AL
cho thấy ý c), d) được chọn nhiều nhất, có mức tương đồng, điều này cũng cho thấy giáo viên có sự quan tâm đến việc rèn kĩ năng thực hành cho HS, xem khả
năng tiếp thu kiến thức lý thuyết của HS như thế nào thông qua việc HS vận
CI
dụng kiến thức để giải bài tập; ý a) cũng được chọn gần 15%, ý b) chiếm số ít
FI
chỉ một vài phiếu được chọn khoảng 5%.
Với giáo viên: Đối với hoạt động nhóm tại lớp có 93% ý kiến cho là rất
OF
cần thiết và cần thiết. Đối với hoạt động nhóm thông qua bài tập về nhà có 86% ý kiến cho là rất cần thiết và cần thiết. Phần 6
ƠN
Với học sinh: Hầu hết số HS (90%) đều nhận ra lời giải 2 là đúng, một số ít chọn sai do không quan tâm đến câu trả lời. Đa số đều nhận định lời giải 1, 3 sai. Tuy nhiên việc giải thích vì sao sai thì đa số học sinh đều không giải
NH
thích rõ ràng. Chỉ có khoảng 10% học sinh quan tâm giải thích cả hai lời giải sai, còn lại khoảng 20% giải thích được một lời giải sai. Điều này chứng tỏ một số HS do không quan tâm đến câu trả lời, một số do khả năng phân tích, phản
Y
biện chưa tốt.
QU
1.6.6. Nhận xét và đánh giá
Chúng tôi nhận thấy, GV đều có sự nhận biết về TDPB và và ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển TDPB cho HS, thế nhưng trong quá
M
trình dạy học Toán lại không chú trọng đến việc phát triển TDPB.
KÈ
Theo chúng tôi các hạn chế có thể do những nguyên nhân sau: - GV quen với cách dạy học truyền thống, HS tiếp nhận kiến thức dưới
sự chỉ đạo chặt chẽ của GV nên không có thái độ phản biện. GV chưa dành thời
DẠ Y
gian đủ cho HS thực hiện các hoạt động học tập như: trình bày ý kiến, quan điểm của mình vì sợ trễ giờ, dạy không kịp bài theo phân phối chương trình. - GV chưa hiểu TDPB rõ ràng, chính xác nên không biết cách khai thác
nội dung dạy học như thế nào để rèn luyện TDPB cho HS. 33