
11 minute read
1.3.2. Tìm tòi nghiên cứu khoa học
from Phát triển năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ hóa học trong dạy học phần hữu cơ 12
Nghiên cứu khoa học đó là nghiên cứu một cách khoa học hay nói một cách DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL chi tiết hơn thì nghiên cứu khoa học là một quá trình tìm tòi, học hỏi, giải thích, xử lý (nghiên cứu) một hoặc một vài vấn đề của xã hội một cách có khoa học. "Cách có khoa học" có nghĩa phải tuân thủ theo các bước sau: - Đặt vấn đề: Xác định vấn đề nghiên cứu trong đó đặt ra vấn đề cần giải quyết, tìm hiểu xem đã có ai giải quyết chưa, nếu chưa thì vấn đề có tính mới. Nếu có người nghiên cứu rồi thì phải tìm hiểu xem họ làm thế nào, cách làm của họ ra sao, có phù hợp với điều kiện của mình (cá nhân, nhóm, tổ chức, đất nước, xã hội và thị trường hướng tới) hay không? Nếu có điểm gì chưa phù hợp thì mình sẽ nâng cấp, kết hợp hoặc tìm một giải pháp để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất. - Giải quyết vấn đề: Giải quyết vấn đề cần thực hiện theo các bước sau: + Tìm giải pháp tối ưu dựa trên các vấn đề đã đề cập. Đánh giá giải pháp theo hướng ứng dụng , công nghệ. + Tổ chức thực hiện giải pháp để giải quyết vấn đề. + Đánh giá, hiệu chuẩn giải pháp đề ra: Các giải pháp đã được thực hiện cần phải được đánh giá, điều chỉnh lại cho phù hợp thực tế. + Đánh giá chất lượng giải pháp làm ra thông qua việc đo đạc, đánh giá được các đơn vị có chức năng đảm nhiệm. + Kết luận: Sau khi giải pháp đã được đo kiểm tra, xác định chất lượng bởi các đơn vị chức năng thì lúc này giải pháp mới được coi là hoàn thiện và có khả năng đưa vào ứng dụng. 1.3.2. Tìm tòi nghiên cứu khoa học 1.3.2.1. Khái niệm Mức độ NCKH của các nhà khoa học vĩ đại, các nhà khoa học trẻ, các đề tài của nghiên cứu sinh, thạc sỹ, sinh viên và HS trung học phổ thông là khác nhau. Nhiệm vụ chính của NCKH của HS phổ thông là trang bị cho HS các kiến thức, kĩ năng NCKH chung để hỗ trợ cho hoạt động học tập, giúp các em tích cự, sáng tạo, chuẩn bị hành trang cho HS tiếp tục học lên cao đẳng, đại học, học nghề, bước vào cuộc sống lao động. Chính vì vậy, khi tổ chức cho HS tiếp cận NCKH, mục tiêu trọng tâm hướng vào là phương pháp nghiên cứu hay quá trình tiến hành nghiên cứu (phát hiện vấn đề, xây dựng đề cương, tổ chức thực hiện, phương pháp thực hiện, tìm kiếm tài liệu, thu thập thông tin, thí nghiệm, quan sát, phân tích số liệu, thử nghiệm kết quả, viết báo cáo, trình bày báo cáo) mà chưa thể yêu cầu cao vào kết quả vào kết quả nghiên cứu sản phẩm cuối cùng như công trình nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà khoa học. Kết quả NCKH của HS cũng là sản phẩm mới đối với chính các em, có tác dụng nhất định đối với thực tiễn cuộc sống. Do đó thuật ngữ TTNCKH sẽ thay thế
cho thuật ngữ NCKH trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các môn khoa học tự DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL nghiên của HS là phù hợp hơn. 1.3.2.2. Vai trò của tổ chức hoạt động tìm tòi nghiên cứu khoa học trong việc việc phát triển năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ Hóa học cho học sinh Khi thực hiện TTNC KH, HS sử dụng một số kĩ năng tìm tòi, khám phá theo tiên trình: đặt câu hỏi cho vấn đề nghiên cứu, từ đó xây dựng giả thuyết, lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề, trình bày kết quả nghiên cứu. Trong quá trình TTNC HS tiến hành phân tích, rút ra những đặc điểm chung và riêng của một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên đồng thời sử dụng các minh chứng khoa học cần thiết và lí giải các minh chứng đó để rút ra kết luận. Vì vậy NLTHTGTN dưới góc độ hóa học được phát triển. 1.3.2.3. Một số phương pháp dạy học tích cực trong tổ chức tìm tòi nghiên cứu khoa học Phương pháp dạy tích cực là phương pháp dạy học mà ở đó người dạy là người đưa ra những gợi mở về vấn đề và cùng HS bàn luận, tìm ra mẫu chốt của vấn đề. Phương pháp này lấy sự chủ động tìm tòi, sáng tạo, tư duy của HS làm nền tảng, GV chỉ là người dẫn dắt vấn đề. Sử dụng phương pháp tích cực trong dạy học sẽ tích cực hóa người học, chất lượng học tập sẽ được nâng lên rõ rệt. HS không những chỉ hiểu những kiến thức sẵn có trên SGK mà họ hiểu sâu, rộng hơn rất nhiều và đặc biệt là học biết áp dụng những kiến thức hiểu biết được vào cuộc sống hàng ngày. Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực tuy nhiên trong phạm vi sáng kiến này, tôi chú trọng một số phương pháp dạy học tích cực sử dụng trong TTNCKH cho HS. a) Dạy học theo dự án PPDH theo dự án được hiểu như là một PPDH trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được HS thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện dự án. PPDH theo dự án gồm 5 bước Bước 1. Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thể hóa. Trong một số trường hợp, việc đề xuất đề tài có thể từ phía HS. Bước 2. Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này, với sự hướng dẫn của GV, HS xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, cách tiến hành, người phụ trách mỗi công việc… Bước 3. Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Bước 4. Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện dự án có
Advertisement
thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm dự án cũng có thể là tranh, DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL ảnh, panno… để triển lãm, cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như: Diễn một vở kịch, tổ chức một cuộc tuyên truyền, vận động thực hiện nếp sống văn hóa mới trong cộng đồng dân cư,…Sản phẩm dự án có thể được trình bày giữa các nhóm HS, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội. Bước 5. Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo. b) Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề PPDH phát hiện và GQVĐ là PPDH trong đó GV tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để GQVĐ và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và GQVĐ là “ tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”. PPDH phát hiện và GQVĐ gồm 4 bước: Bước 1. Phát hiện và thâm nhập vấn đề - Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề. - Giải thích và chính xác hóa tình huống( khi cần thiết) để hiểu đúng vấn đề được đặt ra. - Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu GQVĐ đó. Bước 2. Tìm giải pháp (Tìm cách GQVĐ) + Phân tích vấn đề: Làm rõ mối liên hệ giữa cái đã biết và cái cần tìm (dựa vào những tri thức đã học, liên tưởng tới kiến thức thích hợp). + Hướng dẫn HS tìm chiến lược GQVĐ thông qua đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ chức dữ liệu, huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán suy luận như hướng đích, quy lạ về quen, đặc biệt hóa, chuyển qua những trường hợp suy biến, tương tự hóa, khái quát hóa, xét những mối liên hệ và phụ thuộc, suy xuôi, suy ngược tiến, suy ngược lùi,… Phương hướng đề xuất có thể được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng GQVĐ là hình thành được một giải pháp. + Kiểm tra tính đúng đắn của giải pháp: Nếu giải pháp đúng thì kết thúc ngay, nếu không đúng thì lặp lại từ khâu phân tích vấn đề cho đến khi tìm được giải pháp đúng. Sau khi đã tìm ra một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải pháp khác, so sánh chúng với nhau để tìm ra giải pháp hợp lí nhất. Bước 3. Trình bày giải pháp HS trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề cho tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề. Bước 4. Nghiên cứu sâu giải pháp Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả. Đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ xét tương tự, khái quát hóa, lật ngược vấn đề,… và giải quyết nếu có thể.
c) Dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL Những gì tôi nghe, tôi sẽ quên; những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ; những gì tôi làm tôi sẽ hiểu (Khổng Tử) Điều đó cho thấy tầm quan trọng của học tập từ thực tế hoạt động và đây được coi là những nguồn gốc tư tưởng của “giáo dục trải nghiệm” Theo Hiệp hội giáo dục trải nghiệm quốc tế thì giáo dục trải nghiệm là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị sống và phát triển tiềm năng bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội. Người dạy có thể là GV, tình nguyện viên, hướng dẫn viên, bác sĩ tâm lí,… Nó nói lên tính đơn giản, đa dạng, phổ biến và ứng dụng của “giáo dục trải nghiệm”. Người học sẽ phát huy một cách toàn diện về trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kĩ năng và các quan hệ xã hội của bản thân trong quá trình tham gia; yêu cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được. Thông qua giáo dục trải nghiệm, người học được tham gia tích cực vào việc: Đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm. Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều học được từ trải nghiệm đó, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm của cá nhân đó trong tương lai. Quy trình dạy học thông qua trải nghiệm được thể hiện bằng “vòng tuần hoàn” theo mô hình 5 bước khép kín như dưới đây. GV điều hành lớp; HS thảo luận nhóm, làm bài tập, đóng vai, trò chơi mô phỏng,…; HS thông báo kết quả, cảm tưởng, phản ứng và phát hiện ra cách GQVĐ; GV và HS cùng nhau phân tích theo hướng: Ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao,…; GV khái quát hóa kiến thức và đúc kết bài học và những hướng vận dụng kiến thức vào thực tế. Các hình thức thường vận dụng trong dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm - Thảo luận nhóm. - Nghiên cứu tình huống. - Đóng vai, trò chơi. - Học tập từ thực tế. Với phương pháp học thông qua trải nghiệm luyện được cho HS về kiến thức và kĩ năng học tập, tìm tòi, phân tích và áp dụng thực tiễn. Nhờ vậy, các em sẽ có được một kho tàng kiến thức vững chắc, trang bị cho bản thân kĩ năng xã hội một cách toàn diện.