CON TOM 168 (1)

Page 1


san CON TÔM

Hội Thủy sản Việt Nam

CHỦ NHIỆM

TS Nguyễn Việt Thắng

PHỤ TRÁCH

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi

BAN BIÊN TẬP

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo Phạm Thu Hồng, Nhà báo Dương Nam Anh, Nhà báo

THƯ KÝ TÒA SOẠN Kim Tiến

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Minh Thanh, Hải Đăng, Vũ Mưa, Anh Thư, Lê Cung, Phạm Duy Tương, Phan Thanh Cường, Nguyễn Anh, Lê Hoàng Vũ, Mai Xuân Trường

KỸ THUẬT VI TÍNH

Phạm Dương

TÒA SOẠN

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com

Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 1, nhà A8, số 10 Nguyễn Công Hoan, P. Giảng Võ, Hà Nội Điện thoại: 0243.7713699

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO

VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd.

Điện thoại: (028) 62.777.616

DĐ: 0944.663.828

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

ĐẶT MUA TẠP CHÍ

Điện thoại: (024) 3.771.1756

Email: vuna@thuysanvietnam.com.vn

TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG

Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG

VIETNAMMEDIA

Số 8614227979

Ngân hàng Đầu tư & Phát triển

Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu

Ấn phẩm LHNB

Thưa Quý vị bạn đọc!

Nuôi tôm đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào xuất khẩu và nâng cao đời sống người dân ven biển. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng này cũng đặt ra nhiều thách thức, trong đó chất lượng tôm giống và dịch bệnh là hai vấn đề then chốt ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, hiện cả nước có 1.577 cơ sở sản xuất và ương dưỡng tôm giống. Trong 5 năm qua, sản lượng giống tôm nước lợ hàng năm đạt từ 152 - 160 tỷ con, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và một phần phục vụ xuất khẩu. Cùng với đó, công tác quản lý chất lượng giống ngày càng được chú trọng Tuy nhiên, sản xuất tôm giống vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Nguồn tôm bố mẹ trong nước chưa đáp ứng nhu cầu, hiện 87% TTCT bố mẹ phải nhập khẩu. Ngoài ra, tình trạng lưu thông tôm giống không rõ nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch vẫn diễn ra, tiềm ẩn nguy cơ cho người nuôi. Thực tế này đòi hỏi ngành tôm phải nhanh chóng nâng cao chất lượng giống và siết chặt quản lý từ khâu sản xuất đến khi thả nuôi. Song song với việc quản lý giống, vấn đề phòng ngừa dịch bệnh cũng cần được đặt lên hàng đầu. Tại Hội thảo “Giải pháp phòng, trị một số bệnh nguy hiểm và bệnh mới nổi trong nuôi thủy sản”, các chuyên gia cho rằng, ngành tôm cần chủ động nhận diện rủi ro, triển khai phòng bệnh từ sớm và xây dựng vùng nuôi an toàn dịch bệnh. Đồng thời, việc huy động các viện nghiên cứu và trường đại học tham gia chẩn đoán, xét nghiệm và hoàn thiện quy trình phòng, trị bệnh được xem là giải pháp quan trọng để bảo vệ sự phát triển bền vững của ngành.

Đây là những nội dung chính của Đặc san Con Tôm phát hành số tháng 11/2025. Ngoài ra, trong số này vẫn là các chuyên trang, chuyên mục cập nhật tình hình nuôi tôm trong nước và thế giới, thông tin thị trường, kỹ thuật nuôi, hoạt động doanh nghiệp,… Rất mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ và đồng hành của Quý bạn đọc!

Trân trọng! BAN BIÊN TẬP

Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn  www.contom.vn

Theo dòng thời sự

T14-15: Nhận diện sớm, ứng phó kịp thời

Vấn đề - Sự kiện

T16-17: Chủ động con giống: Nâng sức cạnh tranh

Tòa soạn - Bạn đọc

T18-19: Tiếp sức người nuôi và doanh nghiệp thủy sản sau bão lũ

Thị trường xuất khẩu

T24-25: Điểm tựa từ thị trường Trung Quốc: Giữ vững vị thế, sẵn sàng cạnh tranh

Nhìn ra thế giới

T30-31: Ấn Độ: Ngành tôm giữ “mạch sống”

Thức ăn - Dinh dưỡng

T36-37: Hợp chất sinh học tự nhiên: Vi chất cho tôm khỏe

Khoa học - Kỹ thuật

T38-39: Quy trình nuôi tôm hạn chế chất thải

T40: Đảm bảo sức khỏe tôm sau bão

T41: Biện pháp xử lý tảo độc

Thông tin doanh nghiệp

T42-43: 10,9 con/kg - Kỷ lục mới từ nuôi tôm kích cỡ lớn

T44-45: Khánh thành Công ty TNHH Thức ăn YueHai Việt Nam

T46: Công nghệ Nanobubble: Giải pháp đột phá cho NTTS bền vững

Mô hình điển hình

T50: Nuôi tôm công nghệ cao tại Vĩnh Long

T51: Trung Quốc: Nuôi tôm chống mặn hồi sinh vùng đất khô cằn

Tây Bắc

Đồng hành cùng nhà nông

T52: Nâng cao chất lượng tôm giống

T53: 5 lưu ý ương tôm càng xanh trong ao nổi lót bạt

Cơ hội mới cho TTCT

Trước đây, gia đình anh Đặng Tất Tuân, xã Đông Tiên Hưng, chuyên nuôi cá truyền thống trên diện tích 2.500 m². Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời tiết, đặc biệt là mưa lớn khiến cá bị trôi ra ngoài ao, thu nhập không ổn định, có năm mất trắng. Nhận thấy tiềm năng từ mô hình nuôi TTCT, anh Tuân đã quyết định đầu tư xây dựng kè, nâng cao bờ ao và chuyển sang nuôi tôm trong môi trường nước ngọt. Theo anh Tuân, nuôi TTCT trong nước ngọt đòi hỏi kỹ thuật cao, vì cần kiểm soát chặt chẽ các yếu tố như độ mặn, khoáng chất, nhiệt độ và nước sạch. Trước khi thả giống, anh Tuân cải tạo ao kỹ lưỡng, chọn tôm giống từ cơ sở uy tín. Trong quá trình nuôi, anh tuân thủ quy trình kỹ thuật chặt chẽ: cho ăn đúng lượng, kiểm tra nước hằng ngày và duy trì ôxy bằng hệ thống quạt nước, sục khí. Được biết, mỗi vụ anh Tuân thả nuôi từ 50.000 con tôm. Mỗi năm anh nuôi từ 2 đến 3 vụ, mang lại thu nhập khoảng 100 triệu đồng/ năm, gấp 3 - 4 lần so nuôi cá truyền thống.

LÊ LOAN

NGHỆ AN Khẩn trương khôi phục sản xuất sau bão

Sau khi bão số 10 đi qua, nhiều hộ nuôi tôm tại xã Hải Lộc đang tập trung khắc phục hậu quả, với quyết tâm khôi phục sản xuất trong thời gian sớm nhất. Người dân gia cố lại bờ bao, sửa chữa máy móc, hệ thống che phủ, đồng thời dọn bùn đất, rác thải và xử lý môi trường nước sau bão nhằm đảm bảo các điều kiện an toàn cho vụ nuôi mới. Theo chia sẻ của người dân, do đặc thù nuôi tôm công nghệ cao cần môi trường ổn định, nguồn nước sạch và hệ thống kỹ thuật hoạt động đồng bộ, nên công tác khắc phục sau bão đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và chi phí. Tuy nhiên, với tinh thần chủ động và kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, bà con đang nỗ lực hoàn thiện từng hạng mục để kịp tiến độ sản xuất. Hiện, nhiều ao nuôi tại đây đã cơ bản đủ điều kiện cho vụ mới. Người dân đang tiếp tục tái tạo nguồn nước, kiểm tra hệ thống điện, thiết bị kỹ thuật, chuẩn bị các khâu cuối cùng để khởi động vụ Đông năm nay.

THANH HIẾU

NINH BÌNH

Thành công nhờ đổi mới tư duy

Trong bối cảnh nghề nuôi tôm miền Bắc liên tục đối mặt với những bất lợi từ thời tiết khắc nghiệt, dịch bệnh phức tạp, việc duy trì được hiệu quả sản xuất là điều không dễ dàng. Thế nhưng, mô hình nuôi tôm của ông Hoàng Văn Hòa (xã Quỹ Nhất) vẫn mang lại

thành công nhờ cách tổ chức bài bản và tư duy sản xuất khác biệt.

Với tổng diện tích 3,3 ha, gồm 10 ao nuôi, ông duy trì đều đặn hai

vụ chính mỗi năm, cho năng suất trung bình 7 tấn/vụ, tôm thương

phẩm đạt cỡ 17 - 18 con/kg, đem lại doanh thu vụ cao nhất gần 2 tỷ

đồng. Đây là một con số ấn tượng trong điều kiện nuôi ở miền Bắc

được đánh giá là ít thuận lợi so với miền Nam. Đáng chú ý, ở vụ nuôi hiện tại, ông Hòa đã đạt được bước tiến rõ rệt khi hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) chỉ còn 0,9 - 1, thấp hơn nhiều so mức trung bình của khu vực. Nhờ đó, với 10 tấn tôm, ông tiết kiệm được khoảng 200 triệu đồng/vụ chi phí thức ăn, nâng cao lợi nhuận và tạo lợi thế cạnh tranh.

NGUYỄN HẰNG

HÀ TĨNH

Mạnh dạn thay đổi phương thức sản xuất Những năm gần đây, thời tiết Hà Tĩnh diễn biến phức tạp khiến nhiều diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại. Để chủ động ứng phó, giảm thiểu rủi ro, một số hộ dân đã thay đổi cách làm trong sản xuất. Trên tổng diện tích 5.000 m2, anh Dương Quốc Khánh (phường Trần Phú) thả nuôi tôm thương phẩm với mật độ 150 con/ m2. Thay vì lựa chọn cách chăm sóc, nuôi tôm theo kinh nghiệm, anh Khánh áp dụng quy trình nuôi tôm thâm canh 3 giai đoạn với ưu điểm là tiết kiệm nước, dễ quản lý, hạn chế dịch bệnh, tôm đạt tỷ lệ sống cao, tăng hiệu quả. Bên cạnh đó, có thể nuôi từ 2 - 3 vụ trong năm, năng suất cao gấp nhiều lần so phương pháp truyền thống. “Trung bình sau từ 90 - 95 ngày thả giống, tôm sẽ đạt kích thước thương phẩm từ 35 - 40 con/kg. Toàn bộ 5.000 m2 của tôi cho năng suất đạt hơn 10 tấn. Với mức giá bán 170.000 đồng/kg như hiện nay, sau khi trừ các khoản chi phí, tôi có thể thu về gần 1 tỷ đồng”, anh Khánh chia sẻ.

THANH HÓA

Làm giàu từ nuôi tôm công nghệ cao

Từ mô hình nuôi tôm quảng canh truyền thống, ông Đỗ Văn Ân, xã Hoằng Châu đã mạnh dạn chuyển hướng sang nuôi TTCT công nghệ cao. Năm 2018, ông đầu tư 1,8 tỷ đồng xây dựng khu nuôi công nghệ cao có mái che, hệ thống xử lý nước tuần hoàn và kiểm soát nhiệt độ tự động trên diện tích 1 ha trong tổng khu 4,5 ha. Với 19 bể nuôi, diện tích mỗi bể khoảng 50 m2, ông Ân thả từ 11,2 vạn TTCT. Sau thời gian nuôi từ 3 - 3,5 tháng, sản lượng tôm thương phẩm mỗi bể có thể đạt khoảng 250 kg. Đặc biệt, mô hình nuôi tôm công nghệ cao cho phép nuôi tới 3 vụ/năm, mật độ tới 500 con/m2. Vào vụ Đông có giá bán gấp đôi so với các vụ khác, dao động 280.000 - 300.000 đồng/kg. Trung bình mỗi năm ông nuôi 3 vụ, mỗi vụ thu hoạch được khoảng 4 tấn tôm, mang lại doanh thu khoảng 3 tỷ đồng. Ông Ân chia sẻ: “Nuôi tôm công nghệ cao không hề đơn giản, nhưng bù lại năng suất cao gấp 3 - 4 lần, rủi ro thấp và dễ kiểm soát hơn”.

HUYỀN THƯƠNG

QUẢNG TRỊ

Tôm càng xanh mở triển vọng bền vững

Tôm càng xanh trở thành đối tượng thủy sản nước ngọt mới, mở ra hy vọng nâng cao thu nhập và ổn định đời sống của người dân một số vùng tại Quảng Trị. Năm 2025, Trung tâm Khuyến nông Quảng

Trị hỗ trợ gia đình ông Hồ Văn Thọ, thôn An Bình, xã Hiếu Giang 50% chi phí tôm giống, thức ăn công nghiệp và men vi sinh nuôi thử nghiệm 0,2 ha tôm càng xanh. Sau 6 tháng nuôi, tôm đạt kích cỡ bình quân 20 con/kg, tỷ lệ sống đạt trên 66%, sản lượng thu hoạch đạt khoảng 1,32 tấn (6,6 tấn/ha). Với giá bán trung bình khoảng 250.000 đồng/kg, trừ chi phí, ông Thọ lãi ròng 80 triệu đồng/0,2 ha (400 triệu đồng/ha). Theo ông Thọ, tôm càng xanh là đối tượng nuôi có khả năng thích nghi cao nên ít xảy ra dịch bệnh, rủi ro thấp. Nguồn nước phải được xử lý trước khi lấy vào ao và thường xuyên

được kiểm soát các yếu tố môi trường như pH, độ kiềm, con giống đảm bảo chất lượng. Nuôi tôm càng xanh cho lợi nhuận cao hơn nhiều so với các đối tượng truyền thống khác.

NGUYỄN AN

CẦN THƠ

Đặt mục tiêu sản lượng tôm đạt gần 230.000 tấn

Cần Thơ đang tập trung phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ cao và số hóa quy trình sản xuất.

Với lợi thế 72 km bờ biển, ba cửa sông lớn và nguồn nước dồi dào, thành phố xác định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó tôm nước lợ giữ vai trò chủ lực. Năm 2025, Cần Thơ đặt mục tiêu sản lượng tôm đạt gần 230.000 tấn, trên tổng diện tích 51.000 ha nuôi.

Thành phố đã triển khai nhiều mô hình nuôi tôm công nghệ cao như ao lót bạt nhiều giai đoạn, Semi biofloc, hệ thống quan trắc tự động,… giúp nâng cao năng suất TTCT lên 20 - 30 tấn/ha/vụ.

Đặc biệt, hơn 7.500 mã số nuôi đã được cấp, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc và minh bạch hóa sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Thành phố cũng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cơ giới hóa và chuyển đổi số trong toàn bộ quy trình nuôi, chế biến thủy sản.

Song song đó, Cần Thơ tăng cường liên kết với các viện, trường và doanh nghiệp để nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ,

ĐẮK LẮK

Thủ phủ tôm hùm tan hoang sau bão 13

Tỉnh Đắk Lắk là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơn bão số 13. Toàn tỉnh có 6.441 bè với 183.341 ô lồng nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là tôm hùm với 3.152 lao động, tập

trung tại phường Sông Cầu, Xuân Đài và các xã: Ô Loan, Tuy An Nam, Hòa Xuân, Xuân Lộc. Theo báo cáo của Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự tỉnh Đắk Lắk, tính đến 7 giờ sáng ngày 7/11, tổng số lồng, bè bị ảnh hưởng khoảng 54.000 lồng, với thiệt hại ước tính 21 tỷ đồng (tỷ lệ thiệt hại khoảng 30%). Dọc bờ biển phường Xuân Đài, hàng trăm lồng nuôi tôm hùm bị đánh dạt vào bờ, hư hỏng nghiêm trọng, người dân thẫn thờ nhìn lồng tôm hùm trống không. Ông Đỗ Hoàng Xuân, phường Sông Cầu có bốn ao nuôi cá mú với 8.000 con cá mú và 100.000 con tôm hùm ở ngoài vịnh bị sóng đánh hư hại. “Mất sạch rồi, lồng tôm hùm, ao nuôi cá mú đều bị bão đánh tan hoang. Cả tỷ bạc đi theo bão số 13”, ông Xuân buồn bã chia sẻ.

NAM CƯỜNG

ĐỒNG NAI

Nông dân khởi nghiệp từ tôm công nghệ cao

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao đã giúp anh Nguyễn Huy Bình, xã Phước An trở thành tấm gương tiêu biểu cho người nuôi tôm tại Đồng Nai, truyền cảm hứng về sự đổi mới và làm giàu từ nghề nông.

Điểm nổi bật trong mô hình của anh Bình là sự đầu tư bài bản và ứng dụng triệt để khoa học kỹ thuật. Anh thiết kế hệ thống ao nuôi nổi bằng bê tông tròn, dễ dàng kiểm soát môi trường nước và giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh. Hệ thống cung cấp ôxy được tăng cường, đảm bảo hàm lượng ôxy hòa tan tối ưu để tôm phát triển khỏe mạnh. Nhờ áp dụng quy trình nuôi khép kín, mô hình của anh Bình

đạt năng suất ấn tượng, với sản lượng 20 - 25 tấn/ha/vụ, trung bình 3 vụ mỗi năm. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận ròng đạt 700 triệu

đến 1 tỷ đồng/ha. Tổng doanh thu hàng năm từ hệ thống nuôi tôm công nghệ cao của anh hiện vượt mốc 35 tỷ đồng. Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh Bình còn tích cực chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ cộng đồng.

DIỆU CHÂU

hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ, góp phần nâng cao giá trị tôm Việt trên thị trường quốc tế.

LINH AN Cần Thơ đã triển khai nhiều mô hình nuôi tôm công nghệ cao Ảnh: XT

VĨNH LONG

Tăng cường kiểm soát dịch bệnh

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long, 10 tháng đầu năm 2025, toàn tỉnh ghi nhận khoảng 1.960 ha tôm sú, TTCT bị nhiễm bệnh, chiếm khoảng 19% diện tích thả nuôi. Qua khảo sát cho thấy điều kiện môi trường nước không ổn định, kết hợp thời tiết bất lợi trong giai đoạn tôm 22 - 41 ngày tuổi đã khiến nhiều ao nuôi xuất hiện bệnh đốm trắng, đỏ thân và bệnh đường ruột. Cụ thể, bệnh đốm trắng chiếm 27% diện tích nhiễm bệnh, hoại tử gan tụy cấp 23%, vi bào tử trùng 17%, bệnh do môi trường 14% và bệnh hoại tử cơ quan tạo máu, biểu mô 3%. Ông Lê Văn Đông, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long cho biết, ngành đã phối hợp với địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát vùng nuôi, hướng dẫn hộ dân có tôm nhiễm bệnh áp dụng các biện pháp phòng chống dịch, tránh lây lan diện rộng. Thời gian tới, ngành thủy sản tỉnh sẽ tiếp tục lấy mẫu giáp xác định kỳ để phân tích mầm bệnh, công bố kết quả rộng rãi giúp người nuôi chủ động quản lý ao nuôi.

THÁI THUẬN

CÀ MAU

Thiên tai gây thiệt hại nặng cho hộ nuôi

Trận lốc xoáy dữ dội xảy ra vào tối 28/10 đã gây thiệt hại nặng nề cho người dân địa phương xã Thanh Tùng. Theo thống kê ban đầu, 13 hộ dân bị ảnh hưởng, trong đó 2 căn nhà và 5 chòi nuôi tôm bị sập hoàn toàn, 15 căn khác bị tốc mái và 7 ao nuôi tôm công nghiệp bị hư hỏng nặng. Tổng thiệt hại ước tính gần 910 triệu đồng. Ông Huỳnh

Chí Nguyện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước thiệt hại của bà con, đồng thời biểu dương chính quyền xã Thanh Tùng đã kịp thời có mặt giúp dân khắc phục hậu quả. Ông

khẳng định tỉnh sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ để người dân sớm ổn

định nơi ở, khôi phục sản xuất, đặc biệt là các hộ nuôi tôm đang thiệt hại nặng. Ông Nguyện nhấn mạnh: “Tỉnh Cà Mau luôn ưu tiên bảo vệ sinh kế của người dân vùng nuôi tôm. Chính quyền sẽ rà soát, hỗ trợ khẩn cấp cho các hộ khó khăn và hướng dẫn bà con chủ động phòng tránh thiên tai trong thời gian tới”.

THẢO ANH

ECUADOR

Giữ vị thế dẫn đầu nhờ phát triển tôm bền vững

Diễn đàn “Race to the Top” tại Triển lãm AquaExpo Guayaquil (Ecuador) ngày 21/10 đã kêu gọi ngành tôm toàn

cầu chuyển mình theo hướng bền vững để duy trì sức cạnh tranh lâu dài. Sự kiện do Hiệp hội Tôm bền vững (SSP) và Cơ quan Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia Ecuador (CNA) đồng tổ chức, quy tụ hơn 300 đại biểu cùng 35 diễn giả từ 11 quốc gia châu Mỹ và châu Âu. Với chủ đề “Chuyển đổi - Truyền cảm hứng - Dẫn dắt”, các chuyên gia đã chia sẻ chiến lược, kinh nghiệm và câu chuyện phát triển ngành tôm thành công gắn với các yếu tố quản trị, kinh tế, xã hội và môi trường. Giám đốc SSP Pamela Nath nhấn mạnh: “Bền vững không chỉ là mục tiêu mà phải là hành động mỗi ngày, hướng tới tương lai nuôi tôm có trách nhiệm và đổi mới có mục đích”. Ông José Antonio Camposano, Chủ tịch CNA, khẳng định Ecuador giữ vững vị thế nước xuất khẩu tôm số một thế giới nhờ không ngừng đổi mới và lấy bền vững làm nền tảng.

MEXICO

Gia hạn lệnh cấm đánh bắt tôm

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Mexico (SADER) đã có thông báo gia hạn thời gian cấm khai thác tôm thương mại tại vùng Vịnh Mexico và biển Caribe đến 18 giờ ngày 10/11/2025. Quyết định này đăng trên Công báo Liên bang ngày 24/10, điều chỉnh thời hạn kết thúc ban đầu là 25/10. Vùng biển chịu ảnh hưởng kéo dài từ biên giới với Mỹ (bang Tamaulipas) đến cửa sông Coatzacoalcos (Veracruz). Theo Viện Nghiên cứu Thủy sản và Nuôi trồng bền vững Mexico (IMIPAS), việc gia hạn nhằm bảo đảm tôm, đặc biệt là tôm nâu đang chiếm ưu thế tại khu vực, đạt kích cỡ thương phẩm tối thiểu, giúp tăng giá trị kinh tế và duy trì nguồn lợi bền vững. Dù một số ngư dân lo ngại thiệt hại ngắn hạn, phần lớn giới chuyên môn ủng hộ động thái này như một bước cần thiết hướng tới quản lý bền vững nguồn tôm biển của Mexico.

MỸ

Ngư dân South Carolina nỗ lực giữ

nghề tôm truyền thống

 Hàng loạt công ty Mỹ, trong đó có AquaStar, Beaver Street Fisheries và Southwind Foods, đã thu hồi tôm nhập từ Indonesia do lo ngại nhiễm phóng xạ Cesium-137 (Cs-137). Trong tháng 9, AquaStar đã thu hồi khoảng 85.000 túi tôm mang nhãn Kroger, AquaStar, Best Yet và Waterfront Bistro; và khoảng 44.000 túi trong tháng 8. Dù chưa có mẫu nào dương tính với Cs-137 và chưa ghi nhận ca bệnh, vụ việc vẫn khiến nhiều nhà đóng gói Indonesia tạm ngừng xuất hàng sang Mỹ. Hai bên đã đạt thỏa thuận mới vào ngày 21/10 nhằm giúp khơi thông chuỗi cung ứng và trấn an các đối tác nhập khẩu.

 Iran dự kiến sản lượng tôm nuôi sẽ tăng tới 20% trong vụ thu hoạch kéo dài đến cuối tháng 11, đạt khoảng 50.000 tấn so 40.000 tấn năm trước. Theo Cục Thủy sản Iran, diện tích nuôi tôm năm nay đã mở rộng lên hơn 16.000 ha, tập trung tại các tỉnh Hormozgan, Bushehr và Golestan. Ngành thủy sản Iran đang bùng nổ nhờ xuất khẩu tăng mạnh, mang lại nguồn ngoại tệ quý giá trong bối cảnh nước này nỗ lực giảm phụ thuộc vào dầu mỏ. Trung Quốc hiện chiếm hơn 50% lượng tôm nhập từ Iran, tiếp đến là Nga, UAE, Qatar và Oman.

Mùa TTCT đang ở cao điểm, nhưng số lượng tàu đánh bắt thương mại tại South Carolina, đặc biệt quanh khu Shem Creek, ngày càng thưa vắng. Rocky Magwood, ngư dân đời thứ tư của vùng vẫn kiên trì bám biển cùng hai bạn thuyền, ra khơi từ lúc bình minh với hy vọng thu được 600 - 700 pound tôm mỗi ngày. Ông thường đánh bắt quanh Isle of Palms, nơi những tháng mát trời cho phép tàu hoạt động gần bờ chưa đầy một dặm. Nghề này đã nuôi sống gia đình Magwood qua nhiều thế hệ, song ông lo ngại áp lực chi phí và giá tôm dậm chân khiến nghề truyền thống dần mai một. “Nhiên liệu, bảo dưỡng đều tăng, còn giá tôm thì không nhích. Thật khó để sống với nghề”, ông chia sẻ. Hiệp hội Tôm South Carolina đang kêu gọi siết chặt nhập khẩu tôm giá rẻ, trong khi Magwood mong người dân ủng hộ ngư dân địa phương, mua tôm Mỹ để giữ nghề còn tồn tại.

 Liên minh Thủy sản Toàn cầu (GSA) cho biết Bangkok sẽ đăng cai Hội nghị Thủy sản Có trách nhiệm thường niên vào tuần lễ 21/9/2026. Sự kiện lần thứ 25 này sẽ do GSA phối hợp cùng Trung tâm Thủy sản Có trách nhiệm (TCRS) tổ chức, kết hợp nội dung của Hội nghị Tôm TCRS. Cả hai tổ chức phi lợi nhuận đều có chung sứ mệnh và dự kiến tổ chức tại Thái Lan, trung tâm sản xuất, thương mại thủy sản lớn của thế giới. Hội nghị sẽ diễn ra tại khách sạn Shangri-La Bangkok, đánh dấu lần trở lại Thái Lan sau hơn một thập kỷ, với trọng tâm thảo luận về ngành tôm toàn cầu.

 Công ty Lisaqua của Pháp vừa huy động được 9 triệu Euro để xây dựng trang trại tôm thương phẩm quy mô lớn đầu tiên ở miền Bắc, sử dụng công nghệ nuôi trên cạn thân thiện môi trường. Khoản đầu tư do Quỹ Đổi mới môi trường và đoàn kết của Crédit Mutuel Impact dẫn đầu, với sự tham gia của các quỹ Noshaq, Mer Invest và hợp tác xã nông nghiệp Le Gouessant. Dự án có công suất 100 tấn tại Monthyon, thuộc chương trình “Première Usine” trong khuôn khổ kế hoạch France 2030. Lisaqua cho biết mô hình này giúp giảm ô nhiễm nước, bảo vệ rừng ngập mặn, tái sử dụng năng lượng và không dùng kháng sinh.

INDONESIA

Cấp chứng nhận “không nhiễm phóng xạ” cho tôm xuất khẩu sang Mỹ

Chính phủ Indonesia triển khai chương trình chứng nhận đặc biệt nhằm bảo đảm tôm xuất khẩu sang Mỹ không chứa đồng vị phóng xạ Cesium-137, sau khi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) phát hiện dấu vết chất này trong một lô hàng từ Java và Lampung hồi tháng 8. Bộ Hàng hải và Thủy sản (KKP) được chỉ định làm cơ quan chứng nhận, phối hợp với Cơ quan Giám sát năng lượng hạt nhân và Cơ

quan nghiên cứu - Đổi mới quốc gia để thiết lập quy trình kiểm nghiệm tại các điểm kiểm soát then chốt. Điều tra xác định nguồn nhiễm phóng xạ đến từ phế liệu kim loại nhập khẩu tại khu công nghiệp Cikande, tỉnh Banten, chứ không xuất phát từ vùng nuôi tôm. Indonesia đã thu gom hơn 550 tấn vật liệu nhiễm Cesium-137 từ 22 cơ sở công nghiệp. Lô tôm đầu tiên mang chứng nhận “sạch phóng xạ” đã rời cảng

Tanjung Priok cuối tháng 10 hướng tới các cảng New York, Los Angeles, Miami và Jacksonville.

ẤN ĐỘ

Xuất khẩu tôm tăng mạnh dù sụt giảm trong tháng 8

Sau giai đoạn bùng nổ từ tháng 5 đến tháng 7, tháng 8, xuất khẩu tôm

nước ấm của Ấn Độ giảm 18,1% so tháng

trước, diễn biến tương tự năm trước.

Tuy vậy, so cùng kỳ, sản lượng chỉ thấp

hơn 0,7%, cho thấy đà xuất khẩu vẫn

ổn định. Tính đến nay, Ấn Độ đã xuất

517.643 tấn tôm, tăng 9,9% so cùng kỳ, đạt kim ngạch 3,64 tỷ USD, tăng ấn

tượng 18,5%. Sự sụt giảm trong tháng 8 chủ yếu do nguồn cung cạn sau chu kỳ thu hoạch sôi động mùa Xuân, trong khi nhu cầu lớn từ Mỹ trước thời điểm áp thuế mới khiến nhiều lô hàng được dồn xuất sớm

trước tháng 7. Thêm vào đó, mùa mưa đến sớm buộc nông dân thu hoạch trước thời vụ, làm giảm lượng tôm còn lại cho xuất khẩu. Nguồn cung được dự báo tiếp tục khan hiếm trong tháng 9 và 10, vốn nằm giữa hai vụ thu hoạch chính của Ấn Độ.

ARGENTINA

Khảo sát tôm ở Chubut cho kết quả khả quan

Cuộc khảo sát tôm tại vùng biển tỉnh Chubut (Argentina) kết thúc ngày 3/11 sau ba ngày đánh bắt hiệu quả, ghi nhận các chỉ số sinh học tích cực ở khu vực phía Bắc, theo tạp chí Revista

Puerto . Mẫu tôm thu được có vỏ chắc, thịt săn và đạt chất lượng cảm quan mong muốn. Tổng cộng 20 tàu tham gia khảo sát theo lệnh của cơ quan quản lý, trong đó hạm đội lớn được chia đều cho hai khu vực Nam và Bắc, cùng bốn tàu thủ công được phép hoạt động ở phía Bắc. Do điều kiện gió mạnh, hoạt động tạm ngưng vào thứ bảy. Kết quả tại khu vực Nam (vĩ độ 44°00 ′ -44°56 ′ ) không khả quan, hầu hết mẻ lưới trống và xuất hiện nhiều cá non, nên toàn bộ tàu đã di chuyển ra Bắc. Tại khu vực Bắc (43°00 ′ -44°00 ′ ), tôm cỡ L2 chiếm 60%, L1 chiếm 30%, tỷ lệ lẫn cá tuyết thấp và năng suất ổn định. Dựa trên dữ liệu cuối cùng, cơ quan quản lý sẽ xem xét mở lại vùng khai thác thương mại trong phạm vi nêu trên.

TUẤN MINH

 Skretting vừa ra mắt thế hệ thức ăn tôm mới Optiline và Lorica, tích hợp công nghệ EDGEOS PhytoComplexes lần đầu tiên - hợp chất sinh học chiết xuất từ thực vật như toàn bộ cây, hoặc các phần như lá, hoa, thân, giúp tăng sức khỏe và hiệu suất vật nuôi. Lorica tăng sức đề kháng và thể trạng tôm, còn Optiline cải thiện tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn. Công thức mới cũng giảm phụ thuộc nguyên liệu biển và hạn chế thải dinh dưỡng. Sản phẩm do nhóm Nutreco Exploration phát triển, sẽ ra mắt tại Ecuador cuối năm 2025, sau đó mở rộng sang các thị trường khác.

 Đánh giá mới của Ủy ban Thủy sản biển Đại Tây Dương (ASMFC) cho thấy trữ lượng tôm hùm tại Vịnh Maine chưa suy kiệt nhưng đã giảm 34% so đỉnh năm 2018, đồng thời đang chịu khai thác quá mức. Ngược lại, nguồn lợi ở Nam New England tiếp tục ở mức cạn kiệt nghiêm trọng, với mật độ thấp kỷ lục ở mọi giai đoạn sinh

trưởng. ASMFC nhận định dù số lượng tôm hùm ở Maine vẫn vượt ngưỡng an toàn, nhưng sản lượng sụt giảm và khai thác vượt giới hạn cảnh báo nguy cơ suy giảm kinh tế. Các chuyên gia kêu gọi xây dựng chiến lược quản lý mới gắn với biến động môi trường và biến đổi khí hậu.

 Cơ quan Tài nguyên và Bảo tồn Thiên nhiên bang Alabama (ADCNR) sẽ tổ chức hai buổi tham vấn cộng đồng trong tháng 11/2025 nhằm lấy ý kiến về kế hoạch quản lý nghề khai thác tôm mới do Ban Tài nguyên Biển (MRD) xây dựng. Ông Chris Blankenship, Ủy viên ADCNR, cho biết kế hoạch này là yêu cầu trong quá trình chứng nhận khai thác bền vững mà nghề tôm Alabama đang theo đuổi. Tại các buổi họp, MRD sẽ trình bày mục tiêu, định hướng của kế hoạch và tiếp nhận ý kiến đóng góp từ ngư dân, doanh nghiệp cùng người dân địa phương.

 Trong 8 tháng đầu năm 2025, Ecuador xuất khẩu 934.000 tấn tôm, tăng 14% so cùng kỳ năm trước, đạt giá trị 4,9 tỷ USD (+23%) nhờ giá bán cao hơn. Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất với 461.000 tấn (+5%), song tháng 8 giảm 15%. EU trở thành động lực tăng trưởng chính với 181.000 tấn (+34%), trong khi Mỹ nhập 172.000 tấn (+14%). Ngược lại, xuất khẩu sang Nga giảm 5% và Nhật tăng mạnh 39%. Dù thị trường toàn cầu biến động, ngành tôm Ecuador vẫn duy trì đà tăng, đặc biệt nhờ nhu cầu vững từ châu Âu và Bắc Mỹ. 

Nhận diện sớm, ứng phó kịp thời

Dịch bệnh vẫn đang là thách thức lớn của nghề nuôi tôm hiện nay. Chủ động nhận diện và ứng phó kịp thời giúp người nuôi không chỉ bảo vệ đàn tôm, mà còn giảm tổn thất, góp phần giữ ổn định môi trường và phát triển bền vững toàn ngành.

Sử dụng PCR để phát hiện sớm một số bệnh trên tôm

Nhận diện bệnh cũ, mới

Ngày 7/11/2025, tại Cần Thơ, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Cần Thơ cùng Cơ quan Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tổ chức Hội thảo “Giải pháp phòng, trị một số bệnh nguy hiểm và bệnh mới nổi trong nuôi thủy sản”.

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, trong 10 tháng đầu năm 2025, tình hình dịch bệnh trên tôm nhìn chung được kiểm soát, song vẫn ảnh hưởng nhất định đến hoạt động sản xuất của người nuôi. Các bệnh thường gặp gồm đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, bệnh phân trắng và EHP. Yếu tố môi trường biến động, mật độ thả nuôi cao, con giống chưa được kiểm soát tốt và thời tiết cực đoan được xem là những nguyên nhân chính.

TS Trần Hữu Lộc, Trường Đại học Nông

Lâm TP Hồ Chí Minh cho biết, dù mầm bệnh trên tôm vẫn còn xuất hiện, song một số bệnh từng gây thiệt hại nghiêm trọng đã giảm đáng kể. Ông dẫn chứng, từ năm 2023, bệnh TPD từng bùng phát mạnh, nhưng đến nay tình hình đã lắng dịu rõ rệt. Tương tự, bệnh EMS sau giai đoạn đầu gây

Ảnh: Shutterstock

thiệt hại nặng cho ngành tôm cũng đã được kiểm soát tốt hơn.

Theo TS Trần Hữu Lộc, nguyên nhân khiến mức độ gây hại của các bệnh như TPD hay EMS giảm đi là do độc lực của virus đã yếu hơn trước, bởi chúng phải thích nghi trong môi trường có nhiều chủng virus khác cùng tồn tại. Ông ví sự bùng phát của các mầm bệnh độc lực cao như “một đám cháy rừng” - dữ dội lúc đầu nhưng dần yếu đi nhờ tác động tự nhiên và con người. Tuy nhiên, theo TS Lộc, nguyên nhân khiến tôm nuôi thời gian qua vẫn chịu thiệt hại do dịch bệnh là bởi trong môi trường nuôi vẫn tồn tại nhiều mầm bệnh nguy hiểm, chúng sẵn sàng tấn công khi sức đề kháng của tôm suy giảm.

“Mầm bệnh đang khiến người nuôi tôm lo ngại nhất hiện nay là vi bào tử trùng EHP. Khác với nhiều tác nhân gây bệnh khác, EHP không làm tôm chết hàng loạt mà khiến tôm chậm lớn, suy yếu, từ đó tạo điều kiện cho các mầm bệnh cơ hội tấn công, điển hình là bệnh phân trắng”, TS Lộc chia sẻ. Nghiên cứu cho thấy EHP có thể xuất hiện trong nguồn thức ăn tươi sống dành cho tôm bố mẹ và lây truyền sang tôm post.

Đáng chú ý, trong môi trường ao nuôi, các mầm bệnh này thường tồn tại sẵn nhưng chưa được phát hiện do mật độ thấp hoặc điều kiện môi trường chưa thuận lợi. Khi gặp yếu tố kích thích phù hợp, chúng có thể bùng phát mạnh, gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Liên quan đến vấn đề này, TS Lộc cho rằng bệnh phân trắng cũng thường khởi phát từ những yếu tố môi trường bất lợi. Ao nuôi bị phú dưỡng, sụp tảo là điều kiện cho vi khuẩn phát triển mạnh. Khi mật độ vi khuẩn vượt ngưỡng, chúng trở thành tác nhân trực tiếp gây bệnh, đặc biệt với những đàn tôm đã nhiễm sẵn EHP.

“Có thể xem bệnh phân trắng là kết quả cuối cùng của quá trình bội nhiễm, chứ không phải là tác nhân ban đầu, tương tự như bệnh lao trên người vậy”, TS Lộc kết luận.

An toàn sinh học là trên hết

TS Lê Văn Khoa, Giám đốc kỹ thuật toàn quốc Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam), nhấn mạnh rằng an toàn sinh học là yếu tố then chốt trong phòng và trị bệnh thủy sản. Để thực hiện hiệu quả, ngoài áp dụng các biện pháp kỹ thuật, việc quản lý nhân sự tại các cơ sở nuôi cũng đóng vai trò hết sức quan trọng

TS Khoa nêu thực trạng: “Trên thực tế, công tác quản lý nhân sự tại các cơ sở nuôi chỉ được thực hiện nghiêm ngặt khi xuất hiện dịch bệnh. Sau đó, dịch giảm hoặc không còn dịch, việc giám sát và duy trì các biện pháp quản lý thường không được thực hiện một cách chặt chẽ”.

Một vấn đề khác liên quan đến an toàn sinh học mà TS Khoa nhấn mạnh là thiết kế trang trại nuôi. Ông cho biết, nhiều chủ cơ sở thường ít quan tâm đến công đoạn này, dẫn đến việc thiết kế thường chỉ sao chép lẫn nhau. “Với kinh nghiệm nhiều năm trong thiết kế trại nuôi, tôi có thể khẳng định rằng không có một mẫu thiết kế chung cho tất cả các trang trại, chỉ có các nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ”, TS Khoa chia sẻ. Đồng tình với quan điểm này, TS Lộc đề xuất: “Các trang trại cần chú trọng hơn

TS LÊ VĂN KHOA, GIÁM ĐỐC KỸ THUẬT TOÀN QUỐC, CÔNG TY TNHH GROBEST INDUSTRIAL (VIỆT NAM)

Tăng cường kết nối và chia sẻ dữ liệu dịch bệnh

giữa các đơn vị

Hiện nay, các số liệu về dịch bệnh từ doanh nghiệp, phòng thí nghiệm tư nhân, viện nghiên cứu, trường học,… là rất lớn nhưng chưa được tích hợp vào cơ sở dữ liệu chung

của ngành thú y trung ương hoặc địa phương. Chỉ riêng

Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam), mỗi năm chi khoảng 200.000 USD cho việc nghiên cứu, thống kê và thu thập dữ liệu dịch bệnh thủy sản, cho thấy nguồn số liệu hiện nay là không nhỏ. Ngoài ra, để đảm bảo dữ liệu dịch bệnh đa dạng và chính xác, cần có sự tham gia của viện, trường, doanh nghiệp trong việc lấy mẫu và xét nghiệm. Việc này không chỉ nâng cao chất lượng thông tin mà còn giúp công tác quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu trở nên rộng rãi và hiệu quả hơn.

TS TRẦN HỮU LỘC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TP HỒ CHÍ MINH

Đánh giá dịch bệnh từ con giống là yếu tố then chốt ban đầu

Trong công tác phòng bệnh, việc đánh giá dịch bệnh ngay từ tôm giống được coi là bước then chốt đầu tiên. Để hạn chế mầm bệnh EHP từ giai đoạn tôm giống, cần có cơ chế hỗ trợ xây dựng các cơ sở sản xuất thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ đủ lớn, cụ thể là các trại nuôi dời - vốn là một trong những điểm nghẽn đầu ngành. Nếu giải quyết tốt vấn đề nguồn dời tại chỗ, mầm bệnh EHP sẽ không có cơ hội tồn tại trên tôm bố mẹ và lây truyền sang tôm post. Bên cạnh đó, cần duy trì mật số vi khuẩn có lợi ở mức hợp lý ngay từ đầu. Việc loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn là không khả thi, do đó, giữ cân bằng hợp lý giữa mật số vi khuẩn có lợi với vi khuẩn có hại là điều hết sức quan trọng trong công tác phòng chống dịch bệnh cho tôm.

đến thiết kế công trình nuôi, đặc biệt là cao trình của ao nuôi, bởi đây là yếu tố rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn sinh học và phòng ngừa dịch bệnh”.

Thứ hai, TS Lộc nhấn mạnh hạ tầng xử lý nước là yếu tố then chốt trong nuôi tôm. Ông cho rằng nếu khâu này không được thực hiện tốt thì khả năng thất bại là rất cao. Đây là vấn đề quan trọng nhưng cũng

đầy thách thức với các hộ nuôi nhỏ lẻ, bởi diện tích đất hạn chế khiến không gian xử lý nước không đáp ứng đủ nhu cầu.

TS Lộc lưu ý, không nên nhìn dịch bệnh chỉ dưới góc độ một mầm bệnh đơn lẻ mà cần đánh giá nhiều yếu tố cùng tác

động, như stress của tôm hay biến động môi trường - vốn là gốc rễ dẫn đến dịch bệnh. “Chẳng hạn, những ngày gần đây mưa lớn kéo dài khiến môi trường ao nuôi biến động mạnh, dự báo trong vài ngày tới, bệnh đốm trắng sẽ bùng phát tại nhiều vùng nuôi. Vì vậy, ngay từ bây giờ, người

3,9 tỷ

CON SỐ

nuôi cần chủ động các biện pháp phòng ngừa”, ông nêu thực tế.

Đánh giá cao các ý kiến tham luận, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư - đề ra ba nhiệm vụ trọng tâm. Thứ nhất, nhận diện sớm các rủi ro và tổ chức các hội thảo chuyên đề; thứ hai, chuyển sang phòng bệnh chủ động, xây dựng vùng nuôi và cơ sở an toàn dịch bệnh; thứ ba, tăng cường kết nối hệ thống, huy động viện, trường tham gia chẩn đoán, xét nghiệm và xây dựng quy trình phòng, trị bệnh.

Trong thời gian tới, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, hoàn thiện chính sách an toàn sinh học, nghiên cứu vaccine, các giải pháp sinh học và công nghệ nuôi tuần hoàn, nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo an toàn và thúc đẩy phát triển bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam.

XUÂN TRƯỜNG

1,14 triệu tấn

Là giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm 10 tháng đầu năm 2025, tăng 22% so cùng kỳ năm trước.

1.600 lồng

Là sản lượng tôm thu hoạch trong 10 tháng đầu năm 2025, tăng 6,3% so cùng kỳ năm trước.

115 nghìn ha

Là số lồng ương nuôi tôm hùm của tỉnh Đắk Lắk bị thiệt hại do ảnh hưởng của bão số 13.

107 nghìn ha

Là diện tích nuôi tôm mà tỉnh Vĩnh Long đặt mục tiêu duy trì trong thời gian tới.

Là diện tích vùng sản xuất tôm - lúa của tỉnh An Giang hiện nay, tập trung chủ yếu ở U Minh Thượng.

ĐỘNG CON GIỐNG Nâng

sức cạnh tranh

Phát triển giống tôm nước lợ là nhiệm vụ chiến lược của ngành thủy sản. Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động, thị trường xuất khẩu tôm cạnh tranh gay gắt, việc chủ động được nguồn giống chất lượng cao và giảm phụ thuộc nhập khẩu là yếu tố sống còn giúp ngành tôm Việt Nam duy trì vị thế dẫn đầu và hướng đến phát triển bền vững.

Đáp ứng đủ nhu cầu

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, hiện cả nước có 1.577 cơ sở sản xuất và ương dưỡng tôm giống, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Vĩnh Long và Cà Mau, chiếm tới 93% tổng số cơ sở và hơn 63% sản lượng giống tôm cả nước. Riêng các tỉnh trọng điểm ương dưỡng giống gồm Khánh Hòa, Lâm Đồng, Vĩnh Long, Cà Mau và An Giang chiếm gần 90% tổng số cơ sở và 77% sản lượng toàn quốc.

Trong 5 năm qua, sản lượng giống tôm nước lợ hàng năm đạt từ 152 - 160 tỷ con, trong đó giống tôm sú khoảng 38 - 42 tỷ con, TTCT 106 - 118 tỷ con, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và một phần phục vụ xuất khẩu.

Cùng với đó, công tác quản lý chất lượng giống ngày càng được chú trọng. Nếu năm 2020, cả nước mới cấp được 660 giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống tôm (đạt 39,1%) thì đến năm 2024, con số này đã tăng lên 935 giấy (59,3%).

Đến nay, 100% cơ sở đăng ký cấp giấy chứng nhận cơ sở sản xuất và ương dưỡng giống thủy sản đã công bố áp dụng tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hoặc tiêu chuẩn cơ sở, đồng thời thực hiện nghiêm việc công bố hợp quy giống tôm sú và TTCT.

Thách thức

Mặc dù thời gian qua chất lượng tôm giống đã được cải thiện và nâng cao, nhưng đây vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại. Vùng sản xuất giống đáp ứng yêu cầu vừa tập trung vừa an toàn sinh học chưa có nhiều, cơ sở hạ tầng đã xuống cấp, chính sách hỗ trợ phát triển giống chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư, đặc biệt về đất đai và vốn. Nguồn tôm bố mẹ trong nước vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, hiện 87% TTCT bố mẹ phải nhập khẩu. Theo ông Trần Công Khôi, Trưởng Phòng giống và thức ăn thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư), quá trình gia hóa tôm bố mẹ tại Việt Nam đang gặp không ít rào cản.

“Việc chọn tạo, gia hóa, sản xuất và ương dưỡng tôm bố mẹ là một quy trình phức tạp, đòi hỏi nguồn lực rất lớn cả về con người lẫn cơ sở vật chất. Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là thiếu hạ tầng phù hợp phục vụ nghiên cứu, đặc biệt là địa điểm đảm bảo an toàn sinh học để triển khai chương trình chọn tạo lâu dài”, ông Khôi cho biết. Không ít cơ sở nghiên cứu tuy có tiềm năng về kỹ thuật nhưng lại vướng rào cản pháp lý, khiến họ không thể liên kết được với các doanh nghiệp có năng lực tài chính để triển khai chương trình gia hóa quy mô lớn. Ngoài ra, nguồn nguyên liệu di truyền phục vụ cho chọn giống vẫn còn hạn chế, chưa có cơ sở dữ liệu di truyền đủ lớn để thực hiện các bước lai tạo, phân tích và chọn lọc hiệu quả. Do đó, nguồn giống còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và nhập khẩu. Bên cạnh đó, mặc dù Cục Chăn nuôi và Thú y và các Chi cục Thủy sản địa phương đã tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng

Ảnh: VM

Việt Nam phấn đấu năm 2030 phát triển ít nhất 5 dòng tôm chọn giống chất lượng cao Ảnh: Việt Úc

tôm giống trước khi lưu thông. Hệ thống kiểm dịch, xét nghiệm mầm bệnh được mở rộng, góp phần hạn chế rủi ro dịch bệnh. Tuy nhiên, tình trạng tôm giống trôi nổi, chưa qua kiểm dịch vẫn tồn tại, gây khó khăn cho quản lý.

Chủ động nguồn giống bố mẹ

Hiện, Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu, trong khi nguồn tôm chọn giống trong nước mới đáp ứng được khoảng 10 - 15% nhu cầu. Điều này

làm gia tăng chi phí sản xuất và tiềm ẩn rủi

ro về dịch bệnh, chất lượng di truyền. Do đó,

việc chủ động nguồn tôm bố mẹ sạch bệnh, chọn lọc di truyền tốt là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo phát triển bền vững ngành tôm. Ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 chủ động 100% nguồn giống bố mẹ, phát triển ít nhất 5 dòng tôm chọn giống chất lượng cao và xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc đồng bộ, hiện đại, hướng tới phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định, phát triển giống tôm nước lợ phải được xem là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát

 Ngày 16/10/2025, tại Khánh Hòa, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức “Hội nghị phát triển giống tôm nước lợ”. Hội nghị là diễn đàn quan trọng nhằm đánh giá kết quả thực hiện công tác quản lý và sản xuất giống tôm nước lợ giai đoạn 2020 - 2025, đồng thời đề xuất các giải pháp phát triển ngành tôm theo hướng bền vững, hiện đại, đặc biệt là chủ động được nguồn tôm bố mẹ trong nước.

triển ngành tôm Việt Nam. Để đạt được mục tiêu tự chủ nguồn tôm bố mẹ và nâng cao chất lượng giống, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ xây dựng Đề án quốc gia phát

triển giống tôm nước lợ đến năm 2030. Đề án tập trung vào hoàn thiện hệ thống quản lý giống theo chuỗi khép kín, đẩy mạnh nghiên cứu chọn giống trong nước, quy hoạch vùng sản xuất tập trung, tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học và truy xuất điện tử. Bộ sẽ giao các Viện nghiên cứu, đặc biệt là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, phối hợp với các doanh nghiệp đầu ngành triển khai các trung tâm chọn tạo và sản xuất tôm bố mẹ trong nước, hướng tới xuất khẩu tôm bố mẹ ra quốc tế trong tương lai gần.

Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng đề nghị các cơ quan, đơn vị liên quan, các địa phương hướng dẫn các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn công bố áp dụng đối với tôm giống, thực hiện kiểm dịch theo quy định; tập trung triển khai các nhiệm vụ khoa họccông nghệ về chọn tạo giống tôm, xây dựng các quy trình công nghệ sản xuất giống, ương nuôi tôm giống hiệu quả để người dân, doanh nghiệp áp dụng,...

Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ cần thực hiện nghiêm quy trình về an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh; thực hiện quan trắc, kiểm soát tốt chất lượng nước sử dụng trong sản xuất, ương dưỡng, đảm bảo các yếu tố thủy lý, thủy hóa, thủy sinh phù hợp với sự sinh trưởng, phát triển của giống tôm nước lợ và từng bước tạo tính trạng kháng bệnh của tôm giống,...

NGUYỄN HẰNG

sản sau bão lũ

Hai cơn bão số 10 và 11 cùng mưa lũ kéo dài trong suốt thời gian qua đã khiến hàng chục nghìn ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng nề. Tôm, cá chết hàng loạt, cơ sở hạ tầng bị cuốn trôi, nhiều hộ dân trắng tay. Chính phủ và các bộ, ngành đã triển khai nhiều chính sách giúp doanh nghiệp và người dân khôi phục sản xuất, ổn định sinh kế.

Trực tiếp giảm áp lực tài chính

Thực hiện Thông báo số 533/ TB-VPCP ngày 4/10/2025 của Văn phòng Chính phủ về khắc phục hậu quả bão số 10, 11 và mưa lũ sau bão, Cục Thuế đã ban hành Văn bản số 4328/CT-CS hướng dẫn các cơ quan thuế địa phương triển khai chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân bị thiệt hại.

Theo quy định tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do thiên tai được xem xét gia hạn thời gian nộp thuế tối đa 2 năm kể từ ngày hết hạn. Trong thời gian này, người nộp thuế không bị tính tiền chậm nộp, không bị xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ chỉ cần văn bản đề nghị kèm

tài liệu chứng minh thiệt hại;

cơ quan thuế phải trả lời trong

vòng 10 ngày làm việc kể từ khi

nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Đối với các khoản tiền chậm

nộp, tiền phạt hành chính về

thuế, người nộp thuế bị thiệt

hại do thiên tai được miễn trong

phạm vi giá trị tổn thất, sau khi

trừ phần được bảo hiểm hoặc

bồi thường. Hồ sơ cần có biên

bản kiểm kê, định giá thiệt hại

của cơ quan chuyên môn hoặc

tổ chức giám định độc lập. Riêng với thuế giá trị gia tăng, doanh nghiệp bị thiệt

hại về hàng hóa, tài sản do bão

lũ được khấu trừ thuế đầu vào

nếu có đủ chứng từ chứng minh

phần tổn thất không được bồi thường. Hàng hóa nhập khẩu để cứu trợ, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai được miễn thuế

giá trị gia tăng khi có văn bản tiếp nhận của cơ quan nhà nước hoặc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, phần giá trị tổn thất không được bồi thường sẽ

được hạch toán vào chi phí được trừ, giúp giảm nghĩa vụ thuế.

Các khoản chi tài trợ, hỗ trợ

người dân vùng lũ hoặc người

lao động bị ảnh hưởng cũng

được tính vào chi phí hợp lệ nếu có chứng từ hợp pháp.

Đáng chú ý, theo Nghị

định 230/2025/NĐ-CP ngày 19/8/2025 của Chính phủ Quy

định các trường hợp khác được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định tại

khoản 2 Điều 157 Luật Đất đai năm 2024 thì người thuê đất bị

thiệt hại trên 40% giá trị tài sản được miễn toàn bộ tiền thuê đất

của năm xảy ra thiệt hại, góp phần giảm đáng kể áp lực tài chính, giúp doanh nghiệp sớm tái khởi động sản xuất.

Hỗ trợ kịp thời và sát thực tế Song song với chính sách tài chính, các cơ chế hỗ trợ trực tiếp cho người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp cũng được triển khai nhanh chóng, trong đó bao gồm cả lĩnh vực thủy sản. Cụ thể, căn cứ Hướng dẫn số 16/HD-MTTW-BVĐTW ngày 3/10/2025 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, việc hỗ trợ khắc phục thiệt hại sẽ được thực hiện theo Điều 5 Nghị định 9/2025/NĐ-CP. Trong đó, nuôi trồng thủy sản bán thâm canh, thâm canh trong ao, đầm được

ha diện tích nuôi bị thiệt hại; Nuôi thủy sản trong bể, lồng, bè: hỗ trợ 30 triệu đồng/100 m³ thể tích nuôi; Nuôi theo hình thức khác: hỗ trợ 15 triệu đồng/ ha diện tích nuôi bị thiệt hại.

Trường hợp hỗ trợ bằng giống cây, con hoặc hiện vật, mức hỗ trợ được quy đổi tương đương theo giá tại thời điểm hỗ trợ. Các địa phương được phép linh hoạt điều chỉnh phù hợp với mức độ thiệt hại thực tế.

Để các chính sách nhanh

chóng đến tay người dân, Cục Thuế đã yêu cầu các đơn vị địa phương thiết lập đầu mối hỗ trợ, hướng dẫn hồ sơ miễn, giảm, gia hạn thuế, đồng thời phối hợp với

chính quyền địa phương trong việc xác minh, khôi phục hồ sơ

bị mất hoặc hư hỏng do thiên tai.

Bên cạnh đó, cơ quan thuế được giao tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách thông qua cổng dịch vụ công,

đường dây nóng và các kênh truyền thông địa phương; đồng thời rút ngắn thời gian xử lý

hồ sơ hành chính, giúp doanh nghiệp và người dân sớm tiếp cận chính sách.

Các chuyên gia cho rằng, việc giảm áp lực tài chính chỉ là bước đầu; để phục hồi sản xuất bền vững, cần triển khai đồng bộ các giải pháp về tín dụng ưu đãi, khoanh nợ, giãn nợ, vay vốn mới lãi suất thấp, đặc biệt cho vùng trọng điểm nuôi tôm, cá tra, ngao, hàu.

Song song đó, cần đánh giá lại quy hoạch vùng nuôi, củng cố hạ tầng thủy lợi, đê kè, trạm bơm, hệ thống cảnh báo thiên tai để giảm thiểu rủi ro. Việc phát triển bảo hiểm nông nghiệp trong lĩnh vực thủy sản cũng được xem là hướng đi dài hạn, giúp người nuôi chủ động hơn khi đối mặt với biến động khí hậu.

Những giải pháp đồng bộ này không chỉ giúp người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn trước mắt, mà còn góp phần xây dựng nền sản xuất thủy sản an toàn, thích ứng và bền vững hơn trong tương lai.

BẢO HÂN

 Ngày 10/10/2025, Bộ

Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Công văn 7742/ BNNMT-CCPT về việc lập, bổ sung cơ sở chế biến xuất khẩu thủy sản vào các thị trường có yêu cầu. Theo đó, để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc nêu trên, trong thời gian chờ Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Thông tư sửa đổi Thông tư số 48/2013/ TTBNNPTNT theo trình tự rút gọn (dự kiến sớm hơn tiến độ theo kế hoạch phê duyệt trước ngày 10/12/20251), Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn hoạt động đăng ký, lập, bổ sung Danh sách xuất khẩu và kiểm tra an toàn thực phẩm các cơ sở trong Danh sách xuất

khẩu đối với các doanh nghiệp

chế biến thủy sản xuất khẩu vào các thị trường có yêu cầu

thuộc phạm vi điều chỉnh

của Thông tư 48/2013/TT-

BNNPTNT và các Thông tư sửa

đổi, bổ sung: Chủ động đăng

ký với Cục Chất lượng, Chế biến

và Phát triển thị trường/các

Chi cục trực thuộc theo địa bàn

phụ trách để được thẩm tra hồ

sơ đăng ký, thẩm định, đánh

giá bổ sung vào Danh sách cơ sở

được phép xuất khẩu; Đối với

Cơ sở đang có tên trong Danh

sách xuất khẩu thực hiện đăng

ký xuất khẩu đối với sản phẩm

mới thuộc nhóm sản phẩm đã

được chứng nhận sau khi hoàn

thành việc xây dựng, phê duyệt

và áp dụng Chương trình quản

lý chất lượng theo nguyên tắc

HACCP. Cơ quan cấp chứng thư

sẽ có trách nhiệm đánh giá việc

tuân thủ quy định về điều kiện

đảm bảo an toàn thực phẩm

trong sản xuất, chế biến sản

phẩm mới của cơ sở khi thực

hiện thẩm định, cấp Chứng thư

cho lô hàng xuất khẩu theo quy

định của Việt Nam và thị trường nhập khẩu, đồng thời cập nhật vào danh mục sản phẩm của cơ sở được công nhận để phục vụ quản lý.

VĂN BẢN MỚI

 Ngày 14/10/2025, UBND tỉnh Cà Mau ban hành Kế hoạch nhân rộng mô hình nuôi TTCT siêu thâm canh tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học (RAS-IMTA) quy mô 1.500 trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Mục tiêu cụ thể của Kế hoạch: Phấn đấu nhân rộng mô hình RAS-IMTA đạt 1.500 ha trong năm 2025 (Trong đó, Công ty TNHH De Heus chủ trì dự án liên kết 1.000 ha; Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú 500 ha); Áp dụng quy trình công nghệ nuôi TTCT siêu thâm canh tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học (RAS-IMTA), nâng cao năng suất, hiệu quả nuôi tôm. Năng suất đạt từ 22 - 25 tấn/ ha/vụ nuôi; Chi phi giá thành để sản xuất tôm giảm, bởi liên kết chuỗi doanh nghiệp vật tư, thiết bị, nguyên liệu đầu vào đảm bảo chất lượng với giá sỉ, hệ số chuyển đổi thức ăn < 1,2. Tỷ lệ lãi ròng so với tổng doanh thu ước tính là 0,53; Chất lượng nước thải sau xử lý phải đảm bảo theo yêu cầu của QCVN40:2011/ BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp; Giảm phát thải khí CO 2 < 5 kg CO2/kg tôm; Xây dựng vùng nuôi theo chuỗi liên kết, đạt chứng nhận quốc tế ASC, BAP,... chứng nhận tương đương.

 Ngày 24/10/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 347/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả thiên tai sau bão số 11, nhanh chóng ổn định tình hình đời sống nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát. Theo đó, để hỗ trợ khôi phục sản xuất, cung

ứng, lao động, phục hồi và thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, Thủ tướng chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các địa phương: Khẩn trương đánh giá thiệt hại đối với lúa và hoa màu; hướng dẫn người dân các biện pháp kỹ thuật để tiêu úng, chăm sóc, cứu diện tích còn có khả năng phục hồi; Đề xuất cấp có thẩm quyền quyết định hỗ trợ giống, thức ăn, hóa chất và các vật tư cần thiết cho các địa phương để khôi phục sản xuất nông nghiệp; Triển khai vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng trại, xử lý xác gia súc và gia cầm bị chết để ngăn chặn dịch bệnh bùng phát trên đàn vật nuôi. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng: khẩn trương khắc phục, phục hồi hoạt động tại các điểm giao dịch bị thiệt hại do bão, lũ; thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng như cơ cầu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, cho khách hàng bị thiệt hại theo quy định hiện hành; triển khai ngay các gói tín dụng đối với khách hàng tại các địa phương bị thiệt hại để phục hồi sản xuất, kinh doanh với lãi suất cho vay ưu đãi thấp hơn so với lãi suất cho vay thông thường; giảm lãi suất cho vay từ 0,5 - 2%/ năm trong 03 - 06 tháng đối với dư nợ hiện hữu của khách hàng bị thiệt hại bởi bão, lũ. Ngoài ra, Thủ tướng chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, ưu tiên khai thác và tận dụng tối đa các cơ hội từ các thị trường xuất khẩu trọng điểm, chiến lược và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký; thúc đẩy đàm phán, ký kết các FTA mới, mở rộng các thị trường mới. 

Trung Quốc vẫn duy trì vị trí

Trung Quốc đang trở thành điểm tựa tăng trưởng chính của ngành tôm Việt Nam trong năm 2025. Tuy nhiên, cạnh tranh tại thị trường này cũng đang trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Điểm tựa cho con tôm Việt

Số liệu của Hải quan Việt Nam cho thấy, tính đến 15/10/2025, xuất khẩu tôm Việt

Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt hơn

1 tỷ USD, tăng 66% so cùng kỳ năm trước.

Theo đánh giá của Hiệp hội Chế biến và

Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất

khẩu tôm sang thị trường Trung Quốc ghi

nhận tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong

tất cả các thị trường. Trung Quốc vẫn duy trì

vị trí số 1 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 28,2% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm

của nước ta đi các thị trường.

Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang Trung

Quốc cũng có sự khác biệt rõ rệt so với các

thị trường khác, trong đó tôm loại khác (trừ TTCT và tôm sú) chiếm ưu thế tuyệt đối với 633 triệu USD, tăng 139% và chiếm 65,6% tổng kim ngạch. Đáng chú ý, nhóm tôm sống, tươi, đông lạnh đạt tới 614 triệu USD, tăng 145%, phản ánh nhu cầu tiêu thụ mạnh mẽ của người tiêu dùng Trung Quốc đối với các sản phẩm cao cấp, đặc biệt là tôm hùm sống Việt Nam. TTCT đạt 247 triệu USD, tăng 3%, trong đó nhóm sản phẩm chế biến tăng vọt hơn 114%, cho thấy xu hướng tiêu dùng đa dạng và sự chuyển dịch sang các sản phẩm tiện lợi ở các đô thị lớn. Tôm sú đạt 86 triệu USD, tăng 7,7%, vẫn duy trì chỗ đứng ổn định tại

các thành phố ven biển như Quảng Châu, Thượng Hải, nơi người tiêu dùng đánh giá cao chất lượng thịt và màu sắc đẹp. Với cơ cấu sản phẩm đặc thù và tốc độ tăng trưởng mạnh, Trung Quốc đang trở thành điểm tựa tăng trưởng chính của ngành tôm Việt Nam năm nay, không chỉ nhờ lượng nhập khẩu lớn mà còn vì thị trường này đang mở rộng theo cả chiều lượng và chiều chất. Trong quý III/2025, Trung Quốc nhập 66.757 tấn tôm, tăng nhẹ 1% so cùng kỳ, nâng tổng lượng nhập 9 tháng lên 672.625 tấn, giảm nhẹ 1% so cùng kỳ, nhưng giá trị nhập khẩu tăng 8%, đạt 3,53 tỷ USD, phản ánh tỷ trọng sản phẩm cao cấp ngày càng

lớn. Các nhà cung cấp chính vẫn là Ecuador với 501.757 tấn, gần như không đổi, Ấn Độ phục hồi mạnh trong tháng 9, tăng 46%, trong khi Thái Lan tăng trưởng 20%, tập trung sản phẩm chế biến và giá trị gia tăng phục vụ phân khúc cao cấp.

Tuy nhiên, cạnh tranh tại thị trường này đang trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Ecuador và Ấn Độ đang bán mạnh tôm đông lạnh giá thấp cho các kênh nhà hàng bình dân, trong khi Thái Lan và Việt Nam tập trung vào phân khúc cao cấp, chế biến và tươi sống. Theo VASEP, tôm Việt có lợi thế địa lý gần gũi, giúp giao thương linh hoạt và phản ứng nhanh với nhu cầu ngắn hạn, đồng thời nổi bật về chất lượng, sự đa dạng và giá trị gia tăng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng khiêm tốn 3% của nhóm TTCT cho thấy, Việt Nam vẫn chịu sức ép lớn ở phân khúc giá rẻ.

Giữ vững lợi thế, đối diện thách thức

Để mở rộng thị phần, doanh nghiệp Việt cần chú trọng hơn vào xây dựng thương hiệu, cải thiện bao bì, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật cao của thị trường Trung Quốc.

Trung Quốc được coi là động lực tăng trưởng quan trọng của tôm Việt Nam năm 2025. Tuy nhiên, cơ hội lớn luôn đi kèm thách thức. Thị trường Trung Quốc thay đổi nhanh, chính sách nhập khẩu thường xuyên điều chỉnh và cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Để giữ vững đà tăng và phát triển bền vững, doanh nghiệp tôm Việt cần tái định vị chiến lược theo hướng chuyên nghiệp, bền vững và giá trị gia tăng cao hơn, từ đó khẳng định vị thế của tôm Việt trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.

Các chuyên gia dự báo, nhập khẩu tôm của Trung Quốc có thể tăng nhẹ trong quý IV, nhờ nhu cầu phục vụ mùa lễ hội và Tết Nguyên đán 2026. Bên cạnh đó, xu hướng tiêu thụ sản phẩm cao cấp như tôm sống, tôm hùm và tôm sú cỡ lớn sẽ tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng.

Thế nhưng, rủi ro từ chính sách kiểm soát biên mậu và thay đổi quy định hải quan vẫn là yếu tố cần lưu ý, bởi chỉ một thay đổi nhỏ về truy xuất nguồn gốc hoặc an toàn thực phẩm cũng có thể khiến dòng hàng bị gián đoạn.

Thị trường Trung Quốc rộng mở nhưng cũng khó đoán, đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải chuyên nghiệp, chuẩn hóa quy trình và theo sát các quy định mới để tận dụng tốt cơ hội.

Trong nguy có cơ

Tại một số thị trường trọng điểm khác, chính sách thuế đối ứng 20% của Mỹ bắt đầu áp dụng từ tháng 8, khiến nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh kế hoạch giao hàng và tìm hướng chuyển hướng thị trường.

Ngoài ra, các quy định nghiêm ngặt hơn về truy xuất nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển (MMPA), đang trở thành thách thức lớn nhất cho hoạt động xuất khẩu trong quý IV và năm 2026. Biến động tỷ giá, chi phí logistics tăng trở lại, và sự cạnh tranh từ các đối thủ như Ấn Độ, Ecuador, Indonesia đang tạo sức ép lớn lên lợi nhuận của doanh nghiệp Việt Nam.

Dù vậy, trong khó khăn vẫn tồn tại nhiều cơ hội chiến lược. EU đã có động thái nới

lỏng một số rào cản kỹ thuật với thủy sản Việt Nam, mở ra dư địa tăng trưởng mạnh cho tôm và cá tra. CPTPP mở rộng với sự gia nhập của Anh, giúp đa dạng hóa kênh thương mại và tạo thêm cơ hội cho sản phẩm chế biến cao cấp.

Dự báo quý IV, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ chững lại mạnh, đạt khoảng 2,19 tỷ USD (giảm hơn 22%) do tác động của thuế đối ứng 20% và nguy cơ áp thuế chống bán phá giá cao đối với tôm vào Mỹ.

Tôm và cá tra là hai mặt hàng chủ lực dự kiến giảm tốc, trong khi cá ngừ, mực, bạch tuộc sụt sâu do tác động của “thẻ vàng” IUU và lo ngại quy định MMPA có hiệu lực từ đầu 2026. Tuy nhiên, EU và Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu ổn định, là điểm tựa chính giúp kim ngạch cả năm 2025 ước đạt 10,5 tỷ USD (tăng khoảng 5%).

Không những thế, tình hình xuất khẩu quý I/2026 được dự báo tiếp tục giảm, do tác động dây chuyền từ thuế và MMPA. Từ quý II/2026 trở đi, tốc độ phục hồi sẽ phụ thuộc vào khả năng Việt Nam tháo gỡ các rào cản thuế, IUU, cùng với việc đa dạng hóa thị trường và nâng tỷ trọng hàng chế biến giá trị cao.

LÃNG UYỂN

 Trong 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 8,36 tỷ USD, tăng 16%. Kết quả này cho thấy ngành vẫn duy trì được đà tăng trưởng tích cực dù chịu nhiều sức ép. Sự sụt giảm nhẹ trong quý III phản ánh tác động rõ rệt của chính sách thuế đối ứng 20% của Mỹ bắt đầu áp dụng từ tháng 8, khiến nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh kế hoạch giao hàng và chuyển hướng thị trường

Tháng 10/2025, xuất khẩu tôm tăng trưởng mạnh

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu tôm Việt Nam trong tháng 10/2025 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so cùng kỳ năm trước. Đây là một trong những tháng có kim ngạch cao nhất từ đầu năm đến nay, phản ánh nhu cầu vẫn tốt tại các thị trường lớn và doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Tính từ đầu năm đến hết tháng 10, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22% so cùng kỳ năm trước. Kết quả này là minh chứng rõ nét rằng tôm Việt Nam vẫn giữ được vị thế cạnh tranh, tận dụng tốt nhu cầu phục hồi tại các thị trường lớn. Đây cũng là nền tảng quan trọng để ngành tôm bước vào mùa sản xuất cuối năm với tâm thế chủ động và kỳ vọng giữ vững đà tăng

trưởng ổn định. TTCT chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu sản phẩm 10 tháng đầu năm 2025, trong cơ cấu sản phẩm tôm xuất khẩu, TTCT tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất với 2,5 tỷ USD, tương

đương gần 65% tổng kim ngạch. Đây là nhóm sản phẩm có tốc độ

tăng trưởng cao nhất nhờ giá cạnh tranh, sản lượng lớn và phù hợp thị hiếu của hầu hết các thị trường lớn. Tôm sú đạt 385 triệu USD, chiếm gần 10% tổng kim ngạch. Xuất khẩu tôm sú giữ mức ổn định, chủ yếu nhờ nhu cầu bền vững tại Nhật Bản và phân khúc tôm sú size lớn, tôm sinh thái tại Trung Quốc. Nhóm tôm loại khác đạt 991 triệu USD, tăng mạnh so cùng kỳ. Kết quả này phản ánh xu hướng doanh nghiệp đẩy mạnh sản phẩm đông lạnh, chế biến sâu nhằm tối ưu công suất nhà máy và khai thác các phân khúc giá trị cao - nơi biên lợi nhuận tốt hơn và ít áp lực cạnh tranh về giá.

Trung Quốc

ưa chuộng các sản phẩm

tôm của

Việt Nam

Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tháng 10/2025, thị trường Trung Quốc tiếp tục duy trì nhu cầu mạnh đối với các sản phẩm tôm sống, tươi và đông lạnh của Việt Nam. Theo phản ánh từ nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng ưu tiên các sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng ổn định và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây cũng là những yếu tố mà tôm Việt Nam đang đáp ứng khá tốt, đặc biệt là các sản phẩm TTCT và tôm sú. Ngoài ra, lợi thế về vị trí địa lý gần, chi phí vận chuyển hợp lý và thời gian giao hàng nhanh giúp tôm Việt Nam giữ được độ tươi ngon khi xuất khẩu sang thị trường này. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc - Hồng Kông đạt 1,1 tỷ USD, tăng 64% so cùng kỳ và là mức tăng mạnh nhất trong số các thị trường.

Châu Á tiếp tục là điểm tựa của xuất khẩu tôm Việt Nam Từ đầu năm đến nay, châu Á là khu vực tạo lực đẩy tăng trưởng mạnh nhất cho xuất khẩu tôm Việt Nam. Trung QuốcHồng Kông tăng trên 60%, Đài Loan tăng mạnh trong tháng 10 và Hàn Quốc cũng duy trì mức tăng nhẹ. Điều này cho thấy nhu cầu trong khu vực có phần cải thiện nhờ kinh tế phục hồi dần, lợi thế gần địa lý của tôm Việt Nam, và đây cũng là chiến lược đa dạng hóa thị trường của doanh nghiệp trong bối cảnh thuế Mỹ. Trong khi đó, các thị trường như Mỹ, Nhật Bản và EU duy trì đà tăng trưởng ổn định, chủ yếu ở nhóm sản phẩm giá trị gia tăng và tôm chế biến.

Dự báo xuất khẩu tôm sẽ giảm tốc

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) dự báo, bước sang quý cuối năm, xuất khẩu tôm sẽ giảm tốc, chủ yếu do áp lực từ các loại thuế và biện pháp phòng vệ thương mại của Mỹthị trường lớn thứ hai của Việt Nam. Những yếu tố này đang tạo sức ép lên giá thành, khả năng cạnh tranh và tiến độ ký hợp đồng mới. Trong khi tại thị trường Trung Quốc, các chuyên gia dự báo nhập khẩu tôm nước này có thể tăng nhẹ trong quý IV nhờ nhu cầu phục vụ mùa lễ hội và Tết Nguyên đán 2026. Xu hướng tiêu thụ sản phẩm cao cấp như tôm sống, tôm hùm và tôm sú cỡ lớn sẽ tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng. VASEP khuyến nghị, doanh nghiệp tiếp tục tối ưu sản phẩm giá trị cao, giữ vững chất lượng và đa dạng hóa thị trường, tác động giảm tốc có thể được hạn chế, nhưng xu hướng chung là tăng trưởng quý IV sẽ chậm hơn hoặc giảm so các tháng giữa năm.

Giá tôm nguyên liệu ổn định, một số cỡ giảm nhẹ

Những ngày cuối tháng 10/2025, thị trường tôm nguyên liệu trong nước nhìn chung duy trì ổn định, song có sự điều chỉnh nhẹ ở một số cỡ tại các vùng nuôi trọng điểm. Tại Quảng Trị, giá các loại tôm hầu như không biến động. Tôm đất cỡ 40 - 50 con/kg đạt 400.000 đồng/kg, tôm bộp 45 - 50 con/kg ở mức 420.000 đồng/kg, và tôm sú 20 - 30 con/kg khoảng 430.000 đồng/kg. TTCT 30 - 40 con/kg giữ nguyên ở mức 240.000 đồng/kg. Tôm hùm 3 - 5 con/kg vẫn được thu mua cao, khoảng 1,25 triệu đồng/kg, nhờ nhu cầu ổn định ở phân khúc cao cấp. Tại Đắk Lắk, giá tôm sú giữ ổn định so cuối tháng 9, với cỡ 50 con/kg ở mức 220.000 đồng/kg, cỡ 40 con/kg 250.000 đồng/ kg, và cỡ 30 con/kg 300.000 đồng/kg. Trong khi đó, TTCT cỡ 100 con/ kg giảm khoảng 2.000 đồng/kg, còn 100.000 đồng/kg, do nguồn cung dồi dào hơn và nhu cầu xuất khẩu tạm chững.

ĐẮK LẮK

Giá tôm hùm vẫn giữ ở mức cao trước bão số 13

Ngày 5/11, tại khu vực ven biển phường Xuân Đài, tỉnh Đắk Lắk, không khí mua bán tôm hùm diễn ra tấp nập. Nhiều cơ sở thu mua còn đưa ra chính sách hỗ trợ phí vận chuyển, ứng trước tiền cho người dân trước khi bão số 13 đổ bộ vào đất liền. Theo người dân, hai ngày 4 - 5/11, lượng tôm hùm thu mua tại phường Xuân Đài tăng gấp đôi bình thường, có thời điểm lên đến 50 - 70 tấn/ngày. Càng vui hơn là dù thu hoạch sớm, nhưng giá tôm hùm vẫn giữ ở mức cao, dao động từ 780.000 - 820.000 nghìn đồng/kg, người nuôi phấn khởi xuất bán mà không chút hoang mang, lo lắng. Với tinh thần “xanh nhà hơn già đồng”, việc chủ động thu hoạch tôm chạy bão, lũ giúp người nuôi giảm thiệt hại, yên tâm phòng, chống trước những diễn biến khó lường của thời tiết.

CÀ MAU

Giá tôm nguyên liệu tăng nhẹ dịp cuối năm

Tại Cà Mau, trung tâm nuôi tôm lớn nhất cả nước, giá tôm nguyên liệu tương đối ổn định nhưng có sự phân hóa giữa các cỡ. Tôm sú 20 con/kg giữ ở mức 275.000 đồng/kg, trong khi cỡ 30 con/kg giảm 8.000 đồng, còn 152.000 đồng/kg. TTCT 20 con/kg duy trì ở 250.000 đồng/kg, ổn định so những ngày cuối tháng 9/2025. Theo nhận định từ các thương lái và chuyên gia, giá tôm nguyên liệu có thể tăng nhẹ trong tháng 11/2025 khi các doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua phục vụ đơn hàng xuất khẩu cuối năm, trong khi nguồn cung mới chưa nhiều.

ANH VŨ

ECUADOR

 Giá TTCT khó giảm trong thời gian tới

Giá TTCT Ecuador được dự báo khó có khả năng giảm trong ngắn hạn, thậm chí có xu hướng tăng. Trong tuần diễn ra Hội chợ Thủy sản Quốc tế tại Thanh Đảo (Trung Quốc), các nhà cung cấp Ecuador đã nâng giá bán thêm 0,2 USD/kg vào thị trường Trung Quốc. Dù nhiều khách mua kỳ vọng giá sẽ điều chỉnh, phần lớn cuối cùng vẫn phải chấp nhận đặt hàng do giá không hạ. Chi phí sản xuất tại Ecuador đã tăng sau khi Chính phủ xóa bỏ trợ cấp nhiên liệu, khiến giá thành đội thêm 1 - 3 cent/kg, tạo áp lực lên giá nguyên liệu. Trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu hạn chế, Trung Quốc giảm sản lượng, Mỹ và EU duy trì nhu cầu cao, Trung Mỹ không mở rộng nuôi, Ecuador trở thành nguồn cung ổn định nhất, qua đó giữ vai trò quyết định mặt bằng giá. Ba quý đầu năm 2025, Ecuador xuất khẩu 1,038 triệu tấn tôm, trị giá 5,51 tỷ USD, tiếp tục tăng trưởng mạnh ở các thị trường Trung Quốc, EU và Mỹ. Với sản lượng dự báo tăng 15% năm 2025, giới phân tích cho rằng giá tôm quốc tế sẽ còn

ở mức cao trong thời gian tới.

 Giá tôm tại Trung Quốc ổn

Giá bán buôn tôm Ecuador tại Trung Quốc được ghi nhận tương đối ổn định trong suốt mùa Hè, song thị trường đang tồn tại nhiều áp lực tiềm ẩn. Tại Ecuador, mùa Đông khiến sản lượng tôm giảm, buộc các nhà máy phải cạnh tranh thu mua, đẩy giá nguyên liệu tăng. Tuy nhiên, kỳ vọng nâng giá bán sang Trung Quốc để bù chi phí lại không đạt được do nhu cầu tiêu dùng tại Trung Quốc phục hồi chậm, đặc biệt trong bối cảnh sức mua vẫn yếu sau đại dịch. Thị trường còn chịu ảnh hưởng từ nguồn cung tôm nội địa Trung Quốc, vốn tăng nhanh nhờ các mô hình nuôi trong nhà kính. Tôm tươi sống nội địa thậm chí có thời điểm rẻ hơn tôm đông lạnh nhập khẩu, tạo ra sức ép cạnh tranh trực diện chưa từng thấy đối với hàng Ecuador. Dù nhu cầu tăng trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh khiến giá nội địa nhích lên, mức tăng này vẫn không tác động tích cực đến giá nhập khẩu. Trong khi giá bán tại Trung Quốc gần như đi ngang, chi phí sản xuất tại Ecuador tiếp tục leo thang, khiến biên lợi nhuận của nhà xuất khẩu bị thu hẹp đáng kể. Thị trường hiện trong trạng thái “giá tĩnh - áp lực động”, dự báo còn nhiều thách thức nếu cung - cầu không sớm được điều chỉnh.

NA UY

Thị phần tôm nước lạnh tại Trung Quốc vọt lên 27%

Thị trường tôm nước lạnh Trung Quốc ghi nhận biến động lớn trong năm 2025 khi sản phẩm Na Uy tăng trưởng đột biến, đưa thị phần từ 2% lên 27%, tương đương 6.200 tấn trong ba quý đầu năm. Mức tăng hơn 500% này diễn ra sau khi Trung Quốc áp thuế 25% đối với hải sản Canada, tạo khoảng trống lớn cho hàng Na Uy thâm nhập với mức giá cạnh tranh hơn. Cùng với đó, Hội đồng Thủy sản Na Uy (NSC) đẩy mạnh xúc tiến, tổ chức sự kiện quảng bá lớn tại Triển lãm Đại Liên, giúp các doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp hệ thống phân phối và khách hàng Trung Quốc. Đà tăng giá tôm nước lạnh được dự báo còn duy trì do nguồn cung ở biển Barents hạn chế, sản lượng khai thác thấp và một phần hạn ngạch chưa sử dụng hết vì chi phí biến động. Hiện, Canada vẫn là nhà cung cấp lớn nhất trong khi Na Uy nổi lên như đối thủ trực tiếp ở phân khúc cao cấp. Năm 2025, nhập khẩu tôm nước lạnh của Trung Quốc đang phục hồi sau giai đoạn giảm sâu, với xu hướng dịch chuyển nguồn cung rõ rệt sang Na Uy.

 Người nuôi tôm lao đao vì thuế Mỹ

Ngành tôm Ấn Độ đang rơi vào tình trạng kiệt quệ sau khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá lên tới 58,26%, khiến giá tôm tại trại giảm mạnh trong khi chi phí sản xuất tiếp tục leo thang. Giá TTCT xuất trại đã giảm từ 3,38 USD xuống còn 2,59 USD/kg, thấp hơn nhiều so chi phí nuôi khoảng 3,1 USD/kg, khiến phần lớn hộ nuôi thua lỗ nặng. Nhiều nông dân tại bang Tây Bengal cho biết họ buộc phải vay nợ để tiếp tục thả nuôi, dù rủi ro dịch bệnh cao. Tác động thuế quan còn lan sang hệ thống 550 trại giống, với một nửa phải đóng cửa do nông dân ngừng mua con giống khiến hàng tỷ con giống phải tiêu hủy vì không tiêu thụ được.

 Điều chỉnh mô hình thương mại tôm trước thuế quan Mỹ

Tháng 8/2025, xuất khẩu tôm của Ấn Độ đạt 56.712 tấn, giảm 9%; giá trị đạt 408 triệu USD, giảm 4% so cùng kỳ. Sự sụt giảm chủ yếu đến từ việc Mỹ cắt giảm đơn hàng, đặc biệt ở nhóm TTCT, giảm 15% còn 40.250 tấn. Tuy vậy, các cuộc đàm phán song phương đang tiến gần thỏa thuận giảm thuế xuống 15%, mở ra kỳ vọng giúp doanh nghiệp Ấn Độ cải thiện giá bán và phục hồi thị trường Mỹ. Trong khi đó, ngành tôm nước này đang dịch chuyển sang các dòng sản phẩm có giá trị tốt hơn: tôm sú tăng mạnh 76% trong tháng 8; phân khúc tôm giá trị gia tăng dù giảm nhẹ theo tháng nhưng vẫn tăng 27% tính từ đầu năm. Để bù đắp thị trường Mỹ, doanh nghiệp Ấn Độ đang đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, Trung Quốc và Canada.

ARGENTINA

Đóng sớm mùa tôm đỏ, giá quốc tế dự báo tăng

Mùa khai thác tôm đỏ Argentina 2025 đã kết thúc sớm vào ngày 10/10 sau quyết định đóng cửa toàn bộ vùng biển của Ủy ban Thủy sản Liên bang. Đây là mùa vụ ngắn nhất và sản lượng thấp nhất trong 10 năm, chỉ đạt 138.000 tấn, trong đó tôm đông lạnh trên tàu chỉ đạt 42.000 tấn, mức thấp nhất từ năm 2012. Việc chậm mở vụ gần hai tháng do tranh chấp lao động, cộng với suy giảm nguồn lợi tự nhiên, khiến sản lượng sụt mạnh. Giới phân tích nhận định việc kết thúc mùa sớm sẽ tác động rõ rệt đến giá tôm đỏ toàn cầu, do Argentina là một trong những nhà cung cấp tự nhiên lớn nhất. Nguồn cung thắt chặt dự kiến làm giá tăng và cạnh tranh gay gắt hơn tại thị trường châu Á trong những tháng tới.

INDONESIA

Xuất khẩu tôm phục hồi sau sự cố phóng xạ Cesium-137

Chỉ vài tháng sau biến cố Cesium-137, tôm Indonesia đã trở lại đường đua xuất khẩu, ghi nhận tăng trưởng khả quan và sự mở cửa tiếp tục từ các thị trường lớn như Mỹ và Trung Quốc. Theo Bộ Hàng hải và Thủy sản Indonesia, trong 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy, hải sản đạt 4,52 tỷ USD, tăng khoảng 7% so cùng kỳ. Trong đó, tôm vẫn là mặt hàng chủ lực với kim ngạch 1,4 tỷ USD, chiếm 30% tổng xuất khẩu. Năm thị trường xuất khẩu chính gồm Mỹ (1,5 tỷ USD), Trung Quốc (812,8 triệu USD), ASEAN (712 triệu USD), Nhật Bản (448,3 triệu USD) và EU (331,3 triệu USD). Đặc biệt, trong tuần cuối tháng 10, Indonesia chính thức nối lại xuất khẩu tôm sang Mỹ với trị giá 20,4 tỷ rupiah (1,2 triệu USD), đánh dấu việc khôi phục niềm tin quốc tế vào an toàn và chất lượng sản phẩm.

ĐỘ

Ngành tôm giữ “mạch sống” giữa bão thuế Mỹ

Với hơn một phần ba kim ngạch phụ thuộc vào thị trường Mỹ, đòn thuế như “cơn sóng dữ” đánh vào chuỗi cung ứng, đe dọa hàng triệu việc làm và buộc ngành tôm Ấn Độ phải tái định hướng.

Tôm nuôi chiếm tới

Cú sốc từ Nhà Trắng

Ngành xuất khẩu thủy sản Ấn Độ đang trải qua giai đoạn khắc nghiệt kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump bất ngờ áp mức thuế 25% với hàng hóa Ấn Độ vào đầu tháng 8, viện dẫn lý do mất cân bằng thương mại và chống bán phá giá. Cú đánh thứ hai giáng xuống chỉ ba tuần sau, khi Washington bổ sung thêm 25% thuế phạt vì New Delhi mua năng lượng từ Nga, nâng tổng mức thuế lên tới 50%.

Mỹ hiện là thị trường lớn nhất của thủy sản Ấn Độ, chiếm gần một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhưng với thuế nhập khẩu mới, tổng gánh nặng thuế mà thủy sản Ấn Độ phải chịu khi vào Mỹ đã tăng lên gần 60%, bao gồm cả thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng. Từ mức thuế tổng cộng khoảng 10% lên tới gần 60% chỉ trong một tháng, điều này khiến xuất khẩu sang Mỹ gần như không thể khả thi.

Hệ quả đã sớm xuất hiện: các lô hàng bị chậm, chuỗi cung ứng tắc nghẽn, chi phí tăng cao. Ông Alex K. Ninan, Phó Chủ tịch

Hiệp hội Xuất khẩu Thủy sản Ấn Độ (SEAI), cho biết: “Chúng tôi vẫn đang đánh giá thiệt

hại, nhưng hàng chục nghìn tỷ rupee giá trị thương mại đã bị chặn lại, ảnh hưởng tới hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp”.

Theo chuyên gia Ian Goulding, Chủ tịch Hiệp hội Thanh tra thủy sản quốc tế (IAFI), khoảng một phần ba xuất khẩu của Ấn Độ đi Mỹ, 10 - 12% sang EU và gần 20% sang Trung Quốc. Việc tái cân bằng thị trường là cần thiết nhưng đòi hỏi thời gian và đầu tư đáng kể.

Chật vật mở đường mới

Theo SEAI, xuất khẩu thủy sản của Ấn

Độ trong tháng 9/2025 giảm 30 - 35% so cùng kỳ năm trước, khiến nhiều nhà máy ở Andhra Pradesh phải tạm ngừng hoạt động. Ông Pushan Sharma, Giám đốc Crisil Intelligence, cho biết: “Nhu cầu từ các đại lý chuyên xuất sang Mỹ gần như biến mất. Một số chỉ gom lô nhỏ, còn các nhà nhập khẩu lớn đang chuyển hướng sang nguồn cung khác”. Trước làn sóng suy giảm này, Chính phủ Ấn Độ khẩn trương thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa thị trường. Bộ trưởng Thủy sản Rajiv Ranjan Singh Lalan khẳng định EU và Nga là hai hướng đi tiềm năng, song các

chuyên gia cảnh báo rằng việc mở thị trường mới không thể diễn ra trong một sớm một chiều. Ngay cả trong điều kiện thuận lợi, quá trình này cũng cần 6 - 12 tháng.

Ngoài ra, các quy định kiểm dịch và tiêu chuẩn vi sinh giữa các quốc gia có sự khác biệt lớn, gây khó cho nhà xuất khẩu. Vấn đề lớn nhất vẫn nằm ở cơ cấu sản phẩm. Tôm nuôi chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Ấn Độ, trong đó Mỹ từng nhập tới 40%. Mỗi năm, Ấn Độ xuất khoảng 400.000 tấn tôm sang Mỹ, trong khi toàn bộ các thị trường khác cộng lại chỉ tiêu thụ khoảng 100.000 tấn. Điều đó đồng nghĩa, nếu Mỹ đóng cửa, Ấn Độ phải tìm đầu ra cho 300.000 tấn tôm dư thừa.

Một số hiệp định thương mại tự do (FTA) đang được đàm phán với EU và các đối tác khác, nhưng như Divya Kumar Gulati, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất Thức ăn chăn nuôi Ấn Độ (CLFMA), nhận xét: “Lợi ích từ FTA chỉ phát huy dần theo thời gian, không thể cứu vãn tình hình trước mắt”.

Nhiều doanh nghiệp cũng thừa nhận việc tìm khách hàng mới là rất khó. “Tất cả đều đang ráo riết săn khách, trong khi giá bán giảm, khiến nông dân nuôi tôm bị ép giá nặng nề”, ông Yogesh Gupta, Giám đốc Megaa Moda (Kolkata) chia sẻ. Các thị trường Nhật, Nga, Anh hay UAE có quy mô nhỏ và yêu cầu cao, nên chưa thể thay thế Mỹ.

Trong bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng chiến lược đa dạng hóa cần đi cùng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm và nguồn thu. Ông Aditya Dash, Giám đốc điều hành Ram’s Assorted Cold Storage, gợi ý: “Người nuôi có thể thử các loài mới, còn nhà máy nên chế biến thêm nhiều mặt hàng khác, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào tôm”.

Đa dạng hóa và tái định vị Giữa vòng xoáy thuế quan và đơn hàng sụt giảm, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm

Shutterstock

Ấn Độ còn đối mặt khủng hoảng vốn lưu

động nghiêm trọng. Hàng tồn kho lớn, chi phí điện lạnh 24/7, lãi vay tăng, trong khi

ngân hàng siết tín dụng khiến nhiều công

ty rơi vào thế bế tắc. Sau khi thuế 50% có hiệu lực, các ngân hàng công bắt đầu rà soát danh mục tín dụng trong các ngành chịu ảnh hưởng nặng, trong đó có chế biến thủy sản.

Các doanh nghiệp vì thế kêu gọi chính phủ cấp thêm vốn lưu động, cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất và giãn nợ tương tự gói cứu trợ thời COVID-19.

Khi dòng tiền cạn kiệt, các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm sản xuất. Nhưng giảm sản xuất đồng nghĩa sa thải công nhân, điều họ

không muốn sau nhiều năm đầu tư đào tạo.

Ngư dân cũng chịu tác động dây chuyền: giá

tôm giảm, chi phí đi biển cao khiến nhiều

người không còn mặn mà ra khơi.

Dù vậy, Ấn Độ vẫn nỗ lực duy trì xuất

khẩu sang khoảng 130 thị trường toàn cầu.

Một quan chức Bộ Thủy sản cho biết, ngoài

việc tìm thị trường mới, chính phủ cũng

đang khai thác thị trường Trung Quốc và châu Âu. Song ông thừa nhận, “đạt được thị phần đáng kể ở EU sẽ cần thêm thời gian vì

yêu cầu tiêu chuẩn và truy xuất nguồn gốc rất khắt khe”.

Theo ông Goulding, hai cỡ tôm thương mại phổ biến nhất, 31/40 và 41/50, phần lớn đến từ Ấn Độ. Khi nguồn này suy giảm, người tiêu dùng Mỹ sẽ chịu thiệt đầu tiên. Ông gợi ý Ấn Độ có thể tận dụng các trung tâm chế biến tại Thái Lan hoặc UAE để tái xuất sang thị trường khác, một giải pháp tạm thời giúp duy trì dòng hàng.

Hiện Chính phủ Ấn Độ cũng đang đẩy nhanh chứng nhận bền vững quốc tế cho 10 nghề cá chủ lực, nhằm nâng giá trị xuất khẩu và mở rộng sang thị trường cao cấp. Tuy nhiên, ông Ninan thẳng thắn: “Quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và Mỹ được xây dựng suốt nhiều năm, với hệ thống kiểm tra, đánh giá và chứng nhận xã hội nghiêm ngặt. Không thể thay thế chỉ sau một đêm”. Các chuỗi bán lẻ lớn như Walmart hay Costco vẫn phải tiếp tục mua hàng từ Ấn Độ do ràng

buộc hợp đồng, nhưng giá giảm mạnh và tốc

độ giao hàng chậm.

Ông Gulati kết luận: “Những lô hàng hiện nay chỉ là giải pháp tình thế trước mùa

lễ hội. Câu hỏi thực sự là: các doanh nghiệp sẽ thích nghi và chuyển hướng nhanh đến

đâu trước khi cơn bão thuế này cuốn trôi toàn bộ sinh kế của họ”.

TUẤN MINH

(Theo Seafoodnews/ Intrafish)

5 bí quyết quản lý ao và thức ăn hiệu

quả hơn

Giảm mật độ, hạn chế stress, kiểm soát thức ăn và protein hợp lý là những chìa khóa giúp người nuôi tôm duy trì năng suất ổn định, tránh dịch bệnh và tối ưu chi phí.

Yếu tố quyết định sự thành bại của vụ nuôi tôm tại châu Á không nằm ở mầm bệnh, mà ở cách quản lý ao và chiến lược cho ăn. Ba, bốn năm trước, hầu như chẳng ai nói đến “stress” trong ao tôm. Giờ thì ai cũng hiểu: khi tôm bị stress, bệnh chắc chắn sẽ đến.

1. Stress - kẻ thù thầm lặng

trong ao tôm

Phần lớn nguyên nhân gây stress cho tôm lại xuất phát từ chính người nuôi, như thả mật độ quá cao, cho ăn quá mức hay sục khí không đủ. Trong cùng điều kiện, bạn sẽ thấy có những người nuôi hầu như không gặp vấn đề, trong khi người khác lại liên tục thất bại. Khác biệt nằm ở cách quản lý.

Giảm cường độ cho ăn, duy trì chất lượng nước ổn định và kiểm soát hàm lượng Vibrio trong ao là những cách đơn giản nhưng hiệu quả để giảm stress và phòng bệnh.

2. Chọn thức ăn phù hợp với giống tôm mới

Nhờ cải thiện di truyền, con tôm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, nhưng cũng dễ bị ăn quá mức nếu không kiểm soát. Những dòng tôm mới này rất háu ăn. Nếu bạn cho ăn tự do, lượng thức ăn sẽ vượt xa nhu cầu thật. Thức ăn dư thừa và protein không tiêu hóa hết sẽ phân hủy thành độc tố, đặc biệt là các hợp chất nitơ khiến môi trường ao trở nên độc hại. Nhiều trang trại đã học cách giới hạn lượng thức ăn mỗi ngày, dù tôm có vẻ đói. Kết quả là hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) giảm, tôm khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh hơn và chi phí thức ăn thấp hơn.

3. Giảm protein - tăng hiệu quả Nhiều nước châu Á vẫn đang dùng thức ăn có hàm lượng protein quá cao, trên 40%, do thói quen cũ và tác động từ các công ty thức ăn. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng 0,3 g/ngày, chỉ cần 28 - 30% protein; 0,4 g/ ngày thì 35% là đủ; còn mức 40 - 50% chỉ thích hợp trong điều kiện kiểm soát cực kỳ tốt, điều hiếm thấy ở trang trại thương mại.

Thêm protein không làm tôm lớn nhanh hơn, thậm chí có thể khiến chúng chậm và chết nhiều hơn.

Sau thời gian dài chạy theo năng suất “khủng” 200 - 300 con/m², nhiều người nuôi đang quay về mật độ hợp lý hơn đó là dưới 110 con/m², thậm chí 80 - 90 con/m². Đây là tín hiệu tích cực: Thay vì cố đạt 50 - 100 tấn/ha, hãy nhắm đến 25 - 30 tấn, vừa đủ lớn, lại ổn định hơn nhiều. Tính nhất quán qua nhiều vụ nuôi quan trọng hơn những vụ “trúng đậm” xen kẽ với thất bại nặng nề.

5. Sống chung thông minh với Vibrio

Vibrio hiện là mối đe dọa lớn nhất với tôm nuôi, không chỉ vì gây bệnh riêng mà còn làm trầm trọng thêm các bệnh khác như EHP hay đốm trắng. EHP không đáng sợ nếu không có Vibrio. Nhưng khi chúng kết hợp, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Giải pháp không phải là kháng sinh mà là kiểm soát nguồn dinh dưỡng trong ao bởi Vibrio chỉ phát triển khi có thức ăn từ lượng đạm và chất hữu cơ dư thừa.

Bí quyết thành công của người nuôi tôm không nằm ở công nghệ hay quy mô, mà ở cách quản lý thông minh và kỷ luật. Giảm stress cho tôm bằng mật độ thả hợp lý, đảm bảo đủ sục khí, kiểm soát chặt khẩu phần ăn và hàm lượng protein theo đúng nhu cầu tăng trưởng, đồng thời quản lý tốt môi trường để hạn chế Vibrio thay vì phụ thuộc vào kháng sinh chính là nền tảng của một vụ nuôi bền vững. Quan trọng hơn, người nuôi cần hướng tới sự ổn định và hiệu quả lâu dài thay vì những vụ “được - mất” thất thường. Một ao tôm khỏe mạnh không đến từ công nghệ phức tạp, mà từ sự hiểu biết và kỷ luật trong từng thao tác nuôi.

ROBINS MCINTOSH Phó chủ tịch Charoen Pokphand Foods (CPF)

SINH HỌC TỰ NHIÊN

Vi chất cho tôm khỏe

Với TTCT, việc bổ sung hợp chất sinh học đang trở thành hướng tiếp cận mới trong dinh dưỡng, giúp tăng hiệu quả nuôi và giảm phụ thuộc vào kháng sinh.

Chiết xuất từ cây ô liu chứa nhiều hợp chất thực vật hoạt tính như polyphenol và triterpen Ảnh: Original

Nền tảng dinh dưỡng bền vững

Trong nuôi tôm, các hợp chất sinh học từ tảo, chất kích thích miễn dịch và lipid thiết yếu được bổ sung để tăng miễn dịch và tốc độ tăng trưởng trong điều kiện nuôi thâm canh.

Khi nghiên cứu ngày càng làm rõ vai trò và liều lượng tối ưu của các hợp chất này, vi chất chức năng sẽ trở thành nền tảng không thể thiếu cho dinh dưỡng thủy sản định hướng sức khỏe và bền vững.

Chi phí thức ăn chiếm phần lớn tổng đầu tư sản xuất, vì vậy tính khả thi kinh tế của việc bổ sung vi chất đang được quan tâm sâu sắc. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc bổ sung hợp chất sinh học như tảo vi mô, nấm men hay probiotic có thể cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) và giảm tác động môi trường, mang lại cả lợi ích tài chính lẫn sinh thái.

tích cực (Peng et al., 2024). Ở cá măng, các nguồn vi chất bản địa như khoai môn và thân chuối cho tỷ suất lợi ích - chi phí 1,37 và biên lợi nhuận gộp 42%, mở ra tiềm năng giảm phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp đắt đỏ (Macusi et al., 2025).

Ở cá rô phi và cá chẽm, các phụ gia chức năng giúp cải thiện sức khỏe đường ruột, khả năng hấp thu dưỡng chất và sự ổn định ở trại giống. Tổng hợp nhiều nghiên cứu cho thấy, các phụ gia mới như chiết xuất thực vật và rong biển đều có tác động tích cực đến tăng trưởng và tỷ lệ sống, củng cố tính khả thi kinh tế của việc ứng dụng. Tuy vậy, sự khác biệt về hiệu suất giữa các dòng sản phẩm thương mại cho cá chẽm non vẫn đòi hỏi tối ưu hóa công thức để đảm bảo hiệu quả chi phí.

Các hợp chất sinh học chính

tính hiệp đồng trong dinh dưỡng và sức khỏe tôm.

Tảo nâu Macrocystis integrifolia giàu polysaccharide cấu trúc như alginate, fucoidan và laminarin. Đặc biệt, tỷ lệ fucoidan/alginate của loài này thể hiện sự ưu thế của alginate, một polysaccharide có khả năng kích thích miễn dịch mạnh, thúc đẩy biểu hiện gen liên quan đến miễn dịch và tăng đáp ứng tự nhiên chống lại bệnh đốm trắng (Yudiati et al., 2019). Laminarin, một β -glucan polysaccharide có liên kết β -1,3 và β -1,6 đã được chứng minh có khả năng kích thích miễn dịch ở nhiều loài thủy sản (Kitikiew et al., 2013; Salehpour et al., 2021).

Ví dụ, bổ sung Schizochytrium sp. trong khẩu phần cá rô phi không chỉ duy trì tăng trưởng và tỷ lệ sống mà còn cải thiện đáp ứng miễn dịch, cho thấy hiệu quả chi phí

Nấm men Saccharomycescerevisiae là nguồn nucleotide tự nhiên được nghiên cứu rộng rãi về tác dụng tích cực trong dinh dưỡng và miễn dịch của tôm (Novriadi et al., 2021; Segarra et al., 2023). Trong điều kiện stress hay bệnh lý, khi quá trình tổng hợp nucleotide nội sinh bị hạn chế, việc bổ sung ngoại sinh giúp tối ưu hóa tái tạo mô và chức năng miễn dịch, đặc biệt ở đường ruột. Chiết xuất ô liu (Olea europaea) chứa nhiều hợp chất thực vật hoạt tính như polyphenol và triterpen. Polyphenol có cấu trúc vòng thơm, thể hiện khả năng chống viêm mạnh, giúp vật nuôi hạn chế tổn thương do stress môi trường, nhiệt độ cao hoặc mầm bệnh (Gisbert et al., 2017). Triterpenes lại có tác dụng chống ôxy hóa, kháng khuẩn và hỗ trợ chuyển hóa lipid, giúp cải thiện tích lũy năng lượng trong mô cơ, duy trì tính toàn vẹn của biểu mô ruột. Fucoidan - polysaccharide sunfat hóa đặc trưng của tảo nâu thể hiện hoạt tính kháng viêm, kháng virus và kháng khuẩn mạnh. Trong nuôi tôm, fucoidan được xem là chất kích thích miễn dịch hiệu quả, thúc đẩy hoạt hóa hệ prophenoloxidase, tăng thực bào và khả năng sinh superoxide anion, qua đó cải thiện năng lực miễn dịch tự nhiên. β-glucan là hợp chất polymer carbohydrate được biết đến như lá chắn HỢP CHẤT

Ba nhóm hợp chất sinh học có nguồn gốc tự nhiên: tảo nâu Macrocystis integrifolia, nấm men Saccharomyces cerevisiae và chiết xuất từ cây ô liu (Olea europaea), được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp nhằm khảo sát

miễn dịch tự nhiên. Chúng liên kết với các

thụ thể β-glucan trên bề mặt tế bào máu

của tôm, kích hoạt phản ứng phóng hạt và sản sinh enzyme phenoloxidase, một cơ chế then chốt trong việc loại trừ mầm bệnh.

Hiệu quả trên TTCT

Để xác định khả năng hiệp đồng của ba nguồn hợp chất sinh học, nhóm R&D của Bioiberica đã tiến hành thử nghiệm tại

Trung tâm ShrimpVet (Việt Nam) trên TTCT.

Mục tiêu là đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung kết hợp bột tảo nâu Macrocystis integrifolia, nucleotide từ S. cerevisiae và chiết xuất ô liu giàu polyphenol-triterpen đến tăng trưởng, sức khỏe và khả năng đề kháng bệnh gan tụy hoại tử cấp (AHPND) do Vibrio parahaemolyticus gây ra.

Trong thử nghiệm tăng trưởng kéo dài

56 ngày với 1.250 con tôm (0,57 ± 0,11 g), các nghiệm thức được chia thành 5 nhóm (5 lần lặp/nhóm, 50 con/bể). Kết quả cho thấy, tất cả các nhóm được bổ sung vi chất

đều đạt trọng lượng cuối, sinh khối và tốc

độ tăng trưởng (SGR) cao hơn đáng kể (p < 0,05) so với đối chứng. Đáng chú ý, nhóm

bổ sung kết hợp nucleotide + tảo nâu + chiết xuất ô liu (NFAO) có hệ số FCR thấp nhất và hiệu quả tăng trưởng cao nhất.

Thử nghiệm gây bệnh được thực hiện trên 600 con tôm trong 28 ngày, sau đó theo dõi sống sót thêm 10 ngày. Nhóm

đối chứng bị nhiễm (CP) chỉ đạt tỷ lệ sống 30,63 ± 4,7%, trong khi nhóm được bổ sung nucleotide 500 ppm, bột tảo nâu hoặc chiết xuất ô liu riêng lẻ có tỷ lệ sống cao hơn (40 - 41%). Đặc biệt, hai nhóm bổ sung kết hợp nucleotide + ô liu và nucleotide + tảo nâu

đạt tỷ lệ sống lần lượt 55,8% và 59,6% - cao hơn so với nhóm CP. Kết quả nghiên cứu đã được đăng ký bằng sáng chế, mở ra hướng nghiên cứu mới về ứng dụng các hợp chất sinh học trong dinh dưỡng thủy sản. Bổ sung vi chất có nguồn gốc tự nhiên, đặc biệt là các hợp chất sinh học từ Saccharomyces cerevisiae, Macrocystis integrifolia và Olea europaea cho thấy tiềm năng rõ rệt về cải thiện tăng trưởng, sức đề kháng và tỷ lệ sống của tôm khi thử thách với Vibrio parahaemolyticus. Khi được phối hợp ở tỷ lệ tối ưu, các vi chất này không chỉ giúp tăng hiệu quả sản xuất mà còn củng cố nền tảng sức khỏe tự nhiên, góp phần xây dựng chiến lược dinh dưỡng bền vững, giảm phụ thuộc vào kháng sinh và hướng đến mô hình nuôi tôm tuần hoàn, thân thiện môi trường.

VŨ ĐỨC

(Theo Aquafeed)

Chất kết dính mới từ vỏ

đậu nành cho thức ăn tôm

Tận dụng phụ phẩm từ chế biến đậu nành, các nhà khoa học đã phát triển thành công chất kết dính viên thức ăn mới giúp tăng độ bền, giảm thất thoát dinh dưỡng, cải thiện môi trường ao nuôi và tiết kiệm chi phí.

Phụ phẩm giá trị

Do tập tính ăn chậm và ngắt quãng, tôm thường khiến viên thức ăn ngâm lâu trong nước, dễ vỡ vụn và mất dinh dưỡng. Vì vậy, việc bổ sung chất kết dính là yếu tố then chốt để

đảm bảo viên thức ăn giữ được hình dạng, giảm thất thoát và duy trì môi trường nước ổn định.

Thức ăn sử dụng chất kết dính từ vỏ

Nhóm nghiên cứu do Aksoy và cộng sự (2022) dẫn đầu đã phát triển một loại chất kết dính viên thức ăn chi phí thấp, thân thiện môi trường từ vỏ đậu nành, phụ phẩm của quá trình ép dầu và sản xuất khô đậu.

Quy trình sản xuất khá đơn giản, gồm các bước: nghiền nhỏ, xử lý nhiệt, hóa và tinh chế cơ học. Vỏ đậu nành chứa cellulose, hemicellulose, pectin, protein, lignin và khoáng chất, trong đó pectin ít methoxyl có khả năng tạo gel trong môi trường pH 2 - 6 nhờ cầu nối ion canxi giữa các chuỗi pectin. Khi được xử lý nhiệt - hóa, cấu trúc phân tử thay đổi, giúp tăng khả năng liên kết giữa các hạt thức ăn và hình thành đặc tính kết dính mạnh mẽ.

Chất kết dính vượt trội

Chất kết dính chiết xuất từ vỏ đậu nành thể hiện năm ưu điểm nổi bật: tăng độ bền cơ học và ổn định trong nước; giữ dinh dưỡng và nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn; giảm ô nhiễm môi trường; mang lại tác dụng sinh học có lợi; và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Kết quả thử nghiệm cho thấy viên sử dụng chất kết dính từ vỏ đậu nành bền hơn hẳn các loại truyền thống như carboxymethyl cellulose (CMC), tinh bột bắp hay gluten lúa mì. Sau ba giờ ngâm nước ở 30°C, viên có vỏ đậu nành vẫn giữ được 55,8% khối lượng, trong khi viên dùng CMC bị tan hoàn toàn.

Khả năng giữ nước vượt trội giúp giảm rửa trôi dinh dưỡng, đảm bảo protein và khoáng đến được tôm thay vì thất thoát ra môi trường. Ở 30°C, sau 12 giờ ngâm, viên có chất kết dính từ vỏ đậu nành chỉ mất 25,9% protein, thấp hơn rất nhiều so với CMC (100%) và tinh bột bắp (59,9%). Nhờ vậy, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) được cải thiện đáng kể.

Vỏ đậu nành là nguồn nguyên liệu sẵn có, giá rẻ và hiện còn ít được khai thác. Chi phí sản xuất chất kết dính này dưới 400 USD/tấn, trong đó nguyên liệu chỉ chiếm khoảng 150 USD/tấn, thấp hơn nhiều so với gluten, gelatin, alginate hay CMC. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể giảm giá thành thức ăn mà vẫn đảm bảo hiệu quả và tính bền vững.

Chất kết dính từ vỏ đậu nành là một giải pháp đơn giản, thân thiện môi trường và khả thi cho sản xuất công nghiệp. Không chỉ giúp tăng độ bền viên, giữ dinh dưỡng và giảm ô nhiễm ao nuôi, sản phẩm còn mang lại lợi ích sinh học tự nhiên cho tôm nhờ các hợp chất hoạt tính có trong vỏ đậu. Với ưu thế về kỹ thuật, kinh tế và môi trường, đây được xem là thành phần chức năng tiềm năng trong thức ăn tôm thế hệ mới, góp phần thúc đẩy nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững.

MI LAN (Theo Aquafeed)

Quy trình nuôi tôm hạn chế chất

thải

Ao nuôi tôm thường phát sinh nhiều chất thải như thức ăn thừa, phân tôm và bùn đáy, ảnh hưởng đến môi trường. Tối ưu quy trình nuôi là giải pháp cần thiết để giảm ô nhiễm và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Nguyên nhân sinh ra chất thải

Trong ao nuôi tôm, chất thải phát sinh chủ yếu từ ba nguồn:

Thức ăn thừa: Cho tôm ăn quá nhiều sẽ khiến dư thừa thức ăn. Lượng thức ăn thừa không được xử lý hoặc phân hủy sẽ tạo ra chất hữu cơ hòa tan, làm tăng nhu cầu ôxy sinh hóa (BOD) trong nước, gây ô nhiễm và làm suy giảm chất lượng môi trường nước.

Phân và bài tiết của tôm: Có chứa nitơ, phospho và các hợp chất hữu cơ. Khi tích tụ trong ao nuôi, các chất này làm tăng hàm

lượng dinh dưỡng, thúc đẩy sự phát triển quá mức của tảo và vi khuẩn, dẫn đến hiện tượng phú dưỡng. Hiện tượng phú dưỡng gây ra sự suy giảm ôxy hòa tan, tích tụ chất độc hại như ammonia, nitrite, làm tôm bị stress, dễ mắc bệnh và có thể chết hàng loạt.

Tích tụ tảo chết và bùn đáy: Làm ô nhiễm nghiêm trọng trong hệ thống nuôi thâm canh, tạo điều kiện cho khí độc như NH3 và H2S sinh ra, gây hại cho sức khỏe tôm.

Chuẩn bị ao nuôi

Cải tạo đáy ao: Loại bỏ bùn cũ, cày xới và phơi đáy từ 7 - 10 ngày để phân hủy chất hữu cơ tồn dư. Có thể bón vôi CaO (10 - 15 kg/100 m²) để diệt khuẩn và ổn định pH. Lót bạt đáy (đối với mô hình công nghệ cao): Giúp giảm tích tụ bùn, dễ dàng hút chất thải ra khỏi ao. Xây dựng hệ thống xử lý nước: Bố trí ao lắng, ao lọc, ao chứa nước thải riêng biệt. Việc xử lý nước bằng Chlorine, Zeolite hoặc

chế phẩm sinh học giúp nước đầu vào đạt chất lượng tốt, giảm nguy cơ ô nhiễm ngay từ đầu vụ.

Quản lý cho ăn

Thức ăn là yếu tố chiếm đến 60 - 70% chi phí nuôi và là nguồn phát sinh chất thải lớn nhất.

Do đó, người nuôi cần lựa chọn thức ăn chất lượng cao. Có kích cỡ và hàm lượng đạm

phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tôm để đảm bảo tôm tiêu hóa tốt, phát triển khỏe mạnh và nâng cao năng suất. Việc này cũng giúp tránh dư thừa dinh dưỡng trong ao, giảm chi phí và bảo vệ môi trường nước. Thực hiện cho ăn theo nguyên tắc “4 định”: định chất (loại thức ăn), định lượng (lượng thức ăn sử dụng hàng ngày), định thời gian (số lần cho ăn), định địa điểm (phương pháp cho ăn). Sử dụng sàng ăn hoặc máy cho ăn tự động giúp kiểm soát lượng thức ăn chính xác, tránh dư thừa.

Bổ sung men tiêu hóa và enzyme giúp tôm hấp thu dinh dưỡng tốt hơn, giảm lượng thải ra môi trường.

Thường xuyên theo dõi hành vi tôm ăn, quan sát sàng ăn, điều chỉnh lượng thức ăn theo tình trạng sức khỏe, thời tiết và chất lượng nước.

Quản lý chất lượng nước

Một quy trình nuôi tối ưu phải đảm bảo môi trường nước ổn định, tạo điều kiện cho hệ vi sinh vật có lợi phát triển, giúp phân hủy chất thải hiệu quả.

 Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu sản xuất xanh ngày càng cao, những mô hình nuôi tôm ít chất thải, thân thiện môi trường sẽ là xu hướng tất yếu của tương lai.

Trong quá trình nuôi, cần duy trì cân bằng tảo - vi sinh, tránh hiện tượng tảo tàn gây tăng đột biến chất hữu cơ. Sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ (Bacillus, Lactobacillus) giúp phân giải bùn và làm sạch đáy ao.

Thường xuyên theo dõi các chỉ tiêu môi trường: DO (hàm lượng ôxy hòa tan), pH, độ kiềm, NH₃, NO₂ được kiểm tra hàng ngày để kịp thời xử lý.

Sục khí hợp lý giúp tăng cường trao đổi ôxy, hạn chế sự tích tụ bùn và vùng yếm khí. Điều này quan trọng để cải thiện chất lượng nước bằng cách hỗ trợ vi sinh vật hiếu khí có lợi phát triển, phân hủy các chất ô nhiễm và ngăn mùi hôi.

Chỉ thay nước khi cần thiết, tránh gây sốc cho tôm và hạn chế thải ra môi trường ngoài.

Công nghệ nuôi

Để đạt hiệu quả tối ưu, nhiều trang trại đã ứng dụng công nghệ cao trong kiểm soát môi trường và quản lý chất thải:

Công nghệ Biofloc: Biofloc giúp xử lý

chất thải hữu cơ trong nước bằng cách chuyển hóa chúng thành nguồn dinh dưỡng cho tôm, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm và sự tích tụ chất thải trong môi trường nuôi.

Hệ thống Biofloc làm giảm việc thải ra nước thải ô nhiễm, giúp duy trì môi trường sống trong lành và bền vững cho tôm, đồng thời giảm chi phí xử lý nước thải.

Nuôi tuần hoàn khép kín (RAS): Là mô hình nuôi trong môi trường khép kín, trong đó 90 - 95% lượng nước được tái sử dụng

liên tục thông qua các hệ thống lọc sinh học, cơ học và khử trùng bằng tia UV hoặc ozone. Điều này giúp tiết kiệm nước, giảm

lượng nước thải ra môi trường và hạn chế

các tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.

Hệ thống nuôi tích hợp đa loài (ITMA): Góp phần làm giảm đáng kể lượng chất thải

thải ra môi trường nhờ khả năng tái sử dụng

chất dinh dưỡng trong hệ thống. Việc này giúp hạn chế hiện tượng phú dưỡng và cải thiện chất lượng nước trong khu vực nuôi.

Sử dụng các cảm biến và công nghệ IoT:

Các cảm biến và công nghệ IoT giúp theo dõi và kiểm soát chất lượng nước, lượng thức ăn và tình trạng sức khỏe của tôm trong thời gian thực. Điều này cho phép người nuôi có thể điều chỉnh kịp thời các biện pháp quản lý để đảm bảo hiệu quả và bền vững.

Thu gom và xử lý bùn đáy

Bùn đáy là nơi tích tụ phần lớn chất thải hữu cơ và khí độc. Việc thu gom định kỳ giúp cải thiện chất lượng nước và giảm nguy cơ bệnh.

Xi phông: Không chỉ là phương pháp phòng bệnh, hơn nữa còn hỗ trợ trị bệnh. Việc thường xuyên xi phông sẽ giúp cho nước ao luôn sạch, xử lý triệt để các chất thải, cần thiết kế hố xi phông ở giữa ao để dễ dàng hút bùn định kỳ 1 - 2 lần/tuần.

Tách riêng khu chứa bùn: Khi nạo vét hoặc hút bùn, cần bơm bùn sang ao chứa riêng và tuyệt đối không đổ bùn lên bờ ao để tránh bùn có thể trôi ngược lại xuống ao khi trời mưa.

Xử lý bùn bằng chế phẩm vi sinh hoặc ủ làm phân hữu cơ. Đây là hướng tái sử dụng chất thải hiệu quả và thân thiện môi trường.

NGUYỄN HẰNG

CTU-RAS

Nuôi tôm tuần hoàn, bền vững

Mô hình CTU-RAS (tích hợp nuôi TTCT siêu thâm canh trong hệ thống tuần hoàn kết hợp đa loài) là giải pháp nuôi trồng thủy sản bền vững, ứng dụng công nghệ tuần hoàn nước khép kín nhằm tái sử dụng nước, giảm chất thải và hạn chế tác động môi trường.

điểm

Tuần hoàn kín hoàn toàn: Hệ thống được thiết kế để tái sử dụng nước liên tục trong ao nuôi, gần như không xả ra môi trường. Trong suốt vụ nuôi, nước chỉ cần bổ sung khoảng 10 - 20% để bù hao hụt do bốc hơi, bơm hút hoặc kiểm soát độ mặn. Nhờ đó, nước có thể tái sử dụng cho 3 vụ nuôi/ năm mà không cần xử lý phức tạp, giảm áp lực nguồn nước và chi phí vận hành. Cơ cấu diện tích: Diện tích ao được phân bổ hợp lý, với 70 - 75% dành cho nuôi tôm và 25 - 30% dành cho khu lọc sinh học và khu vực xử lý nước. Khu lọc được thiết kế để loại bỏ chất rắn lơ lửng, bùn và một phần chất hữu cơ, đồng thời hỗ trợ phát triển hệ vi sinh vật có lợi, giúp duy trì chất lượng nước ổn định và hạn chế tích tụ chất thải. Vị trí: Mô hình có thể triển khai ngoài trời hoặc trong nhà tùy điều kiện địa phương và yêu cầu quản lý. Nuôi trong nhà giúp kiểm soát nhiệt độ, ánh sáng, mưa và gió, giảm rủi ro dịch bệnh và biến động môi trường. Nuôi ngoài trời tiết kiệm chi phí đầu tư ban đầu nhưng cần chú trọng đến biện pháp che chắn, sục khí và quản lý chất lượng nước liên tục.

Tích hợp đa loài: Các loài nuôi kèm như cá rô phi và rong câu đóng vai trò như những bộ lọc sinh học tự nhiên. Cá rô phi

giúp xử lý tôm yếu, tôm chết và các loại giáp xác mang mầm bệnh. Trong khi đó, rong câu hấp thụ các chất dinh dưỡng dư thừa trong nước như TAN (amoniac), nitrite, nitrate và photphate, ổn định môi trường nước một cách tự nhiên

Thức ăn: Tôm được bổ sung thức ăn tự nhiên thay thế thức ăn công nghiệp; giảm FCR, tăng cường mùi vị, màu sắc, chất lượng tôm tự nhiên; giảm thiểu sử dụng khoáng, hóa chất, không dùng thuốc kháng sinh, an toàn vệ sinh thực phẩm.

Thành phần và chức năng hệ thống

TTCT: Là đối tượng nuôi chính, xả chất thải hữu cơ và phân, là nguồn dinh dưỡng cho các vi sinh vật và loài phụ trợ trong hệ thống.

Cá rô phi: Được nuôi kết hợp nhưng không cho ăn, nhằm mục đích xử lý vật chất lơ lửng và hạn chế chất thải trong nước. Cá rô phi không phải sản phẩm chính mà đóng vai trò hỗ trợ sinh thái, chuyển hóa một phần chất thải tôm.

Lọc lưới: Lắng các chất lơ lửng trong ao, giảm bùn đáy và cải thiện chất lượng nước. Giúp ngăn bùn và thức ăn dư thừa tích tụ, giảm nguy cơ yếm khí và sinh khí độc.

Giá thể lọc sinh học: Là nơi phát triển vi sinh vật có lợi, xử lý các chất hữu cơ và chuyển đổi amôn (NH₄⁺) → nitrit (NO₂ ) → nitrat (NO₃ ). Duy trì cân bằng nitơ trong ao, hạn chế độc tố ảnh hưởng đến tôm. Rong câu (rong tảo): Hấp thu nitrate, amôn, lân từ nước, hạn chế tích tụ chất dinh dưỡng gây ô nhiễm. Không phải là sản phẩm chính nhưng giúp cân bằng môi trường và cải thiện chất lượng nước.

LÊ LOAN

bảo sức khỏe tôm sau bão

Sau bão, sức khỏe tôm dễ bị ảnh hưởng do môi trường ao thay đổi. Áp dụng những biện pháp chăm sóc đúng cách sẽ giúp tôm phục hồi nhanh và giảm thiệt hại cho người nuôi.

Mở toàn bộ quạt nước, tăng cường sục khí liên tục để tránh tôm nổi đầu

Tác động

Mỗi cơn bão đều để lại những tác động không nhỏ đối với các ao nuôi tôm. Gió lớn, mưa nhiều và dòng chảy bất thường có thể làm thay đổi các chỉ số môi trường nước như nhiệt độ, độ mặn, pH, ôxy hòa tan, cũng như làm ô nhiễm nước. Nếu không kiểm soát kịp thời, tình trạng này có thể gây stress cho tôm, làm giảm khả năng miễn dịch, tăng nguy cơ dịch bệnh và dẫn tới thiệt hại kinh tế đáng kể.

Ổn định môi trường ao nuôi

Sau bão, bước đầu tiên và quan trọng nhất là kiểm tra môi trường ao. Lượng nước trong ao thường lên cao, vì vậy, cần xả bớt lượng nước tầng mặt trong ao để duy trì mực nước thích hợp và tránh gây ra hiện tượng phân tầng nước.

Cùng với đó, người nuôi cần tiến hành đo các chỉ số cơ bản như: độ mặn, pH, hàm lượng

ôxy hòa tan, nitrit, amoniac,… Nếu các chỉ số bất thường, thực hiện các biện pháp điều chỉnh ngay lập tức.

pH: Nước mưa có tính axit

nhẹ, khi chảy vào ao sẽ làm giảm pH và độ kiềm, gây ra sự căng thẳng cho tôm. Do đó, cần rải vôi CaCO₃ hoặc Dolomite (10 - 15 kg/1.000 m³ nước) quanh bờ và mặt ao để ổn định lại.

Hàm lượng ôxy hòa tan: Khi lượng chất hữu cơ tăng, ôxy dễ

bị thiếu. Nên mở toàn bộ quạt

nước, tăng cường sục khí liên

tục để tránh tôm nổi đầu.

Độ mặn: Sau bão độ mặn

thường giảm mạnh. Nếu chênh

lệch quá lớn, nên bơm thêm

nước mặn từ ao lắng vào từng

đợt nhỏ để tránh gây sốc cho

tôm.

Khí độc: Bão đi qua, lớp bùn

đáy bị khuấy trộn, giải phóng

khí độc. Có thể sử dụng men vi

sinh hoặc chế phẩm sinh học

chứa Bacillus, EM để phân hủy

chất hữu cơ, giảm độc tố.

Ảnh: Tép bạc

Ngoài ra, người nuôi cần vớt rác, lá cây, xác động vật, làm sạch bờ ao, kiểm tra hệ thống cống, bạt lót và bờ bao để tránh rò rỉ hoặc ô nhiễm chéo từ nguồn nước bên ngoài.

Chăm sóc tôm

Khi môi trường ổn định, cần chú trọng tăng sức đề kháng cho tôm. Trong 3 - 5 ngày đầu sau bão, giảm lượng thức ăn 30 - 50% so với bình thường, chia làm nhiều cữ nhỏ để tôm dễ tiêu hóa và tránh dư thừa gây ô nhiễm.

Tôm sau bão thường bị stress, dễ mắc các bệnh về gan và đường ruột. Người nuôi có thể bổ sung Vitamin C, men tiêu hóa, khoáng chất, hoặc

Beta-Glucan vào thức ăn để tăng khả năng miễn dịch. Đồng thời, bổ sung probiotics đường ruột giúp cân bằng hệ vi sinh, hạn chế bệnh đường ruột - vấn đề thường gặp sau mưa bão.

Kiểm soát dịch bệnh và phòng ngừa rủi ro Mưa bão tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, virus và ký sinh trùng phát triển. Vì vậy, việc duy trì chế độ quan sát thường xuyên, phân tích mẫu nước và kiểm tra sức khỏe tôm là cần thiết. Nếu thấy tôm bơi yếu, lờ đờ, nổi đầu hoặc ăn chậm, cần kiểm tra lại chất lượng nước ngay. Với những ao có biểu hiện tôm yếu, nên tạm ngưng cho ăn 1 - 2 bữa, tăng cường sục khí và xử lý nước bằng chế phẩm sinh học. Trong trường hợp phát hiện dấu hiệu dịch bệnh, cần cách ly vùng bị nhiễm và áp dụng phương pháp xử lý phù hợp theo hướng dẫn của cơ quan thú y hoặc chuyên gia thủy sản. Ngoài ra, nên chuẩn bị sẵn các thuốc, men vi sinh, và các thiết bị sục khí để xử lý khi cần.

Phục hồi ao nuôi và lập kế hoạch dài hạn

Sau khi tôm ổn định, việc phục hồi ao nuôi là bước quan trọng để chuẩn bị cho các giai đoạn sinh trưởng tiếp theo. Cần tiến hành phục hồi nền đáy ao bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học hoặc bột Zeolite để hấp thu khí độc và làm sạch bùn. Định kỳ 5 - 7 ngày/lần sử dụng men vi sinh xử lý nước, giúp tái tạo hệ vi sinh có lợi, duy trì màu nước tự nhiên ổn định. Đồng thời, kiểm tra và gia cố hạ tầng: bờ bao, cống cấp thoát nước, hệ thống điện và quạt nước để chuẩn bị tốt cho các đợt mưa bão tiếp theo. Người nuôi nên có ao lắng riêng, chủ động nguồn nước sạch khi cần thay hoặc cấp bổ sung.

NGUYỄN HẰNG

Biện pháp xử lý tảo độc

Nguyên nhân

Trong quá trình nuôi, có nhiều nguyên nhân làm tảo phát triển quá mức:

- Ô nhiễm hữu cơ: Thức ăn dư thừa do không quản lý tốt khâu cho ăn, chất thải từ tôm.

- Thời tiết thay đổi thất thường: mưa kéo dài làm giảm độ mặn, phân tầng mặt nước tạo điều kiện cho tảo lam phát triển. Khi trời tiết nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước tăng sẽ thúc đẩy quá trình phân hủy bùn bã hữu cơ tạo ra nhiều chất dinh dưỡng giúp cho tảo phát triển mạnh mẽ.

Tác hại

Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS), đặc biệt là trong nuôi tôm, tảo là một yếu tố quan trọng của chuỗi thức ăn tự nhiên và giữ vai trò là một hệ thống lọc sinh học giúp cân bằng các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, nếu tảo phát triển quá mức hay thiếu tảo sẽ gây biến động môi trường nước và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của tôm. sản phẩm này không chỉ giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, nhanh chóng, an toàn mà còn thân thiện với môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Công ty THÁI NAM VIỆT đã phát triển hai dòng sản phẩm sinh học nhằm giải quyết triệt để và an toàn đối với vấn đề tảo độc trong ao nuôi.

Tảo lam: Làm tôm mắc bệnh phân trắng do ăn phải tảo lam nhưng không tiêu hóa được dẫn đến tình trạng ruột bị tắc nghẽn. Ngoài ra nó còn gây mùi hôi cho tôm, gây nhờn nước, thải chất nhờn làm tắc nghẽn mang tôm gây cản trở hô hấp. Tảo lam dạng hạt hay sợi đều độc như nhau, nhưng dạng sợi thường độc hơn do vướng và mang tôm và tôm thường ăn phải nhưng không tiêu hóa được.

Tảo giáp: Nếu tôm ăn phải sẽ làm cho tôm khó tiêu, ảnh hưởng đến đến hệ tiêu hóa, bị bệnh phân đứt khúc, là nguyên nhân làm tôm nổi đầu về đêm do thiếu ôxy. Ngoài ra, tảo giáp còn là nguyên nhân gây nên hiện tượng phát sáng trong ao.

Tảo mắt: Là sinh vật chỉ thị môi trường, khi tảo mắt xuất hiện quá mức cho thấy ao bị ô nhiễm hữu cơ, nền đáy ao bẩn.

Tảo đỏ: Sản sinh ra độc tố gây tê liệt, ngộ độc và ngộ độc thần kinh, gây hại hoặc làm tắt nghẽn mang tôm, cá. Tảo đỏ còn làm tôm nổi đầu về đêm và sáng sớm do thiếu ôxy trong nước, gây ra hiện tượng phát sáng và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tập tính sống của tôm nuôi.

Cách xử lý

Vớt xác tảo và thay nước nhằm giảm mật độ tảo, tuy nhiên, giải pháp này rất tốn công và chi phí.

Quản lý tốt việc cho ăn nhằm kiểm soát lượng thức ăn dư thừa trong ao. Xử lý đáy bằng cách thường xuyên hút bùn và xi phông nhằm hạn chế sự tích

tụ chất hữu cơ ở đáy ao.

Cắt tảo bằng vôi đêm với liều cho phép (dùng kèm Zeolite, thường xuyên hút bùn và xi phông), BKC, chất diệt tảo có gốc CuSO4.

Đối với tảo lam, có thể áp

dụng biện pháp tăng độ mặn

bằng cách cấp thêm nước hoặc

bổ sung muối 10 kg/1.000 m3 treo ở đầu cánh quạt.

Thả ghép cá rô phi cùng với tôm trong ao nuôi, do cá rô phi

thường sống ở tầng giữa và tầng

đáy nên có thể tiêu thụ 30 - 60%

lượng đạm trong tảo, đặc biệt là tảo lam, tảo lục giúp ổn định

chất lượng nước.

Bổ sung chế phẩm sinh học:

Chế phẩm enzyme: Cellulase, Protease, Amylase,… giúp cắt

tảo nhanh chóng.

Chế phẩm vi sinh: Chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả

Một dạng tổng hợp của 5 loại enzyme: Protease, Amylase, Cellulase, Lipase, Urease, giúp khống chế tảo độc và bùn bã hữu cơ

WD 103

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo trong ao nuôi, thành phần có các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus lichenifomis, Bacillus amyloliquefaciens,…

năng phân hủy chất hữu cơ dư thừa, tiết enzyme để cắt tảo. Bổ sung chế phẩm vi sinh kết hợp với việc quản lý tốt chất lượng nước và thức ăn có thể ổn định mật độ tảo trong ao, giúp cho tôm phát triển khỏe mạnh.

xuất giải pháp

Việc sử dụng các chế phẩm sinh học trong ngành NTTS hiện nay đang là xu hướng được nhiều người nuôi lựa chọn, các

Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ - Kỹ thuật - Sinh hóa Thái Nam Việt

Địa chỉ: 126 Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú, TP Hồ Chí Minh

ĐT: 0888 59 63 66

Email: info@thainamviet.com Website: thainamviet.com

THÁI NAM VIỆT
PROCOZOLL

10,9 con/kg - Kỷ lục

mới

từ nuôi tôm kích cỡ lớn

Sau dấu ấn 12 con/kg từng tạo nên tiếng vang trong ngành tôm Việt, C.P. Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong khi một lần nữa vượt qua chính kỷ lục của mình. Thành công mới được xem là “kỷ lục của mọi kỷ lục” trong hành trình nuôi tôm kích cỡ lớn - minh chứng cho sức bật vượt trội của con giống C.P. và năng lực di truyền ngày càng hoàn thiện.

Bước tiến này không chỉ đánh dấu giai

đoạn phát triển mới của ngành tôm Việt

Nam, mà còn thể hiện nỗ lực không ngừng

của C.P. Việt Nam trong việc mang đến những thế hệ tôm giống mạnh mẽ, ổn định và đạt chuẩn quốc tế.

Hành trình chinh phục

kỷ lục

Trải qua nhiều năm gắn bó với nghề, anh Lê Văn Phước (Bình Đại, Vĩnh Long) - đối tác thân thiết của C.P. Việt Nam - đã chứng kiến không ít thăng trầm trong hành trình nuôi tôm. Không chùn bước trước thất bại, anh vẫn kiên định với khát vọng nâng tầm nghề nuôi, từng bước tìm ra hướng đi mới cho mình và bà con trong vùng.

Khi môi trường và dịch bệnh thay đổi, anh tiếp tục dịch chuyển mô hình ra khu vực ven biển - nơi có độ mặn cao và điều kiện thuận lợi hơn cho tôm phát triển. Từ đây, anh từng bước hoàn thiện quy trình, áp dụng công nghệ hiện đại và phối hợp chặt chẽ cùng đội ngũ kỹ thuật của C.P. Việt Nam.

Đến năm 2025, hệ thống hơn 40 ao nuôi công nghệ cao của anh đã trở thành minh chứng cho hành trình bền bỉ và khát vọng vươn tới đỉnh cao. Với tôm giống CPF-Turbo G21, anh Lê Văn Phước xuất sắc chinh phục cột mốc 10,9 con/ kg - kỷ lục của mọi kỷ lục trong nuôi tôm kích cỡ lớn, khẳng định vị thế người tiên

phong trên hành trình nâng tầm con giống Việt.

CPF TURBO G21 - Bước tiến khẳng định sức mạnh con giống Việt

Thành công ấy một lần nữa khẳng định sức mạnh vượt trội của tôm giống CPF-Turbo G21 cùng hệ giải pháp toàn diện của C.P. Việt Nam - từ con giống, thức ăn đến quy trình chăm sóc. Đó cũng chính là nền tảng vững chắc giúp người nuôi Việt Nam tự tin vươn tới những kỷ lục mới trên hành trình phát triển bền vững.

C.P. VIỆT NAM

Anh

Khánh thành Công ty TNHH

Thức ăn YueHai Việt Nam

Lễ khánh thành Công ty TNHH Thức ăn YueHai Việt Nam vừa được tổ chức vào sáng ngày 30/10 tại Lô 2, Khu Công nghiệp Hòa Phú, tỉnh Vĩnh Long.

Tham dự buổi lễ có ông Zheng

Shixuan – Chủ tịch HĐQT Tập

đoàn Thức ăn chăn nuôi YueHai; ông Zheng Yuqiu – Tổng giám đốc

Công ty TNHH Thức ăn YueHai

Việt Nam; TS. Vũ Trọng Đại –Phó Viện trưởng Viện Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang; cùng các quan chức, thành viên Tập đoàn, khách hàng và lãnh đạo các sở, ngành tỉnh Vĩnh Long. Phát biểu chào mừng buổi lễ, ông Zheng Yuqiu cho biết, giai đoạn 1 của dự án có tổng vốn đầu tư gần 20 triệu USD, với tổng công suất 100.000 tấn/năm thức ăn cho cá và tôm.

Dự án gồm 4 dây chuyền sản

xuất thức ăn tôm, công suất 5 tấn/giờ (có thêm 2 dây chuyền dự phòng) và 1 dây chuyền sản xuất thức ăn cá ép đùn, công suất 10 tấn/giờ.

Dự án áp dụng công nghệ

thiết bị tự động hóa tiên tiến hàng đầu thế giới, hệ thống sản xuất và quản lý trọn bộ tích hợp (ERP), trung tâm điều khiển toàn bộ quy trình, đóng gói tự

động thông minh, tay robot

xếp hàng,… Ngoài ra, công ty còn xây dựng phòng thí nghiệm

đạt tiêu chuẩn cao và hệ thống quản lý chất lượng hoàn thiện, đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao.

Nhà máy YueHai Việt Nam có diện tích 5 ha, vẫn còn không gian để mở rộng trong tương lai. Theo kế hoạch trung và dài hạn, công ty sẽ nâng công suất lên 200.000 tấn/năm.

Tập đoàn YueHai đã có nhiều năm nghiên cứu, khảo sát và thực nghiệm thị trường Việt Nam, tiến hành kinh

doanh tiêu thụ thử sản phẩm và nắm vững mô hình nuôi trồng của địa phương. Hiện YueHai cung cấp đa dạng sản phẩm gồm: thức ăn cho tôm, cá tra, cá lóc, cá biển, cá rô phi, trắm cỏ,… và sắp tới sẽ ra mắt thức ăn cho cá chẽm và cá chim vây vàng.

Đội ngũ YueHai Việt Nam luôn tuân thủ chiến lược chất lượng sản phẩm do Chủ tịch HĐQT đề ra, với định hướng “3 thấp, 3 cao” – trong đó: - 3 cao: chất lượng cao, sức khỏe cao, tăng trưởng cao; - 3 thấp: hàm lượng đạm thấp, hao hụt thấp và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp.

Cùng với đó, YueHai xây dựng hệ thống “Bốn đảm bảo chất lượng”, gồm: đảm bảo kiểm soát nguyên liệu đầu vào; đảm bảo thiết kế hệ thống công nghệ chính xác; đảm bảo sản xuất tinh xảo, chất lượng; và đảm bảo theo dõi, bám sát ý kiến phản hồi thị trường để không ngừng cải tiến. Qua ghi nhận thực tế khách hàng tại Việt Nam, sản phẩm YueHai cho kết quả vượt trội, như: thức ăn tôm 43% độ đạm, nuôi 92 ngày đạt kích cỡ 25 con/kg, FCR chỉ 1,2; thức ăn cá lóc cỡ lớn FCR 1,2, cá cỡ nhỏ không quá 1 - 1,05. Với hơn 30 năm kinh nghiệm tích lũy kỹ thuật sản xuất, YueHai có lợi thế cạnh tranh trực tiếp với các thương hiệu lớn khác. Đối với YueHai, khách hàng và nhà phân phối chính là tài sản quý báu nhất. Sự thành công của khách hàng chính là tiêu chuẩn kinh doanh – tiếp

Ông Zheng Shixuan - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn YueHai chia sẻ về tầm nhìn chiến lược, tiềm năng thị trường Việt Nam

thị của YueHai. YueHai không

chỉ cung cấp sản phẩm chất

lượng cao, giá trị vượt trội mà còn cung cấp giải pháp nuôi trồng hiệu quả, giúp người nuôi cá, nuôi tôm có chi phí thấp nhất, năng suất cao nhất và tạo ra giá trị lớn nhất. Tầm nhìn của Tập đoàn

YueHai là trở thành doanh nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản mạnh nhất Trung Quốc, tầm cỡ thế giới, nên Công ty TNHH Thức ăn YueHai Việt Nam chính là bước đi đầu tiên trong chiến lược toàn cầu hóa – vừa phát triển sâu rộng thị trường

Việt Nam, vừa mở rộng sang các nước có nhu cầu rõ rệt như Campuchia, Malaysia, Ấn Độ,… Việt Nam có khí hậu ấm áp, bờ biển dài, nguồn tài nguyên thủy sản phong phú, đặc biệt khu vực phía Nam ít thiên tai, là vùng lý tưởng cho nuôi trồng thủy sản. Cùng với chính sách đầu tư thông thoáng, môi

trường thương mại thuận lợi, GDP tăng trưởng nhanh, dân số hơn 100 triệu người – tất cả cho thấy tiềm năng phát triển

mạnh mẽ của ngành thủy sản

Việt Nam.

Tập thể YueHai Việt Nam phấn đấu xây dựng doanh

nghiệp thức ăn thủy sản đẳng

cấp thế giới, phát triển mạnh

mẽ – bền vững, đóng góp cho

sự phát triển ngành thủy sản

Việt Nam, tạo việc làm và giá trị kinh tế cho cộng đồng, mang

lại lợi ích thiết thực cho khách

Ông Zheng Yuqiu - Tổng giám đốc Công ty TNHH Thức ăn YueHai Việt Nam phát biểu chào mừng

hàng, góp phần vào sự thịnh

vượng chung của đất nước.

TS. Seetheraman, một khách hàng của YueHai tại Ấn

Độ, cho biết công ty ông đã sử dụng sản phẩm YueHai nhiều năm và nhận thấy kết quả rất

tốt vì tất cả đều là sản phẩm chất lượng, hàm lượng công nghệ cao.

Ông Bùi Nghĩa Hiệp, Nông

dân Việt Nam xuất sắc năm

2025, đến từ tỉnh Cà Mau, cho biết nhu cầu thức ăn phục vụ

trại nuôi tôm 25 ha của gia đình và khách hàng mỗi năm lên đến

700 - 800 tấn. Sau thời gian

thăm dò, trước khi đến dự lễ khánh thành, ông đã chốt đơn hàng 200 tấn thức ăn YueHai.

Phát biểu tại buổi lễ, ông

Zheng Shixuan – Chủ tịch

HĐQT Tập đoàn YueHai – nhấn

Ông Bùi Nghĩa Hiệp - Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2025, chính thức trở thành đại lý với

mạnh: “Việt Nam là điểm đến

mang tính chiến lược trong mục tiêu vươn tầm ra thế giới của YueHai. Đây là minh chứng

tích cực cho hợp tác Trung –Việt trong việc đưa ưu thế công

nghệ của YueHai ra thế giới, góp phần phát triển ngành

thủy sản Việt Nam và khu vực

Đông Nam Á. Chúng tôi sẽ lấy dự án này làm khởi đầu, từng

bước đưa sản phẩm chất lượng cao của YueHai đến khắp nơi trên thế giới, để công nghệ tiên tiến của Trung Quốc có cơ hội phục vụ ngày càng nhiều hộ nuôi thủy sản hơn”.

YueHai xác định đây không chỉ là việc mở rộng thị phần mà còn là mở rộng trách nhiệm, luôn kiên định với triết lý: vận hành bản địa hóa, phát triển bền vững, thực hành xã hội tại

địa phương, thúc đẩy việc làm, đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam nâng cấp theo hướng tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa và thân thiện môi trường. YueHai tận dụng tốt cơ hội từ quan hệ hợp tác song phương và khối RCEP để lấy Việt Nam làm điểm tựa vươn ra toàn cầu, xây dựng chuỗi cung ứng thức ăn thủy sản cao cấp khắp khu vực Đông Nam Á, thúc đẩy kết nối tiêu chuẩn thủy sản Trung Quốc với quốc tế, góp phần tạo nên hình mẫu mới trong hợp tác nông nghiệp toàn cầu.

YueHai sẽ luôn đồng hành cùng người nuôi thủy sản Việt Nam với những sản phẩm chất lượng cao, hỗ trợ người dân “nuôi tốt từng con cá, con tôm” để YueHai trở thành người bạn đáng tin cậy và lâu dài. Hy vọng chúng ta sẽ cùng nhau viết nên chương mới cho ngành thủy sản Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Lựa chọn YueHai là lựa chọn thành công. Sau phần phát biểu của ông Zheng Shixuan, nghi thức cắt băng khánh thành diễn ra trong không khí náo nhiệt, hân hoan. Các đại biểu còn được tham quan nhà máy, chứng kiến nghi thức “điểm nhãn” và xuất lô hàng đầu tiên của công ty.

XUÂN TRƯỜNG

Bên

CÔNG NGHỆ NANOBUBBLE

Giải pháp đột phá cho NTTS bền vững

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng sản xuất bền vững, hạn chế kháng sinh và bảo vệ môi trường, việc ứng dụng các giải pháp công nghệ mới trở nên đặc biệt quan trọng. Trong đó, công nghệ Nanobubble (bong bóng khí nano) được xem là một bước tiến đột phá, giúp tối ưu môi trường nước ao nuôi và nâng cao hiệu quả nuôi tôm, cá.

Nanobubble là gì?

Nanobubble là những bong bóng khí có kích thước siêu nhỏ, chỉ từ 80 - 120 nanomet, nhỏ hơn hàng nghìn lần so với bong bóng khí thông thường. Với kích thước cực nhỏ, Nanobubble có thể tồn tại trong nước từ nhiều ngày đến nhiều tuần, thay vì chỉ vài giây như sục khí truyền thống. Khi vỡ ra, chúng giải phóng ôxy hòa tan (DO) cùng các gốc ôxy hoạt tính (ROS). Đây chính là yếu tố giúp tăng nồng độ ôxy và hỗ trợ tiêu diệt vi khuẩn gây hại.

Tăng hiệu quả cung cấp ôxy hòa tan

Trong ao nuôi, tầng đáy thường là nơi thiếu ôxy nhất, dẫn đến tích tụ khí độc và ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi.

Các hệ thống quạt nước hoặc sục khí thông thường chủ yếu cung cấp ôxy ở tầng mặt. Ngược lại, công nghệ Nanobubble phân tán ôxy đồng đều từ mặt

đến đáy ao. Các bong bóng siêu nhỏ thâm nhập sâu vào toàn

bộ cột nước, nâng cao nồng

độ ôxy hòa tan ổn định, giúp tôm cá ăn mạnh, tăng trưởng

nhanh, giảm stress và giảm tỷ lệ hao hụt.

Khả năng hạn chế mầm bệnh

Khi bong bóng nano vỡ, các gốc ôxy hoạt tính (ROS) được giải phóng có khả năng phá vỡ cấu trúc tế bào của vi khuẩn, nấm và virus gây bệnh. Nhờ cơ chế khử trùng tự nhiên này, Nanobubble giúp giảm mật độ vi khuẩn gây hại mà không cần sử dụng quá nhiều hóa chất hoặc kháng sinh. Điều này hỗ trợ duy trì hệ vi sinh có lợi trong ao, giúp môi trường nuôi ổn định và an toàn hơn.

Cải thiện chất lượng

nước và giảm ô nhiễm

đáy ao

Chất thải hữu cơ, thức ăn thừa và xác tảo chết trong ao là nguyên nhân tạo ra các khí độc như NH3 và H2S. Nanobubble hỗ trợ phân hủy các chất hữu cơ này hiệu quả hơn, đồng thời giảm tích tụ khí độc. Kết quả là nước

trong hơn, mùi hôi đáy ao giảm, môi trường nuôi cân bằng hơn và ít phải thay nước, giúp giảm chi phí và hạn chế tác động đến môi trường xung quanh.

Nâng cao năng suất và tiết kiệm chi phí Nhờ duy trì ôxy ổn định và cải thiện điều kiện sống, tôm cá phát triển nhanh, khỏe mạnh và tăng tỷ lệ sống từ 10 - 20% so với mô hình sục khí truyền thống. Hệ thống

Nanobubble cũng tiết kiệm điện năng, vận hành êm, không gây xói đáy, từ đó giúp giảm chi phí vận hành và kéo dài tuổi thọ hệ thống ao nuôi.

Phát triển thủy sản xanh và bền vững

Việc ứng dụng Nanobubble phù hợp với định hướng phát triển ngành thủy sản Việt Nam: giảm phát thải, giảm hóa chất, nâng cao hiệu quả và giá trị xuất khẩu. Công nghệ này có thể áp dụng linh hoạt cho ao đất, ao trải bạt, hệ thống tuần hoàn RAS, nuôi nhà màng hoặc mô hình khép kín.

B.H.N

Thông tin liên hệ: Công ty TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh

Nano bubble tại trang trại nuôi tôm

Doanh nghiệp đối mặt “bão” rào cản thương mại

Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Mỹ - thị trường

lớn nhất của ngành, đang phải đối mặt với những rào cản

thương mại ngày càng gia tăng. Trong đó, thách thức chính đến từ cơ chế “thuế chồng thuế”, với mức thuế đối ứng có thể lên đến 20%, cao hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh.

Riêng ngành tôm, sắp tới, mức thuế chống bán phá giá có thể lên đến 35,29% nếu xuất khẩu sang Mỹ, là mức thuế chống bán phá giá cao nhất trong lịch sử ngành tôm, đe dọa trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.

Ngoài ra, việc 12 nghề cá khai thác của Việt Nam bị Mỹ từ chối công nhận tương đương, theo đạo luật bảo vệ động vật có vú ở biển cũng khiến các sản phẩm như cá ngừ, tôm hùm, cua, ghẹ không được xuất khẩu sang Mỹ, đồng thời ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

Trước tình hình này, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) kiến nghị doanh nghiệp thủy sản cần theo dõi

SKRETTING VIETNAM

Đồng hành cùng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt NamHà Lan 2025

Skretting Vietnam hân hạnh tham gia “Vietnam - Netherlands Business Forum: Shaping the Future of Sustainable Aquaculture in the Mekong Delta” - Diễn đàn kết nối các doanh nghiệp, tổ chức và chuyên gia tiên phong trong ngành nuôi trồng thủy sản bền vững. Sự kiện được tổ chức bởi Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam, diễn ra vào ngày 12/11/2025 tại TP Hồ Chí Minh, thu hút đông đảo đại diện từ các doanh nghiệp, hiệp hội, cơ quan nghiên cứu,... Tại Diễn đàn, Skretting Vietnam có cơ hội chia sẻ các giải pháp công nghệ, chiến lược sản xuất và mô hình nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường, đồng thời tìm hiểu các sáng kiến mới nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và tính bền vững trong chuỗi giá trị thủy sản. Sự kiện cũng là cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Hà Lan, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành thủy sản ở ĐBSCL.

HUYỀN THƯƠNG

Doanh nghiệp đang chịu sức ép lớn khi xuất khẩu tôm sang Mỹ Ảnh: Hoàng Anh

chặt chẽ diễn biến thị trường để chủ động ứng phó, đồng thời cơ cấu lại thị trường xuất khẩu và tập trung vào sản phẩm chế biến sâu để gia tăng biên lợi nhuận và giảm rủi ro.

DUY MẠNH

KHOA KỸ SINH VẬT THĂNG LONG

thành công Hội nghị khách hàng 2025

Ngày 27/10/2025, tại TP Đà Nẵng, Công ty TNHH Khoa Kỹ Sinh vật Thăng Long đã tổ chức thành công Hội nghị khách hàng năm 2025 với chủ đề “Đồng hành phát triển - Kiến tạo bền vững”. Hội nghị là dịp để công ty tổng kết kết quả hoạt động kinh doanh năm 2025, tri ân các đại lý, khách hàng đã đồng hành trong suốt thời gian qua, đồng thời chia sẻ định hướng chiến lược và mục tiêu phát triển năm 2026. Dù năm 2025 thị trường gặp nhiều thách thức như giá nguyên liệu tăng, lạm phát và lãi suất cao, nhưng với tinh thần đồng hành và chia sẻ, phần lớn các đại lý của công ty vẫn đạt mức tăng trưởng tích cực. Đặc biệt, mô hình nuôi tôm nhiều giai đoạn TLSS tiếp tục mang lại hiệu quả cao, khẳng định tính bền vững trong sản xuất. Tại Hội nghị, công ty cũng vinh danh các đại lý tiêu biểu có thành tích kinh doanh xuất sắc năm 2025, ghi nhận nỗ lực và đóng góp của các đối tác trong hành trình phát triển chung.

NGUYỄN LAM

DE HEUS

Nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản đạt chứng nhận ASC

Ngày 23/10/2025, nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản De Heus

Vĩnh Long 4 chính thức được Hội đồng Quản lý Nuôi trồng Thủy sản

Toàn cầu (Aquaculture Stewardship Council - ASC) trao chứng nhận đạt chuẩn quốc tế. Đây là cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển ngành thủy sản của De Heus tại Việt Nam, đồng thời khẳng định cam kết mạnh mẽ của doanh nghiệp trong việc xây dựng chuỗi giá trị thủy sản xanh, sạch và bền vững. Dòng sản phẩm thức ăn thủy sản của De Heus được thiết kế chuyên biệt cho: tôm, cá tra, cá rô phi, cá nước lạnh, cá nội địa với từng giai đoạn phát triển, giúp tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng, cải thiện sức khỏe đường ruột và tăng cường hệ miễn dịch của vật nuôi. Nền tảng chất lượng của De Heus được xây dựng dựa trên hệ thống kiểm soát nguyên liệu đầu vào nghiêm ngặt. Nguyên liệu phải đạt các tiêu chuẩn cao về an toàn, không chứa chất cấm theo quy định. Điều này đảm bảo thức ăn cung cấp đủ dưỡng chất cần thiết mà không để lại tồn dư trong tôm thương phẩm.

NGUYỄN HẰNG

C.P. VIỆT NAM

Tham gia Hội chợ mùa Thu 2025

Tại Hội chợ mùa Thu 2025, Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam gây ấn tượng với khu trưng bày tái hiện thành quả “Từ trang trại đến bàn ăn” thông qua hàng trăm sản phẩm tươi ngon, an toàn, dinh dưỡng như trứng gà tươi, xúc xích, lạp xưởng, bánh bao, nem giòn, chả cốm, nem Hà Nội, gà chiên giòn Popcorn,… Đồng thời, khu vực trưng bày Thức ăn chăn nuôi và Ngô giống chất lượng cao thể hiện chuỗi giá trị nông nghiệp hiện đại của Tập đoàn C.P., từ nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi, sản xuất thức ăn, chăn nuôi, đến chế biến và phân phối. Bên cạnh việc mang đến những sản phẩm chất lượng, C.P. Việt Nam còn truyền tải mạnh mẽ thông điệp về phát triển bền vững và trách nhiệm môi trường. Sự hiện diện của C.P. Việt Nam tại Hội chợ mùa Thu 2025 không chỉ thể hiện vị thế tiên phong trong ngành thực phẩm và nông nghiệp hiện đại, mà còn là cam kết lan tỏa giá trị “Ba lợi ích” - lợi ích cho quốc gia, cho người dân và cho doanh nghiệp. THẢO ANH

GROBEST VIỆT NAM

Lan tỏa mô hình nuôi tôm hiệu quả

Trong hai ngày 28 - 29/10, Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam) cùng Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm Khuyến nông Cà Mau đã tổ chức thành công chuỗi sự kiện về giải pháp và hiệu quả thực tế của mô hình nuôi tôm “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nuôi TTCT thích ứng hạn hán, xâm nhập mặn”. Chuỗi sự kiện gồm chuyến tham quan trực tiếp và vinh danh mô hình ứng dụng thành công tiến bộ kỹ thuật của hộ nuôi tiêu biểu và Diễn đàn “Giải pháp sinh kế thích ứng và giảm thiểu rủi ro thiên tai tại cộng đồng”. Diễn đàn thu hút sự tham gia của hơn 200 đại biểu gồm đại diện các sở, ngành, Trung tâm Khuyến nông và các đơn vị, doanh nghiệp, hợp tác xã, người nuôi tôm tại các tỉnh, thành trong khu vực ĐBSCL tham dự. Tại Diễn đàn, các chuyên gia Grobest có những chia sẻ về giải pháp kỹ thuật đã được kiểm chứng và ứng dụng thành công trong thực tế. Grobest cam kết tiếp tục đồng hành, mang những giải pháp đó đến gần hơn với bà con nuôi tôm trên khắp cả nước.

THANH HIẾU

VIỆT NAM FOOD

Tiếp sức học sinh vùng lũ Nghệ An

Những ngày cuối tháng 10/2025, nhiều khu vực miền Trung

Việt Nam vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của các cơn lũ lụt lịch sử. Trường học bị hư hỏng, giáo viên và học sinh phải đối mặt với nhiều khó khăn khi trở lại lớp học. Trước tình hình này, với tinh

thần tương ái, Công ty CP Việt Nam Food (VNF) phối hợp cùng nhà

phân phối trong mảng cây trồng tại thị trường miền Bắc - Vietnam

EcoBiz - đã triển khai chương trình gây quỹ và quyên góp trực tiếp

để hỗ trợ các trường học bị ảnh hưởng. Các trường nhận hỗ trợ bao

gồm: Trường THCS bán trú Nga My, Trường Tiểu học Xiềng My và

Trường Tiểu học Nga My tại tỉnh Nghệ An. Tất cả nguồn lực được trao trực tiếp đến các trường nhằm đảm bảo tính minh bạch, kịp thời và đúng đối tượng. Hoạt động này không chỉ mang đến những phần quà thiết thực, giúp ổn định việc học tập của học sinh, mà còn thể hiện cam kết lâu dài của VNF trong việc đồng hành cùng cộng đồng, hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn.

LÊ LOAN

SAO TA

Sản xuất tôm bứt tốc

Tháng 10/2025, tình hình tiêu thụ tôm và nông sản của Công ty CP Thực phẩm Sao Ta đều đạt kết quả tốt, góp phần đưa doanh thu của doanh nghiệp tăng hơn 13%. Sản lượng tôm thành phẩm đạt 2.570 tấn, tăng gần 38% so cùng kỳ năm trước. Nông sản thành phẩm cũng đạt 132 tấn, tương ứng mức tăng 76% theo năm. Cùng đà tăng với sản xuất, tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp tăng ở cả hai nhóm hàng. Trong đó, tôm thành phẩm bán hàng tăng 5% so cùng kỳ, lên 2.153 tấn; nông sản thành phẩm đạt 142 tấn, tăng gần 17%. 9 tháng đầu năm 2025, doanh thu thuần hợp nhất của Sao Ta đạt 6.850 tỷ đồng, tăng 23% so cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế đạt 251 tỷ đồng, tăng 6,7% so cùng kỳ. Như vậy, Sao Ta đã vượt 4% kế hoạch doanh thu năm và hoàn thành 59% kế hoạch về lợi nhuận. Năm 2025, Sao Ta đặt mục tiêu doanh thu thuần hợp nhất 6.540 tỷ đồng, giảm nhẹ 5,3% so năm trước, trong khi lợi nhuận trước thuế hợp nhất dự kiến đạt 420 tỷ đồng, tương đương kết quả năm trước.

THÁI THUẬN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Bế giảng khóa tập huấn chống IUU

Ngày 31/10, Trường Đại học Nha Trang phối hợp với Cơ quan

Quản lý nghề cá Australia và Cơ quan Khoa học và Công nghệ của Chính phủ Australia tổ chức bế giảng khóa tập huấn chống khai thác thủy sản bất hợp pháp - Dự án IUU khóa 3 năm 2025. Chương trình do Chính phủ Australia tài trợ. Khóa tập huấn diễn ra trong 6 tuần, chia làm hai đợt vào tháng 5 và tháng 10 năm 2025, với sự tham gia của 39 cán bộ quản lý thủy sản của 9 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Học viên tham gia được cập nhật kiến thức, kỹ năng triển khai hoạt động theo dõi, kiểm soát và giám sát nghề cá; công tác quản lý nghề cá nhằm chống khai thác IUU. Bên cạnh đó, học viên còn tham gia các hoạt động thực tế tại phòng thí nghiệm của Trường Đại học Nha Trang; thực hành thu thập số liệu và tham gia kiểm tra tàu cá tại Cảng cá Hòn Rớ. Tại lễ bế giảng, Ban Tổ chức trao giấy chứng nhận hoàn thành khóa tập huấn cho 100% học viên.

DIỆU CHÂU

VMC VIỆT NAM

Nâng cao năng lực sản xuất

Sáng 01/11/2025, tại cụm công nghiệp Yên Lệnh, phường Duy Tiên, tỉnh Ninh Bình, Công ty VMC Việt Nam đã tổ chức Lễ động thổ Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất thuốc Thú y - Thủy sản đạt tiêu chuẩn GMP-WHO. Dự án được triển khai với 6 dây chuyền sản xuất, hướng tới nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Theo kế hoạch, nhà máy dự kiến hoàn thành và đi vào hoạt động vào tháng 8/2026. Sự kiện đánh dấu một bước phát triển chiến lược, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng khả năng cung ứng sản phẩm thuốc thú ythủy sản chất lượng cao, đồng thời khẳng định cam kết của doanh nghiệp trong việc áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Với công trình này, VMC Việt Nam khẳng định khát vọng không ngừng đổi mới và cam kết phát triển bền vững, lấy chất lượng - uy tín - trách nhiệm làm nền tảng cho mọi hoạt động. DUY AN

ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Thúc đẩy ứng dụng chuyển đổi số trong nuôi tôm

Nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong sản xuất tôm bền vững, Đại học Cần Thơ tổ chức lớp tập huấn “Người nuôi tôm chuyên nghiệp” với sự tài trợ của Tổ chức Nghiên cứu Công nghiệp và Khoa học Khối thịnh vượng chung (CSIRO - Australia) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ). Tại buổi tập huấn, học viên tham gia đã được nghe các chuyên gia đầu ngành chia sẻ những chuyên đề quan trọng như: nuôi tôm biển công nghệ cao thích ứng biến đổi khí hậu, quản lý thức ăn và môi trường nước, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý trang trại, sử dụng GIS và viễn thám (RS) trong quản lý nuôi tôm, các giải pháp liên kết và phát triển ngành tôm trong thời đại công nghệ 4.0. Ngoài ra, các học viên còn được tham quan các phòng thí nghiệm, trại thực nghiệm và mô hình nuôi tôm công nghệ cao, qua đó hiểu rõ hơn về ứng dụng công nghệ tuần hoàn RAS, sử dụng thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và nâng cao an toàn thực phẩm. NGUYỄN AN

Nuôi tôm công nghệ cao

tại Vĩnh Long

Thời gian gần đây, nhiều nông dân tại tỉnh Vĩnh Long đã mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Điều này đã góp phần thay đổi tư duy của nông dân để chuyển sang sản xuất hàng hóa, theo nhu cầu thị trường, nhất là với lĩnh vực nuôi tôm.

Đổi đời nhờ nuôi tôm hiện đại

Với chiều dài bờ biển 130 km cùng hệ thống sông rạch phong phú, tỉnh Vĩnh Long hình thành ba vùng sinh thái: ngọt, lợ và mặn. Tỉnh đang mở rộng diện tích nuôi trồng, hướng tới xây dựng vùng kinh tế thủy sản quy mô lớn, giá trị ước đạt 1,5 tỷ USD/năm.

Con tôm nước lợ được nông dân các xã ven biển tỉnh Vĩnh Long nuôi hơn 20 năm qua. Từ nuôi tôm ruộng lúa, quảng canh, bán thâm canh theo kiểu truyền thống thì gần đây nông dân đã ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại trong nuôi tôm công nghệ cao mang lại hiệu quả rất lớn. Nông dân Đặng Văn Bảy (xã Thạnh Phong, tỉnh Vĩnh Long) đã xây dựng mô hình trang trại nuôi tôm công nghệ cao hơn chục năm qua. Quy mô trang trại nuôi TTCT của ông hơn 40 ha với nhiều khu nuôi ứng dụng công nghệ cao với nhiều máy móc, thiết bị hỗ trợ như: nhà lưới, máy tạo ôxy, phủ bạt đáy ao, cho ăn tự động,… Trung bình mỗi năm mô hình nuôi tôm công nghệ cao của ông Bảy thu hoạch từ 700 đến 800 tấn tôm, đem về lợi nhuận hơn 40 tỷ đồng.

Ông Bảy tâm sự, trước đây kinh tế gia đình chủ yếu dựa vào nghề nuôi TTCT theo phương pháp bán thâm canh trong ao đất, sau đó chuyển sang ao lót bạt bờ và nuôi thâm canh (công nghiệp). Thế nhưng, biến

động thị trường cùng dịch bệnh thủy sản khiến những vụ nuôi liên tiếp thua lỗ, đời sống gia đình rơi vào cảnh bấp bênh.

Nhận thấy cách làm cũ không còn phù hợp, ông quyết định tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình tiên tiến ở nhiều địa phương, từ đó từng bước tiếp cận kỹ thuật nuôi tôm nhiều giai đoạn theo hướng công nghệ cao. Đến nay, hành trình chuyển đổi ấy đã mang lại những trái ngọt.

Nhờ áp dụng quy trình nuôi khép kín, kiểm soát chặt chẽ từ khâu con giống, môi trường nước đến thức ăn và quản lý dịch bệnh, ông Bảy không chỉ nâng cao năng suất mà còn gia tăng đáng kể chất lượng tôm thương phẩm. Theo ông, lợi nhuận từ nuôi tôm công nghệ cao tăng gấp 5 - 6 lần so với phương pháp truyền thống.

Phát triển bền vững

này xây thêm ao nuôi tôm. Tôm nuôi khỏe mạnh hơn, năng suất cao hơn. Được biết, toàn bộ hơn 40 ha nuôi tôm công nghệ cao của gia đình ông Bảy hiện đã sử dụng khí Clo, bên cạnh việc giảm giá thành vật tư đầu vào, năng suất, lợi nhuận cũng tăng hơn nhiều so với trước đây.

Ông Bảy chia sẻ hiện tại, ông chỉ nuôi tôm theo hướng công nghệ cao với máy móc, trang thiết bị hiện đại mới giúp nghề nuôi phát triển bền vững. Tất cả các công đoạn đều có máy móc hỗ trợ giúp giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng và quan trọng là ít rủi ro dịch bệnh nên nông dân ứng dụng ngày càng nhiều. Xác định hướng đi lâu dài, ông Bảy đầu tư nuôi tôm theo mô hình đạt chứng nhận ASC, BAPnhững tiêu chuẩn toàn cầu trong ngành thủy sản, nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Theo ông Bảy, trước đây khi nuôi tôm phải sử dụng diện tích rất lớn để làm ao xử lý nước, do phải sử dụng Chlorine (Clo) dạng bột rải trực tiếp vào ao xử lý, không hòa tan đều vào trong nước, cho nên vừa tốn nhân công lao động và diện tích đất. Bên cạnh đó Clo bột ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động, giá thành Clo bột cũng cao hơn Clo khí 3 - 4 lần. Từ khi chuyển đổi sang sử dụng khí Clo, diện tích đất để xử lý nước giảm, phần đất  Đến nay, các xã ven biển tỉnh Vĩnh Long đang duy trì nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với diện tích 6.510 ha, năng suất đạt từ 50 - 70 tấn/ha, lợi

VÂN ANH

TRUNG QUỐC

Nuôi tôm chống mặn hồi sinh vùng đất khô cằn Tây Bắc

Gần 260.000 mẫu đất mặn kiềm ở tỉnh Cam Túc đã được hồi sinh thành vùng nuôi trồng thủy sản

sôi động, nhờ mô hình “đào ao, nâng ruộng” - một sáng kiến vừa cải tạo đất, vừa tạo sinh kế cho hơn 2.000 hộ nông dân.

Những dải đất mặn kiềm

thuộc vùng cao nguyên Hoàng

Thổ ở Tây Bắc Trung Quốc từng bị coi là vô dụng đã trở thành

“mỏ vàng mới” nhờ mô hình nuôi tôm chống mặn. TTCT có nguồn gốc vùng duyên hải

Trung và Nam Mỹ, nay lại sinh trưởng mạnh mẽ giữa sa mạc

khô hạn Cam Túc.

Từ đất chết đến vùng

trù phú

Tại huyện Cảnh Thái, thành phố Bạch Ngân, tỉnh Cam Túc, chính quyền địa phương phải đối mặt với 260.000 mẫu (hơn 17.000 ha) đất bị nhiễm mặn, kiềm hóa ở nhiều cấp độ. Từ năm 2016, họ khởi động một kế hoạch táo bạo: “chống mặn bằng nuôi thủy sản”.

đạt trên 250 kg tôm, cá mỗi mẫu, mang lại giá trị sản lượng hơn 1 triệu nhân dân tệ (khoảng 140.000 USD) mỗi năm trong hai năm gần đây.

Bà Triệu Quốc Hoa, một nông dân 45 tuổi, ở thôn Hưng Thủy, thị trấn Ngũ Phật, đã tận mắt chứng kiến sự thay đổi. Trong lúc thu hoạch những mẻ TTCT tươi rói bên bờ sông Hoàng Hà, bà kể: “Giờ tôi có thể làm việc gần nhà, vừa chăm sóc gia đình, vừa kiếm hơn trăm nhân dân tệ mỗi ngày”. Công thức thành công của Cảnh Thái được tóm gọn trong bốn bước: đào ao hạ mực nước - nâng ruộng tạo đất trồngkết hợp nuôi và trồng - phục hồi hệ sinh thái. Nhờ vậy, sáu khu vực bị ảnh hưởng nặng, gồm Ngũ Phật, Lư Dương và Thảo Ốt

Than, đã hình thành những trại thủy sản giữa vùng đất khô cằn.

Doanh nghiệp tiên phong trong dự án là Công ty Phát triển Công nghệ Nông nghiệp

Cảnh Thái Kim Thành, thành lập năm 2015.

Theo ông Châu Kim Thành, Giám đốc công ty, tổng diện tích nuôi trồng hiện vượt 120 mẫu (khoảng 8 ha). Năng suất trung bình

Công nghệ làm nên kỳ tích

Theo kỹ sư của Công ty Kim Thành, bí quyết thành công nằm ở việc điều chỉnh vi lượng khoáng trong đất và nước mặn kiềm để mô phỏng môi trường biển. Nhờ đó, hệ sinh thái ao nuôi ổn định, tôm phát triển nhanh, ít bệnh.

Công nghệ này được hoàn thiện dưới sự hướng dẫn của Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật Nuôi trồng Thủy sản nước mặn kiềm thuộc Viện Khoa học Thủy sản Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Thủy sản tỉnh Cam Túc và Đại học Nông nghiệp Cam Túc. Nhờ vậy, mô hình đã lan rộng từ thành phố Bạch Ngân đến các huyện khác như Lâm Trạch thuộc thành phố Trương Dịch, dọc theo hành lang Hà Tây.

Ông Cát Văn Long, Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư Cảnh Thái, cho biết: “Đất mặn không trồng được cây lương thực, nhưng lại

rất phù hợp cho thủy sản. Khi nuôi tôm, chất hữu cơ và vi sinh phát triển giúp cải thiện cấu trúc đất. Nói cách khác, tôm cá đang chữa lành đất”.

Chiến lược quốc gia

Phát triển nuôi trồng thủy sản trên đất mặn kiềm

không chỉ là câu chuyện của riêng Cam Túc. Đây là một chiến lược quốc gia của Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh đất nông nghiệp ngày càng khan hiếm.

Theo Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, cả nước có hơn 100 triệu mẫu đất mặn kiềm có thể khai thác cho thủy sản. Viện Khoa học Thủy sản Trung Quốc hiện đang nghiên cứu các giống thủy sản năng suất cao, chịu mặn tốt, không chỉ TTCT mà còn nhiều loài cá khác.

Mô hình Cảnh Thái được đánh giá là ví dụ tiêu biểu cho phát triển tổng hợp đất đai, hướng đi mà chính phủ Trung Quốc đang thúc đẩy để khai thác hiệu quả các vùng đất cận biên, vừa nâng giá trị kinh tế, vừa phục hồi môi trường.

Mục tiêu lâu dài là tạo vòng tuần hoàn bền vững, trong đó nuôi trồng thủy sản vừa mang lại sinh kế, đồng thời giảm độ mặn cho vùng đất lân cận, dần biến những vùng “chết” thành vùng “xanh”. Mô hình nuôi tôm chống mặn không chỉ là câu chuyện về sự sáng tạo của nông dân Trung Quốc, mà còn là minh chứng rằng nếu biết cách, ngay cả vùng đất khắc nghiệt nhất cũng có thể sinh ra mùa vàng.

DŨNG NGUYÊN (Theo Xinhua News)

Nâng cao chất lượng tôm giống

Ương tôm giống không chỉ là quá trình chăm sóc ấu trùng mà cần quản trị hệ sinh thái vi mô có kiểm soát. Khi môi trường ổn định, vi sinh cân bằng, dinh dưỡng đúng và vận hành chuẩn, tôm giống đồng đều, tỷ lệ sống cao, sức đề kháng mạnh và thích nghi tốt khi chuyển sang ao thương phẩm. Đây là nền tảng quan trọng nhất để đảm bảo hiệu quả kinh tế toàn chuỗi nuôi tôm.

Kiểm soát chất lượng nước là trụ cột trung tâm

Nước đầu vào phải được xử lý theo quy trình nhiều tầng: Lọc cơ học - lọc tinhkhử trùng - ổn định vi sinh. Nguồn nước biển hoặc nước pha mặn cần được lọc qua túi lọc 1 - 5 micron, sau đó khử trùng bằng

Chlorine hoặc Ozone với thời gian lưu đủ để tiêu diệt Vibrio và virus, rồi trung hòa bằng

Thiosulfate hoặc sục khí trước khi đưa vào bể. Việc cấp nước thẳng sau khử trùng mà chưa có giai đoạn gây lại vi sinh sẽ làm hệ thống dễ nhiễm Vibrio cơ hội sau này. Do đó, bước ổn định cần bổ sung probiotic chủng

Bacillus dị dưỡng nhằm tạo nền vi sinh cạnh tranh trong nước.

Trong quá trình ương, pH cần duy trì ổn định 7,8 - 8,2; Độ mặn trong khoảng 2832‰ cho tôm sú và khoảng 28 - 30‰ cho TTCT; kiềm ở 120 - 160 mg/L để hạn chế sốc lột xác. Nhiệt độ phải được giữ trong khoảng 28 - 300C và không biến động quá 10C/ngày.

Biến động nhiệt - đặc biệt khi chênh lệch ngày và đêm quá lớn khiến tỷ lệ hao hụt cao ở PL5 - PL12.

Quản lý vi sinh nước và đường ruột ấu trùng

Hệ vi sinh trong nước và đường ruột là yếu tố quyết định sức khỏe của ấu trùng tôm. Vibrio có mặt tự nhiên nhưng chỉ gây hại khi mất cân bằng. Vì vậy, mục tiêu không phải “diệt sạch vi khuẩn” mà là thiết lập quần thể vi sinh có lợi chiếm ưu thế. Probiotic phải được bổ sung hằng ngày, liều đúng và chủng đúng (Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Lactobacillus spp., nhóm enzyme phân hủy hữu cơ).

Kiểm soát thức ăn

Chất lượng tảo và rotifer quyết định sự phát triển sớm của Zoea và Mysis. Tảo nên được nuôi ở hệ thống riêng, không nuôi trực tiếp trong bể ương để tránh dao động pH và ôxy. Rotifer và Artemia phải được làm giàu HUFA và rửa sạch trước khi cho ăn. Nếu đưa Artemia không làm giàu vào hệ thống, PL sẽ yếu, rỗng ruột và dễ xuất hiện cong thân do thiếu DHA/EPA.

Chuyển thức ăn sang vi hạt cần tiến hành từ từ, không chuyển đột ngột. Hạt thức ăn phải có khả năng giữ cấu trúc trong nước để tránh gây đục nước và tăng chất hữu cơ. Quan sát ruột dưới kính để điều chỉnh tốc độ chuyển đổi.

Quản lý mật độ và lưu thông nước

Mật độ ương quá cao khiến ấu trùng cạnh tranh thức ăn, tăng stress và khó kiểm soát hệ vi sinh. Duy trì mật độ phù hợp theo sức chứa hệ. Dòng chảy trong bể phải tạo xoáy nhẹ liên tục giúp phân tán đều thức ăn và tránh tích tụ hữu cơ ở đáy. Các điểm “chết” không lưu thông là nơi Vibrio phát triển mạnh nhất. Trong giai đoạn hậu ấu trùng, lưu lượng thay nước có thể tăng dần nhưng phải ổn định, không thay đột ngột gây sốc áp lực thẩm thấu.

Đảm bảo quy trình vận hành và vệ sinh sinh học

Hệ thống thiết bị, bể ương, đường ống, dụng cụ phải có quy trình sát trùng và làm khô xen kẽ. Không sử dụng chung thiết bị giữa các bể để tránh lây nhiễm chéo. Nhân sự trong trại cần tuân thủ nguyên tắc: Đi từ bể khỏe → bể trung gian → bể yếu, không làm ngược lại. Cần lưu hồ sơ vận hành theo ngày: pH, kiềm, ôxy, mật độ vi sinh, biến động nhiệt, tỷ lệ ăn, tốc độ lột. Việc này cho phép phát hiện sớm sai lệch trước khi biểu hiện thành bệnh. PHƯƠNG ĐÔNG

Trong các hệ thống ương mật độ cao, việc lạm dụng Ozone hoặc Iodine kéo dài sẽ làm vi khuẩn có lợi suy giảm, từ đó tạo điều kiện cho Vibrio phục hồi và bùng phát trở lại mạnh hơn. Quy trình tối ưu là khử trùng mạnh trước khi vào bể, sau đó duy trì ổn định bằng vi sinh chứ không lặp lại khử trùng trong quá trình ương.

5 lưu ý ương tôm càng xanh trong ao nổi lót bạt

Ương tôm càng xanh trong ao nổi lót bạt giúp người nuôi chủ động nguồn giống, dễ kiểm soát môi trường và giảm rủi ro dịch bệnh. Tuy nhiên, nếu không chú ý kỹ thuật, tỷ lệ hao hụt sẽ cao, ảnh hưởng đến năng suất. Dưới đây là 5 điểm quan trọng cần lưu ý để đảm bảo tôm phát triển khỏe

mạnh và đạt tỷ lệ sống cao.

Chuẩn bị ao đúng kỹ thuật

Ao nổi cần xây dựng chắc chắn, diện tích 200 - 500 m², độ sâu 1,2 - 1,5 m. Toàn bộ khung ao được dựng bằng tre, gỗ hoặc sắt và lót bạt HDPE để giữ nước, ngăn rò rỉ và hạn

chế sinh vật xâm nhập. Trước khi cấp nước, bạt phải được cọ rửa sạch và khử trùng bằng vôi (100 g/m²) hoặc Chlorine liều phù hợp, sau đó xả bỏ và rửa lại. Nguồn nước cấp cần sạch, không nhiễm

phèn, hóa chất hay mầm bệnh. Trước khi

đưa vào ao, nước được lọc qua túi vải, lắng

2 - 3 ngày rồi xử lý Chlorine 20 ppm để diệt

khuẩn. Mực nước ban đầu 0,8 - 1 m, sau

đó nâng dần theo sự phát triển của tôm.

Chuẩn bị kỹ ngay từ đầu sẽ tạo nền tảng

môi trường ổn định, hạn chế hao hụt khi thả giống.

Chọn giống khỏe, thả đúng

mật độ

Giống tôm càng xanh phải được mua từ trại sản xuất uy tín, đảm bảo đồng đều, khỏe mạnh, không dị hình, không mang mầm bệnh. Giai đoạn ương thích hợp là tôm

post 15 - 20 ngày tuổi. Trước khi thả, tôm cần được thuần hóa bằng cách cân bằng nhiệt độ và pH trong túi đựng giống với môi trường ao 15 - 20 phút.

Mật độ ương hợp lý là 200 - 300 con/m². Với ao có hệ thống sục khí và thay nước tốt, mật độ có thể nâng lên 400 con/m². Tránh thả quá dày vì sẽ gây cạnh tranh thức ăn, giảm ôxy và dễ bùng phát dịch bệnh, làm hao hụt nhanh.

Quản lý chặt chẽ môi trường nước

Môi trường trong ao nổi có thể biến động nhanh do thể tích nước nhỏ, vì vậy cần kiểm soát các chỉ tiêu thường xuyên:

- Ôxy hòa tan: Duy trì > 4 mg/L bằng quạt nước hoặc sục khí đáy.

- pH: Giữ ổn định 7 - 8, không dao động quá 0,5 đơn vị trong ngày.

- Nhiệt độ: 26 - 300C, nên che lưới giảm nắng khi trời gắt.

- Độ trong: 30 - 40 cm, duy trì bằng cách thay nước định kỳ 20 - 30% và bổ sung vi sinh gây màu nhẹ.

Đặc biệt, phải kiểm soát NH₃ (< 0,1 mg/L) và NO₂ (< 0,5 mg/L). Khi vượt ngưỡng, cần thay nước ngay và bổ sung chế phẩm sinh học xử lý đáy. Quản lý tốt môi trường sẽ giảm stress cho tôm và hạn chế hao hụt.

Cho ăn hợp lý

Trong giai đoạn ương, tôm cần khẩu phần giàu dinh dưỡng, đặc biệt là đạm 35 - 40%. Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên kết hợp thêm cá băm nhỏ, ốc, trùn chỉ để kích thích tăng trưởng. Khẩu phần ăn dao động 10 - 15% trọng lượng thân/ngày, chia làm 3 - 4 lần. Người nuôi nên bố trí sàng ăn (1 sàng/20 - 30 m²) để kiểm soát lượng ăn và điều chỉnh kịp thời. Không cho ăn dư thừa vì thức ăn thừa sẽ phân hủy, gây độc tố, làm ô nhiễm môi trường và tạo điều kiện cho vi khuẩn Vibrio phát triển, dẫn đến chết rải rác. Ngoài ra, nên định kỳ bổ sung Vitamin C, men tiêu hóa và khoáng vi lượng để tăng sức đề kháng cho tôm.

Chủ động phòng bệnh và

giảm stress

Định kỳ sử dụng chế phẩm vi sinh để ổn định hệ vi sinh đường ruột và môi trường nước; Hút bỏ cặn đáy, duy trì độ sạch của ao để hạn chế mầm bệnh; Thường xuyên kiểm tra hoạt động, màu sắc, tốc độ lột xác của tôm để phát hiện sớm bất thường; Tránh thay nước đột ngột hoặc các tác động mạnh làm tôm bị sốc; Khi tôm giảm ăn hoặc bơi lờ đờ, cần xử lý môi trường ngay và giảm khẩu phần thức ăn. Thực hiện phòng bệnh tổng hợp, không lạm dụng kháng sinh mà ưu tiên biện pháp sinh học sẽ giúp tôm phát triển bền vững và giảm thiểu hao hụt.

BÍCH HÒA

trong

quả, người nuôi cần áp dụng các biện pháp xử lý phèn phù hợp, tạo điều kiện cho tôm phát triển khỏe mạnh.

Tác động

Ao nuôi nhiễm phèn rất khó gây màu

nước vì hợp chất tạo nên phèn từ Fe, Al rất khó tan làm cho tảo khó phát triển. Ảnh hưởng đến sử hoạt hóa các enzyme của thủy sinh vật trong ao nói chung.

Hàm lượng phèn cao làm giảm pH trong nước làm tôm khó lột xác, đặc biệt là đối với giai đoạn thả nuôi ban đầu, tôm còn nhỏ quá trình lột xác không hoàn toàn và dính vỏ làm giảm tỷ lệ sống của tôm, gây ra thất thoát rất lớn khi thu hoạch. Nếu điều chỉnh pH khoảng 7,3 - 7,5 tôm sẽ lột xác rất tốt.

Do hàm lượng Ca2+ và Mg2+ trong ao nhiễm phèn rất hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo vỏ của tôm, tôm thường bị thiếu hụt khoáng chất cho quá trình tạo vỏ.

Hầu hết các loài sinh vật trong ao đều chậm phát triển, tôm nuôi cũng vậy. pH trong ao thấp làm giảm tốc độ tăng trưởng của tôm so với các ao khác, màu sắc tôm cũng sẽ không đẹp,…

Nguyên nhân

Một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng nhiễm phèn trong ao nuôi tôm là do vùng đất xây ao chứa nhiều lưu

huỳnh (Sulfur). Chất này phối hợp với sắt có trong phù sa và lớp trầm tích dưới đáy ao để tạo thành FeS2, còn được biết đến với tên gọi Pyrite sắt hoặc phèn. Khi Pyrite tiếp xúc với không khí trong đất ẩm, nó sẽ bị ôxy hóa tạo thành Axit Sulfuric và ôxit sắt. Axit Sulfuric này sẽ làm tan sắt và các kim loại nặng khác như nhôm, kẽm, đồng có trong đất, từ đó tạo thành các chất tạp gây ra hiện tượng phèn cho ao.

Sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm hoặc không qua xử lý để nuôi tôm có thể gây nhiễm phèn. Nước ô nhiễm thường chứa các chất gây hại và ion phèn, ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.

Ngoài ra, hiện tượng mưa lớn, lũ lụt cũng có thể góp phần làm cho đất bị xói mòn và rửa trôi phèn xuống ao, tăng thêm nguy cơ phát sinh hiện tượng nhiễm phèn trong ao nuôi.

Dấu hiệu nhận biết

Đầu tiên, dấu hiệu dễ nhận biết đó là nước ao có màu trà nhạt, trong suốt hơn và có lớp váng vàng xuất hiện trên mặt nước. Người nuôi có thể kiểm tra thấy pH trong ao giảm. Vùng đất có chứa nhiều FeS2 (phèn) sẽ có màu xám đen.

Tôm trong ao có sự thay đổi màu sắc từ trong suốt sang vàng nhạt, sau đó là vàng đậm, là dấu hiệu cảnh báo. Khi sờ vào, vỏ tôm cảm thấy cứng hơn so với bình thường và mang tôm cũng chuyển sang màu vàng, trở nên cứng và giòn. Khả năng lột xác của tôm bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau các đợt mưa dài, dẫn đến việc chúng ngừng ăn. Trong trường hợp ao nuôi bị nhiễm phèn nặng, tôm có xu hướng di chuyển về phía bờ và chết rải rác, một phần do sự tắc nghẽn quá trình hô hấp bởi lượng phèn dính vào mang.

Phòng tránh

Chọn địa điểm xây dựng ao nuôi ở các vùng đất ít bị nhiễm phèn. Chuẩn bị và cải tạo ao nuôi thật kỹ, bón lót vôi đáy ao, sên rửa lại nhiều lần cho sạch trước khi cấp nước vào ao nuôi. Khuyến khích sử dụng vôi bột (CaO) để rắc xuống đáy ao và các bờ ao, với tác dụng khử trùng và hạ phèn trong ao. Đồng thời, quá trình phơi ao cũng cần tuân thủ đúng quy định, tránh phơi ao quá lâu để không gây ra nhiều vết nứt. Những vết nứt này có thể tạo điều kiện cho ôxy hóa FeS 2, khi cấp nước vào

ao các chất này sẽ tạo thành phèn đỏ rất

khó xử lý.

Nếu có điều kiện về mặt tài chính, việc sử dụng bạt để lót đáy ao giúp ngăn chặn xì phèn và giảm công đoạn xử lý phèn trong quá trình nuôi tôm.

Sử dụng nguồn nước sạch để nuôi tôm. Tránh sử dụng nước từ các nguồn ô nhiễm hoặc không rõ nguồn gốc. Kiểm tra và xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi để tránh tình trạng nhiễm phèn nặng, đảm bảo an toàn cho tôm.

Cập nhật thông tin về thời tiết và khí hậu để có biện pháp phòng ngừa kịp thời. Trong những ngày mưa lớn, người nuôi nên kiểm tra pH của nước thường xuyên và điều chỉnh khi cần thiết. Đồng thời, cần tăng cường hệ thống quạt nước để đảm bảo sự tuần hoàn và ôxy hóa của nước trong ao.

Lưu ý, sau mỗi trận mưa, nước mưa có chứa axit và lượng xì phèn trên bờ có thể trôi xuống ao làm giảm pH. Do đó, cần dùng Zeolite để keo tụ chất vẩn, sau đó sử dụng chế phẩm sinh học để khoáng hóa đáy ao, đồng thời dùng vôi Dolomite hòa vào nước ngọt 24 giờ; sau đó tạt đều xuống ao lúc 810 giờ đêm, liều lượng 1,7 kg/100 m3 nước. Nên rải vôi nông nghiệp quanh bờ ao trước

 SÁCH KỸ THUẬT

Bệnh thường gặp ở tômPhương pháp chẩn đoán

khi trời mưa. Đặc biệt, khi mưa to, mực nước ao nuôi lên cao, phải xả bớt nước mặt để tránh giảm độ mặn đột ngột và tràn bờ, vỡ bọng, cống, kết hợp quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nước.

Sử dụng các chế phẩm sinh học có lợi để cải thiện môi trường nước và ngăn ngừa nhiễm phèn. Các chế phẩm này có thể giúp phân hủy chất hữu cơ, cải thiện chất lượng nước và tăng cường sức đề kháng cho tôm.

Xử lý

Có nhiều phương pháp hạ phèn hiệu quả như sử dụng vôi, hóa chất,… Tuy nhiên, người nuôi cũng không nên lạm dụng vôi để xử lý phèn, vì việc sử dụng quá nhiều vôi có thể tạo ra thạch cao, gây hại cho môi trường ao nuôi.

Hiện nay, một trong những phương pháp phổ biến được nhiều người nuôi áp dụng để xử lý phèn trong ao là sử dụng chế phẩm vi sinh. So với cách dùng vôi hoặc hóa chất truyền thống, biện pháp này được đánh giá là an toàn, thân thiện với môi trường và mang lại hiệu quả bền vững hơn. Vi sinh giúp phân hủy các hợp chất hữu cơ trong bùn đáy, đồng thời trung hòa dần axit trong nước, góp phần ổn định pH và giảm độc tính của

 Khi phát hiện ao tôm bị nhiễm phèn, cần có biện pháp hạ phèn trong ao ngay lập tức để ngăn chặn tình trạng phèn gia tăng gây ảnh hưởng đến môi trường nước và sự phát triển của tôm.

kim loại nặng như sắt, nhôm - những yếu tố thường gặp ở vùng đất phèn. Ngoài ra, các chủng vi sinh có lợi còn hỗ trợ cân bằng hệ vi sinh trong ao, hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh, từ đó cải thiện sức khỏe tôm và giảm rủi ro trong quá trình nuôi. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao, người nuôi cần chọn sản phẩm vi sinh uy tín, sử dụng đúng liều lượng và định kỳ theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Kết hợp với việc quản lý tốt nguồn nước, duy trì độ kiềm và bón vôi hợp lý, việc sử dụng vi sinh xử lý phèn không chỉ giúp ổn định môi trường ao nuôi mà còn góp phần hướng đến mô hình nuôi tôm an toàn, bền vững và thân thiện với môi trường.

THANH HIẾU

Tôm nòng nọc

Nghề nuôi tôm, đặc biệt là TTCT tại các tỉnh ven biển, đang phát triển mạnh và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, tôm dễ mắc một số bệnh nguy hiểm, và nếu người nuôi không có biện pháp phòng trị hiệu quả thì rất dễ rơi vào cảnh thua lỗ, thậm chí phá sản. Vì vậy, bên cạnh các kỹ thuật nuôi, việc đảm bảo an toàn dịch bệnh cho tôm đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều này đòi hỏi người nuôi phải nắm vững kiến thức cũng như phương pháp chẩn đoán và phòng trị các bệnh thường gặp. Cuốn sách “Bệnh thường gặp ở tôm - Phương pháp chẩn đoán và phòng trị” do PTS Trần Thị Minh Tâm và GS.TS Đái Duy Ban biên soạn hỗ trợ các cơ sở, trang trại và người nuôi tôm phát triển bền vững, tránh được những bệnh phổ biến trên tôm. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp đã phát hành!

NAM CƯỜNG

Là một trong những loài giáp xác cổ nhất hành tinh. Chúng có thể đã cùng sinh tồn với nhà khủng long cách đây cả 220 triệu năm, và chẳng cần tiến hóa thêm chút nào mà vẫn sống tốt. Do là loài thủy sinh, chúng có mặt ở hầu hết các môi trường nước ngọt từ Châu Âu đến Châu Á. Rất dễ để nhận diện tôm nòng nọc, bởi chúng có cái đuôi như đuôi tôm và phần đầu hao hao cua móng ngựa. Trong điều kiện nuôi nhốt, tôm nòng nọc chỉ phát triển đến 6 cm. Tuy nhiên trong tự nhiên, chúng có thể đạt kích thước 11 cm. Tôm nòng nọc có khả năng đặc biệt là có thể “gia cố” trứng để hàng thập kỷ sau vẫn thuận lợi nở thành con. Bằng cách tiết ra trehalose - một loại đường không thấm nước, tôm nòng nọc giữ trứng của chúng an toàn trong nước. Nếu môi trường sống không bị cạn, trứng sẽ nở thành con, tiếp tục vòng đời. Còn ngược lại, chúng sẽ duy trì trạng thái cho đến khi gặp được điều kiện thích hợp.

LÊ LOAN

 BÁCH KHOA THƯ

HỎI - ĐÁP

 Hỏi: Xin tư vấn các biện pháp kỹ thuật để chuẩn bị cho nuôi tôm vụ Đông?

(Phạm Công Hải, xã Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh)

Trả lời:

Cải tạo và chuẩn bị ao nuôi: Ao có diện tích thích hợp nhất từ

2.000 - 3.000 m2, độ sâu từ 1,5 - 1,8 m, được lót bạt, có hệ thống cấp thoát nước, ao lắng,… hoàn chỉnh. Trước khi nuôi, cần có biện pháp cải tạo tốt như: vệ sinh hoặc tháo dỡ lớp bạt cũ rồi bón vôi với liều 15 - 17 kg/100 m3, phơi đáy từ 5 - 7 ngày,… sau đó cấp nước vào ao khoảng 1,2 - 1,4 m.

Xây dựng và chuẩn bị nhà bạt: Sử dụng cột bê tông từ 5 - 6 m để làm trụ đỡ, tiếp theo chăng dây cáp bọc nhựa để tạo khung, đồng thời tạo cửa ra vào thuận tiện cho việc chăm sóc và quản lý. Có thể xây nhà bạt, hình chóp nón hoặc nhà 2 mái, sau cùng phủ một tấm bạt mỏng lên để tránh bị chăng dây đè cáp,… Xử lý nước và gây màu: Có thể sử dụng phân vô cơ NPK, DAP hoặc cám gạo, bột đậu nành, bột cá nấu chín,… trộn với men bánh mì ủ chua bón liên tục từ 3 - 5 ngày đến khi nước có màu đạt yêu cầu. Ngoài ra, người nuôi có thể bổ sung thêm các chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản để tạo môi trường nuôi tốt hơn, cân bằng tảo và tạo nguồn thức ăn tự nhiên khi thả tôm.

Con giống: Người nuôi nên lựa chọn nguồn giống từ các cơ sở uy tín, có giấy xét nghiệm âm tính với các bệnh trong danh mục các bệnh bắt buộc do cơ quan chuyên môn cấp.

 Hỏi: Tôm có dấu hiệu yếu dần, bơi tấp mé bờ, phản ứng chậm chạp, giảm ăn. Ban đêm quan sát thấy thân tôm phát sáng màu trắng. Hỏi nguyên nhân và biện pháp khắc phục?

(Nguyễn Sơn Đông, xã Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa)

Trả lời:

Theo mô tả, có thể tôm bị bệnh phát sáng. Bệnh phát sáng trên tôm có thể được gây ra với nhiều nguyên nhân khác nhau, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của tôm nuôi.

Vi khuẩn Vibrio Harveyi: thường gặp ở các ao nuôi có độ mặn cao, vi khuẩn này phát triển mạnh khi nhiệt độ nước tăng, hàm lượng chất hữu cơ cao, hàm lượng ôxy hòa tan thấp. Các vi khuẩn này tiết ra enzyme Luciferase theo cơ chế phát quang gây ra sự phát sáng ở tôm (có thể nhìn thấy bằng mắt thường vào ban đêm).

Sự hiện diện của nhóm tảo roi - Dinoflagellate: Các loại tảo làm nước phát sáng bao gồm các chủng: Peridinium, Ceratium, Gymnodinium và một số loại tảo giáp, mặc dù chúng không gây bất lợi cho tôm nhưng nó có thể tiết ra chất độc gây bệnh cho tôm, làm tôm giảm ăn và chậm tăng trưởng.

Để điều trị, có thể dùng thuốc kháng sinh, dùng đúng loại thuốc, đúng liều lượng, đúng thời gian. Việc sử dụng kháng sinh chỉ có kết quả khi phát hiện bệnh sớm. Bổ sung đa vitamin và men tiêu hóa vào thức ăn. Diệt khuẩn nước trong ao và khử trùng dụng cụ, thiết bị.

Để phòng bệnh, không nuôi tôm ở độ mặn quá cao. Hạ độ mặn để ức chế vi khuẩn phát sáng. Vào mùa Hè, duy trì mức nước trong ao nuôi từ 1,2 - 1,5 m và độ trong của nước từ 30 - 40 cm để hạn chế khả năng tăng nhiệt.

Giữ môi trường ổn định: Kiểm tra chất lượng nước (pH, kH, độ đục, màu sắc, tảo) và đáy ao thường xuyên để xử lý kịp thời. Tăng cường chạy sục khí. Sử dụng men vi sinh, đường cát, định kỳ.

Giảm chất hữu cơ trong nước: Kiểm tra sàng ăn hàng ngày, điều chỉnh thức ăn hợp lý, không để thừa thức ăn làm ô nhiễm nước và đáy ao. Định kỳ thay nước, xi phông đáy, hút bùn, để giảm bớt chất hữu cơ trong ao.

Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho tôm: Bổ sung Vitamin C, men tiêu hóa và khoáng vi lượng vào thức ăn để tạo kháng thể, giúp tôm có sức đề kháng, giảm căng thẳng cho tôm nhất là khi có thay đổi môi trường nước hoặc biến động thời tiết.

 Hỏi: Nguyên nhân khiến pH trong ao tôm xuống thấp? Biện pháp khắc phục?

(Trần Quốc Hùng, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Cà Mau)

Trả lời: Nguyên nhân đầu tiên khiến nước ao tôm bị pH thấp có thể đến từ quá trình xử lý ao nuôi không được tốt. Trong quá trình xử lý ao nuôi, nếu không vệ sinh sạch chất thải của vụ nuôi cũ, không bón đủ vôi xử lý cũng như không phơi ao đủ thời gian sẽ khiến chất thải tồn đọng cũng như ao còn nhiễm phèn. Do tác động của thiên nhiên, hiện tượng này thường xuất hiện ở các ao nuôi có độ mặn thấp hoặc nuôi tôm trái vụ vào mùa mưa hoặc những ao nuôi trên những vùng đất nhiễm phèn tiềm tàng. Ngoài các nguyên nhân trên, thì điều khiến pH trong nước nuôi tôm giảm có thể đến từ các tác nhân trong lòng ao.

Để tăng pH, cách thông thường là sử dụng vôi nung (CaO) hay vôi tôi (Ca(OH)2). Cần kiểm tra chất lượng nước thường xuyên, nếu pH và độ kiềm thấp cần bón vôi nông nghiệp CaCO3 với lượng 200 - 300 kg/ha, liên tục trong 2 - 3 ngày. Trước những cơn mưa lớn cần rải vôi tôi Ca(OH)2 xung quanh bờ ao với lượng 10 - 20 kg/ m2 để tránh hiện tượng pH giảm thấp đột ngột. Trong trường hợp muốn pH tăng nhanh, nên sử dụng 50 - 100 kg Ca(OH)2, bón khi trời mát, chiều tối hoặc trời mưa. Trường hợp mưa nhiều ngày liên tục, pH nước ao giảm mạnh và kèm theo hiện tượng tôm chết mềm vỏ. Nguyên nhân là pH nước mưa thấp (6 - 7) kéo pH nước ao cũng xuống thấp, khí H2S tăng độc tính; lượng nước mưa lớn cũng kéo theo độ mặn và độ kiềm giảm mạnh. Giải pháp là người nuôi thường xuyên theo dõi dự báo thời tiết địa phương để có bước chuẩn bị phòng chống trước; đắp gờ bờ ao cao ngăn chặn nước mưa chảy xuống ao; rải vôi quanh bờ ao ngay trước cơn mưa để tránh pH xuống thấp; Nếu biết được dự báo thời tiết sắp có mưa lớn kéo dài, nên bổ sung vôi, khoáng trước đó.

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.