móc và đảm bảo chất lượng nguyên liệu.

Nghiền nguyên liệu

Quá trình này đóng vai trò quan trọng trong việc làm nhỏ kích thước, giúp các thành phần dễ dàng trộn lẫn và cải thiện khả năng tiêu hóa của vật nuôi. Hiện nay, các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi thường sử

Ảnh: Japfa

dụng các loại máy nghiền như máy nghiền đĩa và máy nghiền búa.

Máy nghiền đĩa: Nguyên liệu được nghiền nát thông qua sự ép giữa hai đĩa thô ráp. Một hoặc cả hai đĩa có thể quay để tạo lực ép. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là không thể nghiền nguyên liệu thành kích thước siêu nhỏ.

Máy nghiền búa: Máy sử dụng các búa, có thể chuyển động hoặc cố định, để nghiền nguyên liệu. Những nguyên liệu sau đó được sàng lọc qua lưới thép có lỗ, giúp phân loại kích cỡ theo yêu cầu. Máy nghiền búa phù hợp với các nhà máy chế biến thức ăn vừa và nhỏ.

Hệ thống cân phối định lượng

Là bước xác định tỷ lệ chính xác của từng loại nguyên liệu theo công thức đã thiết lập. Việc cân phối thường được thực hiện theo từng mẻ, đảm bảo mỗi lần phối trộn đúng tỷ lệ, duy trì chất lượng sản phẩm ổn định và tăng hiệu suất hoạt động của nhà máy.

Trộn nguyên liệu

Trộn nguyên liệu là công đoạn tạo ra hỗn hợp đồng nhất từ các thành phần đã được cân đo theo tỷ lệ phù hợp. Thông thường, nguyên liệu khô sẽ được trộn trước, sau đó là các nguyên liệu dạng ướt. Việc trộn có thể thực hiện một lần hoặc lặp lại nhiều lần tùy theo từng mẻ sản xuất.

Hỗn hợp thức ăn được trộn đều không chỉ

đảm bảo sự phân bổ đồng đều các chất dinh dưỡng mà còn làm tăng hương vị và cải thiện phản ứng hóa học hoặc sinh học trong quá trình chế biến. Trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, các thiết bị phổ biến gồm: máy trộn vít đứng, máy trộn vít nằm ngang hoặc máy trộn ngang có bộ phận khuấy dạng mái chèo hoặc ruy băng.

Ép viên

Dựa theo nhu cầu của các loại vật nuôi, máy ép viên có nhiệm vụ nén hỗn hợp thức ăn thành các viên có hình dạng và kích thước phù hợp, nhờ vào sự kết hợp của áp suất, nhiệt độ và độ ẩm. Hiện, có hai loại máy ép viên thức ăn chăn nuôi phổ biến:

Máy ép viên khuôn vòng: Dùng để sản xuất thức ăn dạng viên chìm, phù hợp cho quy mô lớn.

Máy ép kiểu đùn: Dùng sản xuất viên thức ăn dạng nổi.

Việc lựa chọn hình thức ép viên phù hợp phụ thuộc vào loại thức ăn, đối tượng vật nuôi và yêu cầu kỹ thuật của từng nhà máy sản xuất.

Hệ thống làm mát và sấy khô

Sau khi ép, viên thức ăn có nhiệt độ và độ ẩm cao nên cần làm mát ngay để đảm bảo chất lượng. Hệ thống làm mát sẽ hạ nhiệt viên xuống khoảng 3 - 5°C so với nhiệt độ phòng. Sau đó, chúng được chuyển qua máy sấy để loại bỏ độ ẩm dư thừa. Nhờ đó, viên

thức ăn trở nên cứng, không vón cục và dễ dàng đóng gói, lưu trữ và vận chuyển. Quy trình làm mát và sấy khô giúp ổn định sản phẩm, ngăn ngừa nấm mốc phát triển, đảm bảo chất lượng và kéo dài thời hạn sử dụng của thức ăn chăn nuôi.

Kiểm soát chất lượng

Trước khi thức ăn chăn nuôi được đưa ra thị trường, cần tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt để đảm bảo sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Các chỉ tiêu quan trọng bao gồm: Hàm lượng protein; Hàm lượng chất béo; Hàm lượng chất xơ; Tỷ lệ vitamin và khoáng chất. Quy trình kiểm soát chất lượng này giúp đảm bảo sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và an toàn cho vật nuôi.

Đóng gói và bảo quản

Quá trình đóng gói bắt đầu khi thức ăn hoàn thiện vào thùng cung cấp trên máy đóng gói và kết thúc khi các túi thức ăn đã được đưa vào kho lưu trữ. Quy trình này bao gồm việc cân mỗi túi thức ăn, đặt sản phẩm đã cân vào túi, đóng miệng túi, dán nhãn lên túi, mã hóa túi, xếp chồng túi lên pallet, và chuyển túi vào kho để lưu trữ. Sử dụng bao bì chống ẩm để giữ nguyên chất lượng thức ăn. Cần đảm bảo kho khô ráo, thoáng mát, sạch sẽ, có biện pháp kiểm soát độ ẩm và côn trùng.

Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm Việt Nam

Các bệnh ký sinh trùng (KST) ở gia súc và gia cầm tương đối đa dạng, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi và còn ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức của người dân nói chung và người chăn nuôi nói riêng về bệnh KST còn chưa đầy đủ. Vì vậy, để giúp thay đổi một phần nhận thức chung về bệnh KST, cuốn sách “Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm Việt Nam” đã được một nhóm tác giả là các chuyên gia thú y biên soạn. Hy vọng cuốn sách góp phần nhỏ bé vào quá trình phòng chống bệnh KST hiệu quả, giảm dần thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành! THÁI THUẬN

Cừu Beltex

Là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ Bỉ. Loài cừu đặc biệt này có vẻ ngoài rất độc đáo, chúng không giống những con cừu khác, mà có những

đặc điểm khiến nhiều người bị nhầm lẫn với loài heo hoặc chó.

Cừu Beltex có khối lượng cơ bắp lớn khác thường, cực kỳ đáng nể so với những người anh em của mình, trông khá nặng nề và nếu đang lúi húi ăn cỏ, rất nhiều người sẽ nhầm tưởng chúng là những con heo. Đặc điểm nhận dạng của loài cừu này là trán phẳng, xương mũi lồi ra, có mồm mỏng, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cả cỏ mọc thấp và bứt được những lá mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Nhiều người cũng gọi cừu Beltex là cừu lực sĩ, có thể nhận ra dễ dàng loài cừu này. THANH HIẾU

DIỆU CHÂU
SÁCH
BÁCH KHOA THƯ

NGHIÊN CỨU KHÁNG SINH NANO TRONG CHĂN NUÔI GIA CẦM

Giải pháp mới hướng tới nông nghiệp an toàn, bền vững

Trong bối cảnh ngành chăn nuôi đang đối mặt với thách thức về tình trạng lạm dụng kháng sinh và nguy cơ tồn dư trong thực phẩm, nhóm nghiên cứu do PGS.TS Hà Phương Thư (Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) chủ trì đã thực hiện đề tài khoa học

“Nghiên cứu phát triển kháng sinh nano thực vật, kháng sinh nano và đánh giá hiệu quả của chúng nhằm ứng dụng trong chăn nuôi gia cầm” (mã số 06/2020/TN).

Kháng sinh nano - Giải pháp công nghệ từ vật liệu tiên tiến

Điểm nhấn quan trọng của đề tài là sự phát triển thành công các hệ kháng sinh nano thế hệ mới, bao gồm:

• Kháng sinh nano từ thảo dược (tỏi, diệp hạ châu);

• Kháng sinh nano tổng hợp (Doxycycline, Florfenicol kết hợp nano bạc).

Các chế phẩm này có kích thước hạt siêu nhỏ (<100 nm), độ ổn định cao và khả năng giải phóng hoạt chất theo thời gian, giúp nâng cao hiệu quả kháng khuẩn. Đặc biệt, thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy sản phẩm có khả năng tiêu diệt các chủng vi khuẩn đã kháng thuốc - một vấn đề nan giải của ngành chăn nuôi hiện nay.

Ứng dụng thực tế: Hiệu quả được chứng minh tại mô hình trang trại

Mô hình thử nghiệm được triển khai tại trang trại chăn nuôi gà thịt ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Kết quả đánh giá cho thấy:

• Giảm 10 lần liều lượng kháng sinh sử dụng so với đối chứng;

• Tỷ lệ sống của đàn gà đạt 98%, cao hơn so với lô đối chứng (94%);

• Dư lượng kháng sinh trong thịt gà chỉ còn 35 µg/kg, thấp hơn nhiều so với mức 197 µg/kg ở nhóm đối chứng và đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.

Các chỉ số trên cho thấy tính an toàn, hiệu quả và khả năng áp dụng thực tiễn của sản phẩm, đồng thời góp phần giảm thiểu tồn dư kháng sinh trong thực phẩm - một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển nông nghiệp sạch.

Phát triển công nghệ và tiềm năng ứng dụng

Cùng với kết quả nghiên cứu chuyên môn, đề tài cũng đạt được những thành tựu đáng kể về mặt công nghệ và chuyển giao: • Hoàn thiện quy trình sản xuất ở quy mô pilot 100 lít/mẻ;

ra cơ hội chuyển giao công nghệ vào sản xuất thực tiễn. Đề tài là minh chứng tiêu biểu cho việc ứng dụng vật liệu nano trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần quan trọng vào việc xây dựng mô hình chăn nuôi bền vững, hạn chế sử dụng kháng sinh truyền thống và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. (Nguồn: Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia)

6 MẸO QUẢN LÝ THỨC ĂN GIA CẦM

1. Nguyên liệu

Tìm nguồn nguyên liệu thô chất lượng cao là cách để sản xuất thức ăn chăn nuôi tốt và đây là mối quan tâm hàng đầu của tất cả những người tham gia vào chuỗi cung ứng thức ăn chăn nuôi. Nhưng làm thế nào để bảo quản tốt những nguyên liệu đắt tiền này? Bảo quản thức ăn đúng cách là một yếu tố quan trọng nhưng thường bị bỏ qua trong việc duy trì chất lượng thức ăn và bảo vệ thức ăn khỏi bị hư hại do nấm mốc và các yếu tố khác, đặc biệt là trong điều kiện môi trường khắc nghiệt. Ví dụ, các nghiên cứu thực địa ở Ai Cập đã chỉ ra rằng tại hầu hết các trang trại, thức ăn được xếp chồng lên nhau dưới các mái che, nơi thường xuyên bị nấm mốc phá hủy và xâm nhập bởi các loài gặm nhấm, chim hoang dã và/hoặc côn trùng. Một xét nghiệm vi sinh vật đối với thức ăn tại một trang trại cho thấy hàm lượng nấm mốc là 22.000 CFU/g, trái ngược với mức thông thường chỉ là 5.000 CFU/g. Trong trường hợp này, hiệu quả sử dụng thức ăn kém và tốc độ tăng trưởng chậm lại đã xảy ra. Những vấn đề như vậy có thể được khắc phục nếu thức ăn được bảo quản trong các silo. Về mặt tài chính, ước tính chi phí cho một silo 20 tấn có thể được thu hồi chỉ trong 3 năm, giúp tiết kiệm tới 300 USD/năm (giá trị của thức ăn bị hư hỏng trong điều kiện bảo quản kém).

2. Loại viên thức ăn

Thức ăn viên nén thường làm tăng mật độ và lượng thức ăn tiêu thụ, đồng thời cải thiện tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn. Người ta ước tính rằng cứ mỗi 10% lượng hạt mịn trong thức ăn viên tăng lên thì tỷ lệ chuyển đổi thức ăn bị mất đi 0,01%. Mặc dù chất lượng viên thức ăn có vẻ ổn ngay sau khi rời khỏi nhà máy, nhưng chất lượng viên thức ăn tại thời điểm đàn gà ăn thức ăn trong chuồng mới là yếu tố quan trọng. Do đó, mọi nỗ lực cần tập trung vào việc cải thiện chất lượng viên thức ăn

đưa vào máng ăn cho gà thịt.

3. Thất thoát lãng phí

Có nhiều cách khiến thức ăn bị lãng phí hoặc thất thoát mà thậm chí không hề được gà hấp thụ. Ví dụ, mỏ dài giúp gà có thể chơi đùa với thức ăn, nhưng thức ăn sẽ không thể

được tiêu thụ khi rơi xuống sàn và bị trộn lẫn với vật liệu lót chuồng. Do đó, việc cắt tỉa mỏ đúng cách là rất cần thiết để giảm thiểu vấn đề này. Nên tránh cho thức ăn vào máng ăn quá đầy và nên duy trì lượng thức ăn ở một mức nhất định trong máng ăn để giảm thiểu thất thoát.

4. Sư xâm nhập của loài gặm nhấm vào các trang trại

Sự xâm nhập của loài gặm nhấm vào các trang trại gia cầm cũng là một vấn đề phổ biến gây ảnh hưởng đến việc sử dụng thức ăn. Một con chuột 250 g có thể ăn hết lượng thức ăn có thể sử dụng mỗi ngày bằng trọng lượng của nó. Một con chuột cũng có thể làm ô nhiễm lượng thức ăn gấp 10 lần lượng thức ăn mà nó ăn vào bằng phân, nước tiểu và lông của chính nó, do đó khiến thức ăn không thể sử dụng được cho gia cầm và thậm chí cho chính những con chuột. Điều này có nghĩa là khi bị loài gặm nhấm xâm nhập, một trang trại gia cầm có thể mất hàng tấn thức ăn mỗi năm với tổn thất tài chính lớn. Do đó, cần phải nỗ lực kiểm soát sự xâm nhập của loài gặm nhấm bằng mọi biện pháp có thể. Ví dụ, bẫy có thể làm giảm tới 60 - 70% quần thể loài gặm nhấm, với điều kiện là có đủ số lượng bẫy và ngăn chặn việc tiếp cận thức ăn gia cầm.

5. Hệ thống cho ăn protein phù hợp Cần cân nhắc một hệ thống cho ăn protein phù hợp, đặc biệt là với gà mái đẻ, để đạt được hiệu suất chăn nuôi mong muốn mà không tốn quá nhiều thức ăn. Cho ăn protein theo giai đoạn giảm dần là một phương pháp

hiệu quả giúp giảm chi phí thức ăn và giảm lượng nitơ bài tiết dư thừa. Sử dụng chế độ ăn protein theo giai đoạn giảm dần so với chế độ ăn protein 16,5% cố định trong 1 năm tại một trang trại có 100.000 con gà giúp giảm 7,5 tấn protein. Ngoài ra, lượng phân thải ra cũng giảm khoảng 4,5 tấn nitơ mỗi năm, điều này cũng giúp cho chế độ ăn theo giai đoạn giảm dần thân thiện với môi trường.

6. Sử dụng enzyme

Trong một nghiên cứu về tác động của việc sử dụng enzyme đến chi phí thức ăn, hỗn hợp amylase, protease và phytase đã được sử dụng trong thức ăn cho gà thịt làm từ ngô với liều lượng 1 g/kg.

Các enzyme làm giảm lượng chất dinh dưỡng cần thiết trong chế độ ăn trong khi vẫn duy trì mức tăng trọng và chuyển đổi thức ăn ở mức tương tự như những con gà được cho ăn chế độ ăn tiêu chuẩn (giảm 145 Kcal/kg ME, giảm 4% axit amin, giảm 0,10% tổng lượng phốt pho và giảm 0,12% canxi), giúp tiết kiệm chi phí thức ăn khoảng 11,00 USD/tấn.

Việc bổ sung enzyme ngoại sinh dường như cũng giúp giảm chi phí thức ăn bằng cách thay thế nguyên liệu thức ăn đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ hơn. Ví dụ, người ta thấy rằng việc bổ sung enzyme phytase vào bột hạt cải dầu - một nguồn protein giá rẻ - cũng bổ dưỡng cho gà thịt như bột đậu nành được sử dụng rộng rãi. Bột hạt cải dầu rẻ hơn khoảng 130 USD/tấn so với đậu nành.

TĂNG SANG

(Theo All About Feed)

PHÒNG

TRỊ BỆNH LIÊN CẦU KHUẨN TRÊN HEO

Bệnh liên cầu khuẩn trên heo là một căn bệnh nguy hiểm, không chỉ ảnh hưởng đến đàn heo mà còn có nguy cơ lây nhiễm sang con người. Vì vậy người chăn nuôi cần thường xuyên theo dõi sức khỏe heo và điều trị kịp thời ngay khi phát hiện bệnh.

Nguyên nhân

Bệnh do vi khuẩn Streptococcus suis gây ra. Đây là vi khuẩn Gram dương, hình tròn, vi khuẩn tiết ra độc tố làm tan vỡ hồng cầu. Trong điều kiện rất lạnh hoặc điều kiện đông, ở môi trường bên ngoài vi khuẩn có thể sống đến 15 tuần, nhiệt độ thường sống từ 1 - 2 tuần, trong xác động vật vi khuẩn tồn tại rất lâu. Thuốc sát trùng và các chất tẩy rửa có thể tiêu diệt vi khuẩn trong vòng 1 phút.

Đặc điểm dịch tễ

Đối tượng nhiễm bệnh: Các loài vật nuôi như: heo, trâu, bò, dê, chó,… và các loài thú hoang đều bị nhiễm vi khuẩn liên cầu và phát sinh bệnh. Bệnh xảy ra chủ yếu ở heo con theo mẹ và heo sau cai sữa, mỗi lứa tuổi heo mắc bệnh ở các mức độ khác nhau. Bệnh thường xảy ra vào mùa Đông và đầu mùa Xuân.

Đường lây truyền: Bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa, đường hô hấp hoặc lây qua các vết thương ngoài da (cắt răng, cắt rốn, cắt đuôi, thiến, xây xát do cắn nhau, trầy xước,…), lây gián tiếp qua các côn trùng như ruồi.

Điều kiện phát sinh dịch bệnh: Các cơ sở chăn nuôi mà chuồng trại và môi trường bị ô nhiễm thường phát sinh ổ dịch mang tính địa phương; Trong điều kiện nuôi dưỡng kém, heo giảm sức đề kháng và dễ bị mắc các bệnh

truyền nhiễm như: bệnh tụ huyết trùng, bệnh suyễn,… bệnh liên cầu khuẩn thường kế phát khi heo bị các bệnh trên, làm bệnh trở nên trầm trọng và gây chết với tỷ lệ cao. Vi khuẩn tồn tại tự nhiên trong đường hô hấp trên của heo (nhất là trong hạch và xoang mũi), trong đường sinh dục và kể cả đường tiêu hóa của heo. Vi khuẩn hiện diện thường xuyên trong chuồng, trong xoang miệng heo nái, lây nhiễm vào heo con theo mẹ qua tiếp xúc trực tiếp mũi - miệng từ giai đoạn rất sớm. Vi khuẩn xâm nhập vào trong cơ thể heo con do cắt răng, cắt rốn, cắt đuôi, thiến, qua những tổn thương trên da do trầy xước, cắn lẫn nhau,… Sau đó, vi khuẩn vào trong máu gây nhiễm trùng máu, xâm nhập vào khớp gây viêm khớp, vào não gây viêm màng não.

Tỷ lệ bệnh thông thường vào khoảng 5%, nhưng tỷ lệ tử vong có thể lên đến 20%. Bệnh xảy ra chủ yếu trên heo khoảng 5 - 10 tuần tuổi.

Triệu chứng

Heo bệnh sốt cao khoảng 40 - 410C, thường gặp các dạng sau:

- Thể viêm khớp: Chủ yếu trên heo theo mẹ. Heo bệnh ốm yếu, lông khô, không sáng bóng kèm theo sốt. Khớp chân bị sưng, nóng và đau, heo đứng không vững, đi lại khó

khăn, giai đoạn cuối của bệnh heo không thể đứng dậy, nằm nghiêng bên sườn và chết. - Thể viêm não: Phổ biến trên heo sau cai sữa. Heo bệnh sốt, có triệu chứng thần kinh, đi đứng không vững, khớp không sưng, thở khó, mắt và trán sưng như bị phù, mắt có ghèn nhưng không bị viêm kết mạc, vào giai đoạn cuối heo thở thể bụng, co giật, đạp kiểu bơi chèo. Nhiều trường hợp, heo sau co giật trở lại bình thường và lặp lại triệu chứng thần kinh sau đó. Triệu chứng có thể kéo dài vài ngày, nếu không điều trị đúng heo sẽ chết. - Thể viêm đường tiết niệu: Thường xảy ra trên nái. Heo bệnh sốt và có thể bị chảy dịch nhờn đục ở âm hộ, đôi khi có thể dẫn đến xảy thai.

Bệnh tích

Heo bị bệnh ở thể nào thì bệnh tích thể hiện ở đó. Bệnh tích thường thấy là bề mặt da đỏ, các hạch lâm ba sưng. Với thể viêm não: viêm màng não có mủ và sợi fibrin; Nhiễm trùng huyết: lách sưng, xuất huyết điểm ở thận và một số cơ quan khác; Viêm khớp: khớp sưng, dịch khớp đục; Viêm phổi: phổi sưng, tụ huyết và xuất huyết.

Chuẩn đoán

Dựa trên tiền sử bệnh của trại và các triệu chứng lâm sàng. Lấy mẫu phổi, lách, tim, gan,

não, dịch khớp phát hiện bệnh bằng phương pháp PCR hoặc nuôi cấy phân lập vi khuẩn.

Điều trị

Khi phát hiện heo bệnh, tiến hành cách ly riêng heo bệnh với heo khỏe. Đảm bảo an toàn sinh học, cung cấp thức ăn, nước uống đầy đủ. Giữ ấm heo và giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, khô ráo. Chăm sóc theo dõi hằng ngày tình hình của heo bị bệnh.

Hiệu quả điều trị chỉ cao trong trường hợp phát hiện bệnh sớm, khi heo mới bị viêm khớp (có dấu hiệu đi lại khó khăn) hoặc triệu chứng thần kinh nhẹ. Tùy tình hình của trại mà sử dụng loại kháng sinh phù hợp, có thể điều trị bằng cách tiêm một trong các loại kháng sinh sau: Penicillin, Penicillin kết hợp Streptomycin, Amoxicillin, Ampicillin, Ceftiofur, Gentamycin,…

Đồng thời, kết hợp thêm các thuốc trợ lực: Vitamin B1, Vitamin C, dung dịch điện giải theo hướng dẫn. Việc điều trị nên được thực hiện trong 5 ngày.

Đối với những con bệnh nặng đã có triệu chứng thần kinh thì không nên điều trị vì không hiệu quả phải tiến hành tiêu hủy theo quy định thú y.

Phòng bệnh

- Mua heo giống rõ nguồn gốc xuất xứ.

- Thực hiện vệ sinh thú y đúng lịch. Vệ sinh và phun xịt sát trùng chuồng trại thường xuyên định kỳ 1 - 2 lần/ tuần bằng dung dịch sát trùng.

- Chăn nuôi theo hình thức “cùng vào cùng ra”, nuôi heo theo từng lứa tuổi riêng biệt.

- Kết cấu chuồng nái đẻ thích hợp, không gây tổn thương heo con theo mẹ, tránh hiện tượng cắn nhau của heo con.

- Vệ sinh tiêu độc chuồng trại, nhất là chuồng nái đẻ và sau cai sữa.

- Hạn chế các tác nhân gây stress: nuôi mật độ quá đông, không thông thoáng, gió lùa nhiều, hay xáo trộn và di chuyển đàn heo.

- Thực hiện tiêm phòng vaccine đầy đủ để phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm xảy ra, phòng ngừa bệnh liên cầu khuẩn kế phát gây ra thiệt hại lớn.

- Thường xuyên kiểm tra tình trạng sức khỏe của heo con để phát hiện dấu hiệu bệnh sớm, can thiệp kịp thời.

- Có thể sử dụng kháng sinh cho heo vào những thời điểm nguy cơ như cắt răng, cắt rốn, cai sữa.

NGUYỄN HẰNG

Kiểm soát M.M.A ở heo nái sau sinh

Hội chứng viêm vú - viêm tử cung - mất sữa (M.M.A) là một trong những vấn đề phổ biến và gây thiệt hại lớn nhất trong chăn nuôi heo sinh sản. Bệnh thường xuất hiện trong vài ngày đầu sau khi heo nái sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiết sữa, làm giảm sức đề kháng và tỷ lệ sống của heo con.

Đặc điểm và nguyên nhân gây bệnh

M.M.A thường xuất hiện từ 24 - 48 giờ sau khi heo nái sinh. Bệnh đặc trưng bởi ba biểu hiện chính: viêm vú, viêm tử cung và mất sữa.

Viêm vú: Tuyến vú sưng, nóng, đỏ, đau. Heo nái phản ứng khi heo con bú, thậm chí bỏ cho bú.

Viêm tử cung: Dịch tiết âm hộ bất thường (trắng đục, vàng hoặc có mủ), kèm theo mùi hôi. Heo nái có thể sốt, bỏ ăn.

Mất sữa: Lượng sữa giảm hoặc ngừng tiết sữa, khiến heo con còi cọc, dễ chết vì thiếu dinh dưỡng.

Nguyên nhân chính gây bệnh thường do: Nhiễm khuẩn (chủ yếu là E. coli, Klebsiella, Streptococcus và Staphylococcus). Điều kiện vệ sinh kém trong quá trình đỡ đẻ, dụng cụ, chuồng trại không sạch. Chế độ dinh dưỡng không hợp lý trong giai đoạn mang thai và sau sinh, đặc biệt thiếu xơ hoặc cho ăn quá nhiều năng lượng dẫn đến táo bón, làm tăng nguy cơ viêm tử cung. Yếu tố quản lý như stress, môi trường nóng ẩm, mật độ nuôi cao.

Giải pháp xử lý

Việc xử lý cần tiến hành sớm và đồng bộ để vừa cứu heo nái, vừa bảo vệ đàn heo con.

Điều trị bằng thuốc

• Kháng sinh phổ rộng: Sử dụng tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch để kiểm soát vi khuẩn gây viêm. Các nhóm thường dùng gồm amoxicillin, ceftiofur, gentamycin hoặc combination theo chỉ định thú y.

• Thuốc kháng viêm, hạ sốt: Giúp giảm đau, hạ nhiệt, cải thiện tình trạng viêm tuyến vú và tử cung.

• Oxytocin: Tiêm để kích thích co bóp tử cung, tống sản dịch và kích thích tiết sữa.

• Truyền dịch và bổ sung điện giải: Hỗ trợ chống mất nước, cải thiện tuần hoàn và đào

thải độc tố.

Chăm sóc hỗ trợ: Vắt bỏ sữa viêm ở các vú sưng để giảm áp lực và ngăn lan truyền vi khuẩn sang heo con; Đảm bảo heo con được bú đủ sữa non, nếu nái mất sữa cần hỗ trợ bằng cách ghép bầy hoặc sử dụng sữa thay thế.

Cải thiện dinh dưỡng: Cho nái ăn khẩu phần cân đối, bổ sung vitamin (A, D, E) và khoáng vi lượng để tăng sức đề kháng.

Môi trường chuồng trại: Giữ chuồng khô sạch, thông thoáng, giảm stress nhiệt và mật độ nuôi hợp lý.

Biện pháp phòng ngừa

Phòng bệnh luôn hiệu quả và ít tốn kém hơn so với điều trị. Người chăn nuôi cần:

• Quản lý dinh dưỡng trước và sau sinh: Bổ sung chất xơ, hạn chế thức ăn quá nhiều năng lượng ở giai đoạn cuối thai kỳ, đồng thời tăng cường nước sạch.

• Vệ sinh chuồng trại và dụng cụ đỡ đẻ: Khử trùng định kỳ, giữ khô ráo, tránh ẩm thấp.

• Theo dõi sát heo nái sau sinh: Phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường để can thiệp kịp thời.

• Chăm sóc tốt heo con: Đảm bảo heo con được bú sữa đầu càng sớm càng tốt để tăng cường miễn dịch tự nhiên. PHƯƠNG

VITAMIN VÀ KHOÁNG CHẤT

Chìa khóa nâng cao

hiệu suất heo nái giống

Một chế độ dinh dưỡng tối ưu từ vitamin và

khoáng chất không chỉ duy trì sức khỏe, mà

còn cải thiện năng suất sinh sản và khả năng

sống của đàn con, giúp heo nái phát huy tối

đa tiềm năng di truyền.

Nhu cầu vitamin tăng cao

Với các dòng gen hiện đại, năng suất sinh

sản, trọng lượng cơ thể và hiệu quả sử dụng

thức ăn đã được cải thiện đáng kể. Điều này

đồng nghĩa với việc nhu cầu về vitamin cũng tăng cao. Hầu hết vitamin không thể tự tổng hợp trong cơ thể heo, nên bắt buộc phải bổ sung qua khẩu phần ăn dạng premix. Việc thiếu hụt vitamin có thể dẫn đến giảm năng suất, suy giảm khả năng sinh sản và xuất hiện các triệu chứng lâm sàng như giảm sức đề kháng, rối loạn chuyển hóa hoặc các bệnh về xương khớp.

Nhiều công ty giống heo đã nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị riêng về

vitamin để đáp ứng tiềm năng gen ngày càng cao. Các khuyến nghị này vượt mức tối thiểu mà NRC từng thiết lập, vốn đã trở nên lỗi thời trước tốc độ cải thiện nhanh chóng của các dòng gen năng suất cao.

Tuy nhiên, việc bổ sung vitamin cũng cần tuân thủ giới hạn pháp lý hiện hành, như Vitamin A 12.000 IU và Vitamin D 2.000 IU tại Liên minh châu Âu.

Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng heo nái hiện đại ít dự trữ mỡ cơ thể hơn so với các giống truyền thống. Điều này đồng nghĩa với khả năng chống chịu các stress môi trường, miễn dịch và dinh dưỡng kém hơn, khiến việc bổ sung vitamin chính xác từ giai đoạn nuôi heo con đến khi heo nái trưởng thành trở nên quan trọng hơn (Silva et al., 2009 & 2013).

Nền tảng sức khỏe xương và sinh sản

Khoáng chất là yếu tố không thể thiếu trong dinh dưỡng heo nái. Canxi, photpho, kẽm, đồng và selenium đều tham gia vào các chức năng sinh lý thiết yếu, từ tăng trưởng, duy trì cơ thể, cho đến sinh sản và miễn dịch. Thiếu hụt khoáng chất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe heo nái mà còn ảnh hưởng đến đàn con, gây giảm tỷ lệ sống, tăng heo con chết khi sinh và giảm năng suất sữa. Vitamin D đóng vai trò then chốt trong chuyển hóa canxi và photpho, giúp cải thiện khả năng hấp thu và tiêu hóa. Với heo nuôi trong nhà, nguồn tổng hợp Vitamin D từ ánh sáng mặt trời không có, nên việc bổ sung qua premix là cần thiết. Dạng phổ biến là Vitamin D3, sau khi hấp thu được thủy phân tại gan và chuyển hóa thành 25(OH)D3 tuần hoàn, tham gia trực tiếp vào quá trình khoáng hóa xương và duy trì nồng độ canxi huyết tối ưu. Khi chức năng gan không đạt mức tối ưu, quá trình tổng hợp 25(OH)D3 bị hạn chế, làm giảm nồng độ canxi huyết và ảnh hưởng đến sinh sản. Cung cấp trực tiếp 25(OH)D3 qua premix giúp vượt qua “nút thắt” này, đảm bảo nồng độ huyết tương đạt mức tối ưu. Để duy trì sức khỏe xương, tỷ lệ canxi/ phospho trong khẩu phần cần được kiểm soát chặt chẽ. Canxi không đủ có thể gây hypocalcemia, ảnh hưởng đến quá trình co cơ, sản xuất sữa và sinh nở, làm tăng nguy cơ sinh khó và tỷ lệ heo con chết khi sinh. Nồng độ 25(OH)D3 trong máu cao giúp cải thiện

khoáng hóa xương, tăng sức mạnh xương và hỗ trợ các quá trình sinh sản liên quan đến canxi, bao gồm co cơ tử cung và khởi đầu sản xuất sữa. Bên cạnh đó, việc sử dụng khoáng hữu cơ (OM) thay cho khoáng vô cơ (IM) trong khẩu phần đã được chứng minh cải thiện khả năng hấp thu, giúp giảm thiểu các vấn đề vận động và sinh sản. Nghiên cứu cho thấy, heo nái sử dụng khoáng hữu cơ ít gặp các vấn đề về khớp, xương và sinh sản, từ đó giảm tỷ lệ loại thải và nâng cao hiệu quả đàn con.

Giải pháp dinh dưỡng tối

ưu

Nguyên nhân chính khiến heo nái bị loại thải hoặc giết mổ hiện nay là các vấn đề sinh sản và vận động. Việc cải thiện dinh dưỡng vitamin và khoáng chất đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu những vấn đề này. Một chế độ dinh dưỡng cân đối không chỉ cung cấp đủ lượng vitamin và khoáng chất cần thiết mà còn đảm bảo khả năng hấp thu tối ưu thông qua công nghệ premix và khoáng hữu cơ. Sự kết hợp giữa nồng độ Vitamin D tối ưu, tỷ lệ canxi/phospho hợp lý và bổ sung khoáng hữu cơ giúp cải thiện quá trình sinh nở, rút ngắn thời gian giữa các heo con, tăng tốc độ sản xuất sữa và nâng cao hiệu quả đàn con. Đồng thời, những cải tiến này cũng giúp heo nái giảm rối loạn vận động, tăng sức bền xương và khớp, giảm tỷ lệ loại thải do các vấn đề về vận động và sinh sản. VŨ ĐỨC (Theo Pig333)

chiến lược cắt giảm chi phí trong công thức thức ăn cho heo

Chi phí thức ăn chiếm tới 70 - 75% tổng chi phí chăn nuôi heo, vì vậy tối ưu hóa công thức thức ăn không chỉ giúp giảm chi phí mà còn duy trì hiệu suất và tăng trưởng tối ưu.

1. Đảm bảo độ chính xác của các thông số nguyên liệu

Chuyên gia dinh dưỡng sử dụng phần mềm lập công thức để tối ưu khẩu phần, nhưng hiệu quả phụ thuộc vào độ chính xác của dữ liệu nguyên liệu. Sai số giữa thành phần thực tế và dữ liệu trong phần mềm có thể làm tăng chi phí hoặc giảm hiệu suất. Ví dụ, hàm lượng lysine trong ngô hoặc khô đậu nành cùng nguồn có thể dao động đáng kể. Các công cụ phân tích hiện đại như phân tích hóa học ướt, phổ cận hồng ngoại (NIRS) và sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) giúp đo lường nguyên liệu chính xác. Đầu tư cho phân tích nguyên liệu thường đem lại lợi ích vượt trội nhờ giảm chi phí thức ăn và tối ưu hóa hiệu suất tăng trưởng.

2. Lập công thức dựa trên mô hình năng

lượng ròng (NE)

Mô hình năng lượng ròng cho phép xác

định chính xác nhu cầu năng lượng thực của heo, tính đến lượng nhiệt thất thoát trong tiêu hóa và trao đổi chất. Nguyên liệu giàu protein hoặc chất xơ tạo ra nhiệt cao, do đó sử dụng NE giúp cải thiện độ chính xác của khẩu phần và giảm chi phí.

Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn tăng trưởng và hoàn thiện, khi chi phí

thức ăn chiếm phần lớn tổng chi phí sản xuất. Xác định đúng nồng độ năng lượng, axit amin và photpho theo mục tiêu hiệu suất như hệ số chuyển hóa thức ăn, tăng trọng hay biên lợi nhuận sẽ giúp tối ưu hóa giá trị tăng trọng hàng ngày và lợi nhuận trên chi phí thức ăn.

3. Quản lý mô hình dinh dưỡng hiệu quả

Các trang trại có thể áp dụng hai mô hình dinh dưỡng: mở và đóng.

• Mô hình đóng: Trang trại mua premix hoặc basemix bao gồm các nguyên liệu ít sử dụng (vitamin, khoáng, enzyme, chất bổ sung, thuốc, axit amin…). Ưu điểm là tiện lợi, an toàn nhưng chi phí cao hơn.

• Mô hình mở: Trang trại mua premix vitamin-khoáng và quản lý riêng các nguyên liệu ít sử dụng. Mặc dù, đòi hỏi năng lực vận hành cao hơn, mô hình này cho phép kiểm soát tốt hơn và tiết kiệm chi phí.

Ngoài ra, việc lựa chọn mô hình mua thức ăn tự sản xuất hay gia công cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí. Những trang trại có khả năng tiếp cận nguyên liệu giá cạnh tranh và tư vấn dinh dưỡng phù hợp thường tiết kiệm đáng kể khi tự sản xuất.

4. Tận dụng nguyên liệu thay thế

hoạt các nguyên liệu thay thế theo mùa và giá

thị trường giúp giảm chi phí mà không ảnh hưởng hiệu suất.

5. Sử dụng enzyme ngoại sinh

Nhiều nguyên liệu chứa phần không tiêu hóa được, nhưng bổ sung enzyme ngoại sinh như phytase, carbohydrase hay protease giúp giải phóng năng lượng, photpho và axit amin. Khi lập công thức dựa trên ma trận dinh dưỡng, enzyme ngoại sinh cho phép giảm chi phí mà vẫn duy trì hiệu suất.

Chiến lược này đặc biệt hiệu quả khi kết hợp với nguyên liệu thay thế giàu chất xơ hoặc protein, vốn sinh nhiệt cao và khó tiêu hóa.

6. Quản lý việc mua sắm nguyên liệu

Chiến lược cung ứng là yếu tố then chốt để kiểm soát chi phí thức ăn. Một số giải pháp thực tế bao gồm:

• Mua nguyên liệu theo kế hoạch, tận dụng giá thấp;

• Lưu trữ các nguyên liệu có thời gian sử dụng dài;

• Tổ chức đấu thầu cạnh tranh và đa dạng hóa nhà cung cấp;

Ngô và đậu nành là nguyên liệu chính nhưng phụ thuộc quá mức vào chúng là rủi ro về giá và nguồn cung. Các nguyên liệu thay thế như lúa miến, sắn, DDGS, phụ phẩm từ lúa mì, bột gạo, bột bánh, snack hết hạn, pasta hay phụ phẩm từ bơ có thể giúp tiết kiệm đáng kể.

Tuy nhiên, khi đưa vào khẩu phần cần lưu ý tính ổn định dinh dưỡng, mùa vụ, hàm lượng năng lượng và axit amin. Sử dụng linh

• Hình thành hợp tác xã hoặc nhóm mua để hợp nhất khối lượng, đàm phán giá tốt hơn.

Quản lý mua sắm hiệu quả giúp giảm rủi ro biến động giá nguyên liệu và tối ưu hóa chi phí trên mỗi kg thức ăn sản xuất ra.

Giảm chi phí trong công thức thức ăn cho heo không thể dựa vào một biện pháp đơn lẻ, mà là sự kết hợp chiến lược của sáu yếu tố chính: độ chính xác nguyên liệu, mô hình năng lượng ròng, quản lý dinh dưỡng, tận dụng nguyên liệu thay thế, ứng dụng enzyme ngoại sinh và quản lý mua sắm hiệu quả. Khi áp dụng linh hoạt theo điều kiện sản xuất và thị trường, các chiến lược này không chỉ cắt giảm chi phí thức ăn mà còn tối ưu hóa lợi nhuận hệ thống, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi bền vững.

MI LAN (Theo Allaboutfeed)

Nông dân Tuyên Quang thu lãi tiền tỷ nhờ

nuôi heo đen, gà mía

Từ một nông dân quanh năm gắn bó với đồng ruộng, ông Phạm Hồng Giang (thôn Thái Hà, xã Ngọc Đường, TP Tuyên Quang) đã vươn lên trở

thành điển hình làm giàu, nhờ mô hình nuôi heo đen và gà mía thả vườn, mang lại doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm.

Từ nông dân nghèo đến tỷ phú chăn nuôi

Ông Giang sinh ra trong một gia đình thuần nông, cuộc sống vất vả, quanh năm lo cơm áo gạo tiền. Trước kia, thu nhập chủ yếu dựa vào mấy sào ruộng và đàn gia cầm nuôi nhỏ lẻ. “Có thời điểm, tôi từng nghĩ giấc mơ sống đủ đầy chỉ là điều xa vời,” ông nhớ lại.

Thế nhưng, với lợi thế đất đai bằng phẳng, nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào từ ngô, sắn, rau rừng, ông Giang nhận thấy chăn nuôi có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Năm 2023, ông quyết định vay 100 triệu đồng từ Ngân hàng Agribank để xây dựng chuồng trại kiên cố và mua giống heo đen, gà mía về nuôi thử nghiệm.

Những ngày đầu không ít khó khăn: vốn liếng hạn hẹp, kinh nghiệm gần như chưa có, nguy cơ dịch bệnh rình rập. Nhưng thay vì nản chí, ông Giang vừa làm vừa học hỏi, tìm tòi kiến thức qua sách báo, internet và từ các cán bộ thú y, nông dân giàu kinh nghiệm.

Để phát triển chăn nuôi bền vững, ông

Giang chú trọng nhất là phòng bệnh. Trang trại của ông luôn được vệ sinh sạch sẽ, rắc vôi bột và phun khử trùng định kỳ. Đàn heo, gà đều được tiêm phòng vaccine đúng lịch. “Nghe thì đơn giản, nhưng đó là chìa khóa để vật nuôi khỏe mạnh, hạn chế rủi ro,” ông Quang chia sẻ. Ngoài ra, ông tận dụng tối đa nguồn thức ăn địa phương như bột ngô, sắn, cây chuối, rau rừng. Nhờ đó, vừa tiết kiệm chi phí, vừa giúp thịt heo, thịt gà giữ được hương vị đặc trưng, được thị trường ưa chuộng.

Hiện tại, mỗi lứa ông Giang nuôi hơn 100 con heo thịt và 10 con heo nái. Trung bình mỗi năm, ông xuất bán khoảng 12 tấn thịt heo, với giá gần 70.000 đồng/kg, mang về trên 800 triệu đồng. Đồng thời, chuồng trại còn là địa chỉ cung cấp giống heo đen uy tín cho nhiều hộ dân trong vùng.

Song song với đó, đàn gà mía thả vườn của ông thường xuyên duy trì trên 1.000 con. Sau khoảng 5 tháng, gà đạt trọng lượng từ 2

Ảnh: Đức Anh/Mùa Xuân

kg/con trở lên, được thương lái thu mua với giá 110.000 đồng/kg. Mỗi lứa, ông xuất bán trên 2 tấn gà thương phẩm, thu thêm hơn 200 triệu đồng. Tính chung, mô hình chăn nuôi heo đen và gà mía mang lại doanh thu hơn một tỷ đồng mỗi năm cho gia đình ông.

Tấm gương trong phong trào giảm nghèo

Thành công nhưng ông Giang không giữ bí quyết cho riêng mình. Ông thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn cách phòng bệnh, phối trộn thức ăn với bà con lối xóm. Nhiều hộ trong xã nhờ đó đã mạnh dạn đầu tư nuôi theo, hình thành vùng chăn nuôi tập trung, nâng cao thu nhập.

Ông Nguyễn Mạnh Thắng, Chủ tịch UBND xã Ngọc Đường, nhận xét: “Mô hình của ông Giang vừa hiệu quả vừa đảm bảo an

toàn, tuân thủ quy định về chuồng trại, dịch bệnh. Ông là điển hình của lớp nông dân mới - dám vay vốn, áp dụng kỹ thuật, liên kết thị trường, góp phần xây dựng nông thôn mới”. Không chỉ làm giàu cho gia đình, ông Giang còn trở thành “đầu tàu kinh tế” ở địa phương, khích lệ nhiều thanh niên quay về với nông nghiệp. Ông khẳng định: “Nếu biết chọn hướng đi, nông thôn hoàn toàn có thể là nơi khởi nghiệp, làm giàu bền vững.” Nhờ mô hình này, xã Ngọc Đường vốn khó khăn nay đang khoác lên mình diện mạo mới, tràn đầy sức sống. Từ một nông dân chân lấm tay bùn, ông Giang được bình chọn là “Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2025”, trở thành minh chứng cho sự đổi thay mạnh mẽ của người nông dân thời kỳ hội nhập. MINH KHUÊ

Mô hình chống dịch PRRS và bài học thực tiễn

Dịch PRRS (Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản) bùng phát giữa năm 2023 đã khiến một trang trại 3.300 heo nái ở Aragon (Tây Ban Nha) thiệt hại nặng. Hơn một năm chống chọi, trang trại chưa lấy lại phong độ nhưng đã tích lũy nhiều bài học quản lý quý giá.

Thiệt hại nặng

Trước khi dịch xảy ra, trang trại này duy trì trạng thái “dương tính ổn định” với

PRRS, vẫn tồn tại virus nhưng sản xuất được heo con âm tính. Dù áp dụng mức an toàn sinh học cao, vị trí nằm giữa khu vực chăn nuôi heo dày đặc khiến nguy cơ lây nhiễm luôn thường trực. Đầu năm 2023, nhiều trại trong vùng nhiễm chủng Rosalia - biến thể PRRS độc lực mạnh. Các biện pháp kiểm soát khách ra vào, xe vận chuyển, thức ăn và xử lý chất thải được siết chặt, nhưng đến tháng 6/2023, đàn heo nái bắt đầu bỏ ăn, xuất hiện triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm xác nhận Rosalia đã xâm nhập.

Trong hai tháng đầu, dịch gây hậu quả nặng nề: hơn 600 ca sảy thai, trên 150 nái chết, heo con chết gần như toàn bộ, nhiều tuần không có đàn đủ điều kiện xuất bán. Sản lượng giảm mạnh kéo theo thu nhập sụt giảm, hệ thống xử lý xác bị quá tải, nhân viên chịu áp lực tinh thần lớn và chủ trại phải vay vốn để duy trì hoạt động.

Tái thiết cấu trúc sản xuất

Sự sụp đổ của chu kỳ đẻ theo tuần khiến hoạt động sản xuất mất ổn định nghiêm trọng. Để khôi phục, trang trại nâng mục tiêu phối giống từ 180 lên 190 nái/tuần, đồng thời loại bỏ những nái già yếu, sảy thai nhiều lần hoặc có thể trạng kém. Các nái còn lại sau sảy thai được điều trị bằng thuốc hỗ trợ tử cung và kháng sinh để hạn chế viêm, trong khi những con sốt, bỏ ăn được chăm sóc bằng thuốc hạ sốt, kháng viêm.

Đàn nái sảy thai được phân loại theo giai đoạn thai kỳ. Với nhóm sảy thai sớm (dưới 40 ngày), nái được phối lại ngay khi động dục trở lại. Nhóm sảy thai giữa kỳ (40 - 70 ngày) được nuôi riêng, tăng khẩu phần để hồi phục thể trạng và được hỗ trợ bằng hormone Altrenogest nếu cần. Những nái sảy thai muộn (trên 70 ngày) được giữ nguyên lứa, chờ tới chuồng đẻ và dùng hormone khi thích hợp. Việc phân loại này giúp tái đồng bộ đàn, dần khôi phục lại cấu trúc lứa đẻ, dù năng suất vẫn thấp hơn trước dịch.

Thách thức từ đàn hậu bị Ổn định sau PRRS phụ thuộc nhiều vào chiến lược quản lý hậu bị. Về lý thuyết, biện pháp hiệu quả nhất là ngừng nhập hậu bị trong tám tháng để cắt đứt chu kỳ lây nhiễm. Tuy nhiên, với tỷ lệ loại thải gần 48%/năm, nếu ngừng nhập, số lượng nái sẽ giảm từ 3.300 xuống chỉ còn khoảng 2.244 con, gây thiệt hại kinh tế lớn.

Do đó, trang trại vẫn duy trì nhập hậu bị nhưng áp dụng cách quản lý khác. Hậu bị PRRS âm tính được cách ly riêng, sau đó chủ động cho tiếp xúc với virus để đồng bộ miễn dịch. Quá trình này được kiểm soát bằng xét nghiệm định kỳ nhằm theo dõi mức độ nhiễm và thải virus. Trang trại cũng thử nghiệm phối giống hậu bị tại khu cách ly bên ngoài để đưa vào đàn khi đã phối, nhưng phương án này thất bại, khiến virus tái lưu hành đầu năm 2024. Hơn một năm sau dịch, đến tháng 2/2025, trang trại vẫn chưa khôi phục được sản lượng

trước đây. Heo con dương tính PRRS vẫn xuất hiện định kỳ, các ca sẩy thai và rối loạn sinh sản tiếp tục xảy ra, cho thấy việc ổn định cả đàn heo trong khu vực có mật độ chăn nuôi cao là vô cùng khó khăn. Ứng phó linh hoạt

Từ thực tế này có thể thấy, ngay cả những trang trại có mức an toàn sinh học nghiêm ngặt cũng khó chống chọi khi đối mặt với chủng PRRS độc lực cao trong khu vực mật độ nuôi dày đặc. Quản lý hậu bị, tái đồng bộ đàn và duy trì cấu trúc lứa đẻ đóng vai trò then chốt trong việc hạn chế thiệt hại. Không thể đạt ổn định tuyệt đối, trang trại đã chọn giải pháp kéo dài thời gian cách ly nội bộ, giảm số lần nhập hậu bị mới và rà soát, bổ sung các biện pháp an toàn sinh học. Giải pháp lọc khí bị loại bỏ vì điều kiện thực tế không cho phép, thay vào đó, mô hình đẻ theo chu kỳ 5 tuần được áp dụng thay cho 1 tuần nhằm tăng cơ hội kiểm soát dịch. Trường hợp tại Aragon là minh chứng rõ ràng cho mức độ tàn khốc của PRRS khi bùng phát, đặc biệt với biến chủng như Rosalia. Kinh nghiệm ứng phó của trang trại không chỉ mang giá trị tham khảo cho các cơ sở trong vùng dịch tễ cao, mà còn là lời nhắc nhở toàn ngành chăn nuôi heo về tầm quan trọng của chiến lược tái đàn, an toàn sinh học và khả năng thích ứng linh hoạt trước những dịch bệnh nguy hiểm.

ĐAN LINH (Theo Pigprogress)

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.
NCN 107 final by Thủy sản Việt Nam Website - Issuu