4 minute read

Dòng chảy và xi phông trong cách lắp đặt “ theo chiều ngang”

DÒNG CHẢY VÀ XI PHÔNG TRONG CÁCH LẮP ĐẶT ‘THEO PHƯƠNG NGANG’

Hình 4.17 minh họa kiểu lắp đặt hiện đang được sử dụng trong một số tòa nhà lớn như bệnh viện được xây dựng trên diện tích sàn lớn. Ngay cả mức sử dụng cao điểm của các thiết bị trong ngày cũng không thể tạo ra dòng chảy liên tục. Nước thường đi dọc theo cống chính thành từng đợt, mang theo chất rắn theo từng giai đoạn dọc theo đường ống đến các ống nước thẳng đứng.

Hình 4.17 Sơ đồ minh họa việc bố trí hệ thống thoát nước trong một tòa nhà có mặt bằng sâu

Khái niệm cho rằng các vật liệu rắn có thể cần nhiều lần xả nước để có thể thông cống ‘ngang’ và thông được đến ngăn nước đặc biệt có ý nghĩa liên quan đến việc sử dụng các vật dụng dùng một lần như khăn trải giường làm từ giấy papier maˆ che´. Các đơn vị xử lý khăn trải giường sẽ thải ra một loại bột giấy có thể có độ dày lớn khi xử lý nhiều lớp trải giường cùng một lúc. Bột giấy có xu hướng nằm trong ống dẫn lưu và gây tắc nghẽn. Xả từ WC lên phía thượng lưu của kết nối từ bộ phận lót sàn đến cống chính giúp giữ cho cống luôn thông thoáng (xem hình 4.17).

Ví dụ, với các thiết kế được sử dụng cho bệnh viện, các chất thải được xả qua nhà vệ sinh có thể đi trong các đường ống trơn, thẳng, 100 mm để xả, dòng chảy ra từ nhánh phải làm lệch dòng thẳng đứng để đi vào ống nước và kết quả là, tạo ra một áp suất ngược. Điều này có tác dụng làm chậm dòng chảy của nhánh và, nếu áp suất ngược vượt quá đầu gây ra dòng chảy, nước có thể tràn vào lại thiết bị. Vấn đề này khác với các hiệu ứng khí nén đã được xem xét. Các thử nghiệm xả thải với các bồn tắm của một hệ thống thí nghiệm bốn tầng cho thấy mức độ rắc rối mà hiện tượng này có thể gây ra ở các tòa nhà nhiều tầng. Người ta thấy rằng tốc độ dòng chảy ở các tầng thấp hơn đã giảm khoảng 10 đến 15% khi một dòng chảy đáng kể đi xuống ống nước. Trong khi đây không phải là vấn đề nghiêm trọng ở hầu hết các tòa nhà ở Vương quốc Anh, để giải quyết vấn đề, có thể sẽ cần đảm bảo dòng chảy xuống có khoảng cách di chuyển lên đến 10 m trong một lần xả và sau đó bị mắc kẹt lại, di chuyển xa hơn trong lần xả tiếp theo. Các nút giao và khúc cua, đặc biệt là bán kính ngắn, làm chậm chuyển động như vậy và cũng cản trở việc vận chuyển hàng loạt chất thải mà kinh nghiệm cho thấy có thể đi vào hệ thống đường ống thoát nước - ví dụ như đầu lau, ống tiêm, xẻng và găng tay cao su. Theo kinh nghiệm, những cân nhắc như vậy cho thấy rằng sự tắc nghẽn đặc biệt có khả năng xảy ra với kiểu lắp đặt này. Do đó, cần phải đặc biệt cẩn trọng trong thiết kế và xây dựng.

Câu hỏi đặt ra là liệu dòng chảy trong cống chính có thể tạo ra xi phông hút của các bẫy nước được kết nối với nó hay không. Từ quan điểm này, các điều kiện trong cống chính ít nghiêm trọng hơn nhiều so với trong các ống nước thẳng đứng. Các cống có đường kính 100 mm thường chỉ chảy đầy một phần và tốc độ nước không vượt quá 1 m / s. Không khí bị hút ít hơn nhiều so với dòng chảy trong các ống nước thẳng đứng và sự thay đổi áp suất không khí cũng ít hơn nhiều. Ví dụ, trong cách lắp đặt được thể hiện trong hình 4.17, các bề mặt giữ nước của WC, sâu khoảng 50 mm, thường không thể bị ảnh hưởng đáng kể ngay cả khi hoàn toàn không có lỗ thông hơi phụ. Với việc lắp đặt như vậy, khả năng tự hút

nước là yếu tố quan trọng hơn. Các cân nhắc về kiến trúc khuyến khích việc sử dụng Dây đai trong những trường hợp này có xu hướng làm nổi bật vấn đề tự hút như đã thảo luận ở trên. Vì các cân nhắc về kiến trúc và chi phí cũng hạn chế việc sử dụng các ống thông hơi riêng lẻ gần mỗi bẫy nước, yếu tố có thể hỗ trợ khắc phục vấn đề, một giải pháp là lắp các bẫy nước đóng kín đặc biệt trên các thiết bị thải trong các hệ thống như vậy trong bệnh viện. Van tiếp nhận không khí đôi khi cũng được sử dụng. Các bài học từ những phát hiện này đã được kết hợp vào các khuyến nghị thiết kế tiếp theo. Dòng chảy trong kiểu lắp đặt ‘theo chiều ngang’ được thảo luận kỹ hơn trong các chương 8, 9 và 11.

This article is from: